KHOA LUẬT
PHẠM KIM THOA
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa
Hµ néi - 2007
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG
6
THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
1.1.
Sự cần thiết phải nghiên cứu và quy định về xử lý nợ xấu
6
1.2.
Khái niệm nợ xấu
8
1.3.
Thực trạng nợ xấu ở khu vực ngân hàng thương mại nhà nước
14
1.4.
Nguyên nhân nợ xấu
18
1.4.1.
Nguyên nhân khách quan
18
1.4.2.
Nguyên nhân chủ quan
25
1.4.2.1. Về phía ngân hàng thương mại nhà nước
25
1.4.2.2. Nguyên nhân do chủ quan của khách hàng
29
1.4.2.3. Những nguyên nhân khác
31
1.5.
Hậu quả của nợ xấu
32
Chương 2: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU, THÀNH TỰU VÀ MỘT
35
SỐ BẤT CẬP VỀ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN XỬ
LÝ NỢ XẤU
2.1.
Cơ sở pháp lý và các biện pháp xử lý nợ xấu
35
2.1.1.
Nợ quá hạn do vị phạm Quy chế tín dụng
37
2.1.2.
Nợ quá hạn do nguyên nhân rủi ro ngoài khả năng kiểm soát
37
2.1.3.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân
hàng thương mại (AMC)
43
2.1.4.
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC)
45
2.1.5.
Cấp bổ sung vốn
46
2.1.6.
Cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương
mại nhà nước
48
2.1.7.
Quỹ dự phòng rủi ro
50
2.2.
Kết quả xử lý nợ xấu
51
2.3.
Một số bất cập về pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu
54
2.3.1.
Pháp luật ngân hàng liên quan đến xử lý nợ xấu
54
2.3.2.
Pháp luật dân sự và đất đai liên quan đến xử lý nợ xấu
61
2.3.3.
Luật Doanh nghiệp nhà nước liên quan đến xử lý nợ xấu
65
2.3.4.
Luật Doanh nghiệp liên quan đến xử lý nợ xấu
68
2.3.5.
Pháp luật về phá sản doanh nghiệp liên quan đến xử lý nợ
xấu
69
2.3.6.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 liên quan đến xử lý
nợ xấu
70
2.4.
Các khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu
71
Chương 3: KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
75
VỀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ
XỬ LÝ NỢ XẤU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ
NƯỚC
3.1.
Kinh nghiệm nước ngoài
75
3.2.
Thách thức đặt ra đối với hệ thống ngân hàng thương mại
nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
77
3.3.
Giải pháp xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nhà nước
79
3.3.1.
Quản trị rủi ro tín dụng
79
3.3.2.
Nâng cao năng lực cạnh tranh các ngân hàng thương mại
nhà nước
82
3.3.3.
Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước
84
3.3.4.
Xử lý tốt công nợ
84
3.3.5.
Cải cách ngân hàng thương mại nhà nước và môi trường chính
sách vĩ mô
85
3.3.6.
Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
85
3.3.7.
Sửa đổi các quy định về phân loại nợ
86
3.3.8.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân
hàng thương mại (AMC)
86
3.3.9.
Xây dựng hoàn thiện cơ chế thị trường mua bán nợ
87
3.3.10.
Pháp luật cho vay
87
3.3.11.
Sáp nhập, mua lại, giải thể, phá sản ngân hàng
88
KẾT LUẬN
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
PHỤ LỤC
98
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ xấu ngân hàng trong những năm gần đây tăng nhanh. Sự tồn đọng
và phát triển của nợ xấu đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nợ xấu gia
tăng sẽ có tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước và
cho toàn bộ hệ thống tài chính của Việt Nam. Chính vì vậy, nghiên cứu các
căn nguyên cũng như thực trạng của nợ xấu sẽ khiến cho việc giải quyết bài
toán về nợ có thể trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.
Tuy vậy, hiện nay có rất nhiều điểm bất cập trong quá trình xử lý nợ
xấu ngân hàng, đặc biệt là ở khối các ngân hàng thương mại nhà nước. Quy
định về lộ trình, các biện pháp xử lý nợ và các văn bản hướng dẫn thi hành
còn thiếu nhiều quy định cần thiết, nhiều điểm còn chưa hợp lý, bất cập, các
văn bản luật chuyên ngành khác còn quá cứng nhắc, không phù hợp với thực
tiễn. Chính vì vậy, dù đã nỗ lực rất nhiều và đã có những thành tựu đáng kể
trong tiến trình làm lành mạnh hóa ngân hàng trong những năm qua, dư nợ
giảm mạnh nhưng số nợ xấu tuyệt đối vẫn tiếp tục tăng lên. Điều này khiến
cho ngành ngân hàng, cũng như cả nền kinh tế không tránh khỏi lo âu. Đặc
biệt, vào tháng 12 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sức ép của sân chơi này đối với
các ngân hàng thương mại nhà nước không phải là nhỏ, khi đó là một trong
những lĩnh vực phải cam kết mở cửa và cải cách mạnh mẽ nhất. Vấn đề nợ
xấu lại được đưa ra, vì xử lý được nợ sẽ nâng cao tiềm lực ngành ngân hàng,
duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế vĩ mô. Thực tiễn và
lý luận đều đòi hỏi quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này sâu sắc và
chính xác hơn nữa. Chính vì vậy, nghiên cứu tổng thể các chính sách cũng
như pháp luật về xử lý nợ xấu, tiến tới hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực còn
rất nhiều lỗ hổng này là một việc làm tương đối cấp bách trước chủ trương cổ
phần hóa ngân hàng thương mại của Nhà nước hiện nay, vừa đáp ứng mục
1
tiêu phát triển kinh tế, vừa tạo bước đệm cho lĩnh vực ngân hàng - tài chính có
được sự bảo hộ cần thiết khi gia nhập WTO.
Với mục đích góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
xử lý nợ xấu ngân hàng nói chung, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng,
việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp của đề tài "Pháp
luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam" để
tìm ra những định hướng và giải pháp bổ sung, hoàn thiện quy phạm pháp
luật trong vấn đề này là một nhu cầu bức thiết và có ý nghĩa về cả lý luận và
thực tiễn.
2. T×nh h×nh nghiªn cøu
Xử lý nợ xấu ngân hàng là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Mỗi nhà khoa học có một cách khám phá, khai thác đề tài này ở những góc độ
khác nhau. Ví dụ, bài "Tình hình xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương
mại Việt Nam thời gian qua - những tồn tại, vướng mắc và giải pháp tháo gỡ
nhằm ngăn ngừa và xử lý nợ tồn đọng" của Trần Minh Tuấn, Phó Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước; "Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam" của TS. Lê Quốc Lý, Bộ Kế hoạch Đầu tư;
"Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh" của Trần Đình Định, Phó
Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam;
"Nợ xấu - Một số thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" của Ngô Minh Châu,
Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam; "Cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt
Nam" của TS. Nguyễn Thị Phương Lan, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu
khoa học Ngân hàng; "Vấn đề xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng và của doanh
nghiệp" của TS. Nguyễn Đình Tài, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương; "Cần gắn việc xử lý nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng
thương mại Việt Nam với tổng thể xử lý công nợ dây dưa của nền kinh tế quốc
dân" của TS. Nguyễn Viết Hồng, Giám đốc Công ty BAMC - Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam… Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích rất
2
nhiều yếu tố và tìm hiểu dưới nhiều góc độ nhưng đa phần đều dừng ở góc độ
nghiệp vụ của ngành, chưa đi sâu về các khía cạnh luật pháp. Chính vì vậy, dù
ý thức được tầm quan trọng của công tác xử lý nợ, nhưng do luật pháp trong
vấn đề này còn thiếu và yếu nên việc xử lý nợ chưa mang lại kết quả tốt đẹp
theo như mong muốn của các bên có liên quan. Ở góc độ luật pháp, hiện nay
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể vấn đề nợ xấu, dù
đây là vấn đề gây bức xúc, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh toàn diện và cụ thể
của các nhà làm luật.
3. Môc ®Ých nghiªn cøu vµ nhiÖm vô cña luËn v¨n
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng các luận cứ lý luận và
thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao khả năng xử lý nợ xấu của các
ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát
triển của các định chế ngân hàng với các tiêu chuẩn quốc tế.
Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về nợ xấu.
- Phân tích, đánh giá một cách khoa học và đầy đủ về nguyên nhân,
thực trạng, kết quả đạt được và những bất cập trong việc xử lý nợ xấu của các
ngân hàng thương mại nhà nước trong những năm qua.
- Xác định nhu cầu thực tiễn phải hoàn thiện các giải pháp xử lý nợ
xấu đối với các ngân hàng thương mại nhà nước.
- Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết nợ xấu của ngân hàng
thương mại.
- Đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ
xấu ngân hàng thương mại nhà nước.
4. Đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xử lý nợ xấu của các ngân hàng
thương mại nhà nước tại Việt Nam trong những năm vừa qua.
3
* Phạm vi nghiên cứu: Các ngân hàng thương mại nhà nước như: Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Công thương Việt Nam
(ICB), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (VBARD),
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), Ngân hàng Nhà và đồng bằng sông
Cửu Long (MHB).
* Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu: Luận văn được thực hiện dựa
trên những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước. Những chủ trương đó
được thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đại hội Đảng, đặc biệt là Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Luận văn vận dụng rất nhiều
phương pháp khác nhau trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu là sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, để hoàn thành
luận văn, người viết còn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác, để luận
văn có tính lý luận và thực tiễn cao:
- Phương pháp biện chứng, lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp điều tra xã hội học, hội thảo và chuyên gia.
- Phương pháp mô hình hóa, hệ thống hóa.
5. §ãng gãp cña luËn v¨n
* Về tư liệu: Hệ thống hóa tư liệu, tài liệu, văn bản pháp lý về hoạt
động xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại nhà nước.
* Về nội dung khoa học:
Thứ nhất, lần đầu tiên vấn đề xử lý nợ xấu được nghiên cứu một cách
toàn diện và hệ thống về lý luận cũng như thực tiễn.
Thứ hai, luận văn tiếp cận việc tìm hiểu, nghiên cứu về nợ xấu, xử lý
nợ xấu, nguyên nhân thực trạng nợ xấu và các phương án cũng như kết quả xử
4
lý nợ xấu. Từ đó đề ra một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao chất lượng và
hiệu quả của hoạt động xử lý nợ xấu các ngân hàng thương mại nhà nước nói
riêng và của cả hệ thống ngân hàng nói chung.
Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến nợ xấu, trên cơ sở phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về pháp
luật xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nhà nước. Kết quả nghiên cứu của
luận văn có giá trị tham khảo trong công tác xây dựng, nghiên cứu và áp dụng
pháp luật nhất là trong bối cảnh chúng ta tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng
thương mại nhà nước lớn trong năm 2007 và trong quá trình cải cách ngân
hàng theo cam kết và lộ trình với WTO.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nợ xấu của ngân hàng thương mại
nhà nước.
Chương 2: Giải pháp xử lý nợ xấu, thành tựu và một số bất cập về
pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu.
Chương 3: Kinh nghiệm nước ngoài và một số đề xuất về giải pháp
hoàn thiện khung pháp luật về xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nhà nước.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ XẤU
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NGHIÊN CỨU VÀ QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ
NỢ XẤU
Là trung gian tài chính, các ngân hàng là cầu nối đầu tư và tiêu thụ,
tạo đà phát triển nền kinh tế theo xu hướng tăng về chất lượng và hàm lượng.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế chuyển đổi, để có thể phát triển kinh tế đi đôi
với ổn định xã hội, các quốc gia cần phải chú trọng và xây dựng được một hệ
thống ngân hàng vững mạnh và hoạt động hiệu quả vì ngân hàng phản ánh
sức khỏe nền kinh tế.
Các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam, bao gồm: BIDV, ICB,
VCB, MHB, VBARD vẫn đang chiếm giữ hơn 70% huy động vốn và 80% thị
phần tín dụng nhưng có mức tỷ lệ nợ quá hạn rất cao; tỷ lệ lãi /tài sản cố định
ở mức rất thấp. Các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam chỉ ở mức
trung bình khá so với các nước ở khu vực châu Á như Thái Lan, Singapore…
"Tỷ trọng vốn tự có / tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro hiện ở mức trên 5 %
trong khi các nước trong khu vực luôn lớn hơn hoặc bằng 8 %; chi phí nghiệp
vụ / tổng tài sản Có cao hơn tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy
động bình quân 1,5 lần trong khi các nước trong khu vực luôn nhỏ hơn 1" [27].
Hệ quả là, các ngân hàng thương mại nhà nước không phát huy được khả
năng sử dụng vốn, chất lượng phục vụ được cải tiến với tốc độ chậm, nếu
không nói là tương đối yếu so với thế giới. Có thể nói, các ngân hàng thương
mại nhà nước có chất lượng và hiệu quả hoạt động không cao. Do đó, xử lý
nợ xấu, nâng cao năng lực phòng ngừa và quản trị rủi ro là việc rất cần thiết.
Hơn nữa, việc gia nhập WTO đem đến cho đất nước chúng ta nhiều cơ
hội và thách thức hơn. Rõ ràng, khi bước vào sân chơi chúng ta phải có bản
6
lĩnh và năng lực thì mới có thể trở thành một người chơi xuất sắc. Trong một
sân chơi quá rộng và có nhiều anh tài, ngân hàng thương mại nhà nước Việt
Nam phải tự cải biến nội lực và nâng cao khả năng cạnh tranh. Xử lý nợ xấu
giúp ngân hàng có năng lực tài chính và sự lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng, kéo theo là niềm tin của giới đầu tư và các đối tác. Trên nền tảng tài
chính vững mạnh, không có quá nhiều rủi ro, việc nhận được nhiều vốn từ
kênh quốc tế với ngành ngân hàng sẽ trở thành hệ quả tất yếu.
Vì hoạt động chủ yếu dựa trên vốn vay của người có tiền nhàn rỗi
trong dân cư nên kinh doanh ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn.
Các ngân hàng thương mại nhà nước là "bà đỡ" cho nền kinh tế, là kênh rót
vốn đặc biệt quan trọng (phần lớn tổng nguồn tín dụng của 4 ngân hàng
thương mại nhà nước hàng đầu là dành cho doanh nghiệp nhà nước). Rủi ro
trong kinh doanh ngân hàng, gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ
giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro đạo đức… Những rủi ro này luôn
luôn đe dọa sự an toàn và lành mạnh của toàn bộ hệ thống. Trong các loại rủi
ro kể trên, rủi ro tín dụng được đánh giá là loại rủi ro nghiêm trọng nhất đối
với ngân hàng. Theo cuốn "Risk Management in Banking" của Joel Bessis thì
rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ
hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay. Sự hiện diện của
rủi ro tín dụng sẽ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống. Xử lý nợ xấu là cách hiệu
quả giúp cho ngân hàng tích lũy được vốn, nâng cao năng lực tài chính để có
thể đối phó được tất cả các rủi ro khác nhau.
Trong thời gian dài, các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có
nguồn tài chính hạn chế và thiếu vốn nghiêm trọng (Phụ lục 4, 5). Trong
khoảng 3 năm (từ năm 2002 - 2005). Chính phủ đã bổ sung 9.000 tỷ cho 4 ngân
hàng thương mại nhà nước lớn (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và
Phát triển, ngân hàng Công thương Việt Nam) chủ yếu là dạng trái phiếu
Chính phủ với lãi suất 3,3 %. Hàng năm các ngân hàng thương mại nhà nước
7
còn bổ sung thêm khoảng 3.000 tỷ dưới hình thức trích lập dự phòng và lợi
nhuận giữ lại, tuy nhiên nó vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các ngân
hàng. Rõ ràng, ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có nội lực yếu, nếu
không xử lý tốt nợ xấu thì dù có được rót vốn và sử dụng nhiều phương pháp,
các ngân hàng thương mại nhà nước có thể lâm vào tình trạng khó khăn vì nợ
xấu đã rút đi phần lãi rất lớn của ngân hàng.
1.2. KHÁI NIỆM NỢ XẤU
Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn mà người đi vay nợ không trả được
nợ cho ngân hàng. Các ngân hàng coi đây là khoản nợ không sinh lời cần theo
dõi và xử lý. Theo quan điểm của Ngân hàng Liên minh Châu Âu thì có thể
xác định nợ xấu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại như sau:
a. Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ
không có căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ;
- Người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích, không có gia tài
hoặc tài sản giữ lại để thanh toán nợ;
- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán
trong quá khứ nhưng phần còn lại không thể được đền bù, những
khoản nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh toán nợ nhưng giá
trị còn lại không đủ để trang trải toàn bộ nợ;
- Những khoản nợ mà người mắc nợ kết thúc hoạt động kinh
doanh hoặc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản
còn lại không đủ để trang trải toàn bộ nợ;
- Những khoản nợ mà người mắc nợ kết thúc hoạt động kinh
doanh hoặc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản
còn lại không đủ để trả nợ.
b. Nợ có thể thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
8
Những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa
ra để thế chấp nhưng không đủ.
c. Nợ có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
Đó là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài
sản đưa ra để thế chấp nhưng không đủ để trả nợ (ngân hàng không
thể thu hồi đầy đủ món nợ vì người mắc nợ rất khó kiếm được lợi
nhuận đầy đủ món nợ từ công việc kinh doanh) hoặc việc kinh
doanh đang bị thua lỗ trong một vài năm hoặc người mắc nợ không
liên lạc với ngân hàng để thanh toán lãi hoặc gốc kỳ hạn >1 năm kể
từ ngày đến hạn thanh toán hoặc hoàn cảnh chỉ rõ rằng phần lớn
tiền nợ sẽ không thể thu hồi được như:
- Ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc
không thể tìm được người mắc nợ.
- Người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu sắp xếp lại lịch
trả nợ nhưng không đền bù được nợ trong thời gian thỏa thuận.
- Tài sản thế chấp không đủ để trả nợ và hoàn trả khi đến
hạn hoặc tài sản thế chấp ở ngân hàng không được chấp thuận về
mặt pháp lý và hoạt động kinh doanh của người mắc nợ bị thua lỗ
trong một vài năm hoặc việc kinh doanh bị chấm dứt hoặc đang
trong quá trình thanh lý tài sản.
- Những khoản nợ đến hạn thanh toán và hoàn cảnh cho
thấy sự can thiệp của tòa án phải được thực hiện đến cùng hoặc tòa
án can thiệp buộc việc trả nợ phải được thực hiện.
- Tòa án tuyên bố người mắc nợ bị phá sản và ngân hàng đã
yêu cầu trả nợ và cho rằng phần bồi hoàn sẽ ít hơn dư nợ [31].
Định nghĩa trên là một định nghĩa của quốc tế về nợ xấu - Nó thể hiện
tiêu thức về nợ xấu. Nó cũng thể hiện quản điểm phân loại nợ xấu gắn với các
nguyên nhân. Định nghĩa trên bao quát khá đầy đủ về bản chất nợ xấu khi
9
nhận định nợ xấu tổng thể dựa trên sự chậm trễ về thời hạn cũng như bản chất
khái niệm.
Theo ông Trần Đình Định, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam, có thể hiểu nợ xấu là nợ gốc, lãi không thu hồi được một phần
hay toàn bộ, là nợ không sinh lời bởi không thu được toàn bộ hay chỉ thu
được một phần lãi vay.
Có rất nhiều cách định nghĩa về nợ xấu. Có nhiều khái niệm có liên
quan nhưng không đồng nhất, như nợ xấu (bad debt), nợ quá hạn (non performing loans), nợ có vấn đề (doubtful debt). Chúng đều là các khoản nợ
gần như không có khả năng thanh toán và bắt buộc phải xử lý bằng bút toán
xóa nợ. Theo Điều 13, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng, ban hành kèm theo Quyết định 1627/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001, "khi
đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và
không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ
gốc hoặc lãi thì tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn".
Định nghĩa này vẫn tập trung ở sự phân tích về nợ xấu, dưới góc độ thời gian
mà chưa chú ý đến bản chất khoản nợ.
Hiện nay nợ xấu được định nghĩa trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22 tháng 4 năm 2005 (sau đây gọi tắt là Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN)
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04
năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Theo đó, nợ xấu (bad debt) hay còn gọi là nợ không hoạt động (non performing loans) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4 và 5 quy định tại Điểm 3,
khoản 1, Điều 1 Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007,
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập
10
và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Điều 7
của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được ban hành theo
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được phân loại theo phương pháp "định
lượng" và "định tính". Theo phương pháp "định lượng", nợ xấu gồm 3 nhóm:
Nhóm 3: Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b
khoản này;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3
điều này.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3
điều này.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày
trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
11
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa
bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3
điều này.
Theo phương pháp " định tính", tại Điều 7của Quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của các tổ chức tín dụng ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì
nợ xấu gồm 3 nhóm:
- Nhóm 3: Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm: Các khoản nợ được tổ
chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến
hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất
một phần nợ gốc và lãi.
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của các tổ chức tín dụng đã phản ánh một nhu cầu cấp bách, đó là sự phân
biệt về tính chất của nợ xấu so với các loại nợ khác như nợ tồn đọng, nợ khó
đòi... Quyết định trên đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối
với các tổ chức tín dụng và việc thi hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN sẽ
đánh giá đúng bản chất và chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Việc
thi hành các quy định mới đòi hỏi nhiều thay đổi tại các ngân hàng, chẳng hạn
như yêu cầu đủ vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn khác để trích lập dự phòng
12
cũng như các thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhân sự, hệ thống thông
tin và dữ liệu để quản lý nợ quá hạn. Mặt khác, các quy định mới cũng đặt ra
những yêu cầu đối với Ngân hàng Nhà nước trong việc phát triển cơ cấu tổ
chức và nhân sự để đáp ứng các yêu cầu thực tế. Ngân hàng Nhà nước sẽ có
những thông tin chính xác hơn về nợ xấu, chất lượng hoạt động tín dụng của
từng tổ chức tín dụng và toàn hệ thống tổ chức tín dụng, đồng thời ngân hàng
Nhà nước có thể chủ động và có tầm nhìn bao quát hơn trong đánh giá khả
năng quản lý, kiểm soát nội bộ và khả năng chịu đựng rủi ro của các chủ thể
này. Không những thế, Ngân hàng Nhà nước cũng có khả năng quản lý, thanh
tra, giám sát các tổ chức tín dụng tốt hơn. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng còn là một công cụ hỗ trợ thực hiện
đánh giá tổ chức tín dụng theo CAMELS. Sau hai năm ban hành Quy định về
việc phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng (Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN), vừa qua ngân hàng Nhà nước
đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong văn bản pháp luật này bằng Quyết định
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết
định số 493/2005/QĐ-NHNN. Cụ thể, rõ ràng và phù hợp với điều kiện thực tế
của các tổ chức tín dụng là những tiêu chí mà Ngân hàng Nhà nước hướng đến
khi soạn thảo và ban hành. Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04
năm 2007, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
đã quản lý rủi ro chặt chẽ hơn đối với các cam kết ngoại bảng.
Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN , các khoản bảo
13
lãnh, chấp nhận thanh toán và cam kết cho vay không hủy ngang vô điều kiện và
có thời điểm thực hiện cụ thể (gọi chung là các cam kết ngoại bảng) phải được tổ
chức tín dụng đánh giá, phân loại theo 5 nhóm thay vì chỉ phân vào nhóm 1 như
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Điều này có nghĩa, các cam kết ngoại bảng có
mức độ rủi ro tín dụng tương đương với các khoản nợ nội bảng được phân
loại chặt chẽ hơn, phản ánh chính xác hơn rủi ro tín dụng của tổ chức tín dụng.
Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007, về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, đã cụ thể và làm
rõ hơn một số quy định của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy
định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng. Nhưng với đặc thù là các quy định mang tính
nguyên tắc, nên đòi hỏi khi triển khai thực hiện, tổ chức tín dụng cần căn cứ
tình hình cụ thể thực tế và các quy định liên quan để đưa ra các hướng dẫn nội
bộ chi tiết, phù hợp hơn với đặc thù hoạt động của mình, đảm bảo việc quản
lý rủi ro tín dụng được thực hiện tốt.
Theo đó, việc kiểm soát dựa trên đánh giá chất lượng tài sản sẽ trở
thành nhiệm vụ thường xuyên của các thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Ngân
hàng Nhà nước sẽ phải xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát trong việc
thực hiện nhiệm vụ đánh giá đó. Do chi phí phát sinh từ những thay đổi trên
sẽ chuyển sang khách hàng vay nên chi phí cho vay có thể tăng hơn. Việc cho
vay có bảo đảm sẽ trở thành sự ưu tiên của các ngân hàng để giảm gánh nặng
về dự phòng rủi ro.
1.3. THỰC TRẠNG NỢ XẤU Ở KHU VỰC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
NHÀ NƢỚC
Vào những năm 1990, tỷ lệ nợ quá hạn cao trên 20% so với tổng dư
nợ đã gây đổ vỡ nhiều tổ chức tín dụng, gây ra khủng hoảng toàn diện hệ
thống ngân hàng thương mại cổ phần và hợp tác xã tín dụng ở nước ta, gây
14
nên sự bất bình, thiếu tin tưởng vào hệ thống ngân hàng trong suốt thập kỷ 90.
Nhờ có sự xử lý mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng và nền kinh tế bắt đầu có
những sự phát triển mới, tuy vậy tỷ lệ nợ xấu vẫn rất cao.
Tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng /Tổng dư nợ (Phụ lục 1):
Trong năm 1995, để xử lý các khoản nợ của các doanh nghiệp
mà xét thấy không thể thu hồi được, Chính phủ đã phải tính đến
giải pháp khoanh nợ và xóa nợ. Tổng số nợ quá hạn của các doanh
nghiệp tại các ngân hàng thương mại nhà nước được Chính phủ
khoanh lại từ năm 1995 trở về trước để xử lý trong đợt tổng thanh
toán nợ giai đoạn 2 là 2233, 2 tỷ đồng. Cơ cấu như sau: Nợ xấu lên
lưới thanh toán tại Ngân hàng Ngoại thương là 1606 tỷ đồng, bằng
18,2% so với tổng vốn huy động, bao gồm: 570 tỷ đồng đủ điều kiện
được xóa, chiếm 35,5 % tổng số nợ lên lưới thanh toán; nợ xấu tại
Ngân hàng Công thương là 472 tỷ đồng, bằng 3,6 % tổng số vốn
huy động, bao gồm: 421 tỷ đồng đủ điều kiện được xóa, chiếm
89,2% tổng số nợ lên lưới thanh toán; nợ xấu tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển là 117 tỷ đồng, bằng 7,1% vốn huy động, bao gồm:
87,5 tỷ đồng đủ điều kiện được xóa, chiếm 74,7% tổng số nợ lên
lưới thanh toán; Nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn là 38,2 tỷ đồng, bằng 0,2% tổng số vốn huy động, bao
gồm: 38,2 tỷ đồng đu điều kiện được xóa, chiếm 100% tổng số nợ
lên lưới thanh toán [33].
Dù có nhiều biện pháp xử lý nhưng nợ xấu ngân hàng thương mại nhà
nước ở Việt Nam vẫn tăng tốc độ phi mã.
Trong giai đoạn từ năm 1996 - 1998, nếu theo tiêu chuẩn Việt Nam tỷ
lệ nợ quá hạn khoảng 13% song theo tiêu chuẩn quốc tế lại không dưới 30%
(báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) quí IV năm 2001), tương đương với
những nước có tỷ lệ nợ quá hạn đặc biệt cao.
15
Nếu theo số liệu của ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối năm 2000, nợ
của các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam chiếm khoảng 10,78 % /
tổng dư nợ. Nếu tính cả các khoản nợ chờ xử lý, nợ phải trả thay, nợ thanh
toán công nợ giai đoạn II đã lên lưới thì tổng dư nợ quá hạn lên tới khoảng
15,8%/ tổng dư nợ cho vay - gấp 4 lần vốn tự có của các ngân hàng, có nghĩa là
về lý thuyết, các ngân hàng thương mại nhà nước đã lâm vào tình trạng phá sản.
Bảng 1.1: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng cho vay
(Tỷ lệ %)
2001
2002
2003
2004
Ngân hàng Công thương
17.19
13.09
9.97
3.5
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
4.08
5.3
3.1
1.72
Ngân hàng Đầu tư - Phát triển
3.51
4.63
4.71
4.49
Ngân hàng Ngoại thương
11.16
5.8
3.03
2.74
Tính đến cuối năm 2001, ngân hàng thương mại nhà nước chiếm tỷ
trọng dư nợ khoảng 70% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Việt Nam, với tỷ
lệ nợ quá hạn chiếm khoảng 23.000 tỷ.
Báo cáo nợ xấu 2005 cho thấy, các ngân hàng thương mại nhà nước
hơn 10.000 tỷ đồng, chiếm 2,7% tổng dư nợ. Tỷ lệ này tại các ngân hàng
thương mại cổ phần <2% nhưng số tuyệt đối là bao nhiêu và tỷ lệ đó có đúng
không thì còn phải bàn. Nếu theo dự tính của IMF (15%), nợ xấu cả nội và
ngoại bảng của các ngân hàng thương mại nhà nước là khoảng 6,2 tỷ USD
(13% GDP). Với mức độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khá cao (20%) thì tỷ
lệ nợ xấu tăng trưởng nhanh hơn tăng trưởng tín dụng. Nếu nợ xấu 2002 là
hơn 20000 tỷ đồng (7,2 % dư nợ) thì sang năm 2004 chỉ còn khoảng 13.000 tỷ
đồng. Năm 2005 nợ xấu được biết là ở khoảng 17.500 tỷ đồng nhưng tỷ lệ
giảm xuống chỉ còn 3,18% do tổng dư nợ tăng cao.
Kể từ khi có Quyết định phân loại nợ 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân
hàng Nhà nước, con số biểu thị nợ xấu đã có xu hướng giảm. Không ít ngân
hàng đã cho công bố những con số nợ xấu ở mức lý tưởng. Theo nguồn tổng hợp
16