®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
hoµng thÞ nga
ph¸p luËt vÒ thu håi ®Êt, båi th-êng,
C«ng tr×nh ®-îc hoµn thµnh
t¹i Khoa LuËt - §¹i häc Quèc gia Hµ Néi
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn Quang TuyÕn
Ph¶n biÖn 1:
gi¶i phãng mÆt b»ng ë viÖt nam hiÖn nay:
thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
Ph¶n biÖn 2:
Chuyªn ngµnh : LuËt kinh tÕ
M· sè
: 60 38 50
LuËn v¨n ®-îc b¶o vÖ t¹i Héi ®ång chÊm luËn v¨n, häp t¹i
Khoa LuËt - §¹i häc Quèc gia Hµ Néi.
Vµo håi ..... giê ....., ngµy ..... th¸ng ..... n¨m 2010.
tãm t¾t luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
hµ néi - 2010
Cã thÓ t×m hiÓu luËn v¨n
t¹i Trung t©m t- liÖu - Th- viÖn §¹i häc Quèc gia Hµ Néi
Trung t©m t- liÖu - Khoa LuËt §¹i häc Quèc gia Hµ Néi
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
6
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1.
Cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
6
1.1.1.
Đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
6
1.1.2.
Cơ sở lý luận của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
10
1.2.
Khái niệm và vai trò của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
13
1.2.1.
Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
13
1.2.1.1. Định nghĩa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
13
1.2.1.2. Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với một
số trách nhiệm pháp lý về bồi thường trong các lĩnh vực
pháp luật khác
15
1.2.2.
Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
19
1.2.3.
Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
22
1.2.3.1. Quan niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
22
1.2.3.2. Phân biệt giữa tái định cư với bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
22
1.2.4.
23
Vai trò của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.4.1. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trước hết là nhằm bảo
đảm lợi ích công cộng
23
1.2.4.2. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm giải
quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người bị
thu hồi đất
24
1.2.4.3. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư góp phần vào việc duy trì ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội
25
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
25
1.3.1.
Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993
25
1.3.2.
Giai đoạn sau khi ban hành Luật Đất đai năm 1993 đến trước
khi ban hành Luật Đất đai năm 2003
27
1.3.3.
Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
29
1.4.
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ở Trung Quốc - những gợi mở đối với Việt Nam
31
1.4.1.
Các trường hợp thu hồi đất và bồi thường thiệt hại
32
1.4.2.
Nguyên tắc bồi thường
33
1.4.3.
Thẩm quyền thu hồi đất
33
1.4.4.
Thực hiện việc bồi thường
33
1.4.5.
Quản lý nhà nước đối với đất sau thu hồi
35
1.4.6.
Một số gợi mở đối với Việt Nam
36
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
38
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
2.1.
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
38
2.1.1.
Quy định chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
38
2.1.1.1. Quy định về phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
38
2.1.1.2. Quy định về nguyên tắc chi trả bồi thường
41
2.1.2.
41
Những quy định về bồi thường về đất
2.1.2.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường về đất
41
2.1.2.2. Quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
42
2.1.2.3. Quy định về xác định giá đất tính bồi thường
47
2.1.2.4. Quy định về bồi thường khi thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân
54
2.1.2.5. Quy định về bồi thường khi thu hồi đất của tổ chức
60
2.1.3.
61
Những quy định về bồi thường, hỗ trợ về tài sản
2.1.3.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ về tài sản
61
2.1.3.2. Quy định về bồi thường, hỗ trợ về tài sản trong các trường
hợp cụ thể
62
2.1.4.
Quy định về các chính sách hỗ trợ di chuyển, ổn định đời
sống, ổn định sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc
làm cho người bị thu hồi đất
68
2.1.4.1. Quy định về hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, ổn định
sản xuất
68
2.1.4.2
69
Quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm
2.1.4.3. Quy định về hỗ trợ tái định cư cho người bị thu hồi đất
71
2.2.
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
74
2.2.1.
Những kết quả đạt được
74
2.2.2.
Một số tồn tại của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất
75
Chương 3:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
79
LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
3.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
79
3.2.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất hoàn
81
3.3.
Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
87
3.3.1.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn thông báo quyết định
thu hồi đất
87
3.3.2.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thu hồi đất và quản lý quỹ đất
đã thu hồi
88
3.3.3.
Sửa đổi, bổ sung quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư cho người có đất bị thu hồi
90
KẾT LUẬN
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GPMB
: Giải phóng mặt bằng
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất
SDĐ
: Sử dụng đất
UBND
: Ủy ban nhân dân
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
1.1
Sự khác nhau về bản chất giữa bồi thường và hỗ trợ
21
2.1
Bảng so sánh thời gian hưởng hỗ trợ ổn định đời sống và
ổn định sản xuất giữa Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với một nước nông nghiệp có khoảng 70% dân số là nông dân như
Việt Nam thì đất đai luôn là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm
đặc biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng việc xác định hộ
gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành
giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính
sự thay đổi cơ chế quản lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của
nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị trường;
dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với ngân
hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất - kinh
doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai.
Số lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v...
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường,
giải phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều trường
hợp, người dân do không đồng tình với phương án bồi thường của Nhà nước đã
không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi công công trình, ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực đến môi
trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi thường, người
bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người và khiếu kiện
vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội v.v... Để khắc phục
tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, hiệu quả của những giải
pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được ban hành dường
như chưa phù hợp với thực tiễn (đặc biệt là các quy định về giá đất bồi thường;
các quy định về tái định cư cho người dân bị thu hồi đất ở; giải quyết vấn đề
1
việc làm cho người bị mất đất sản xuất v.v...). Các tranh chấp, khiếu kiện liên
quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia tăng cả về số
lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung. Điều này cho thấy chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế, chính sách bồi thường nói chung
và các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
nói riêng nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Đây là lý do để tác giả lựa
chọn đề tài "Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở
Việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phân tích, tìm hiểu nội hàm của các khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất; nhận diện những đặc trưng cơ bản của các
khái niệm này;
- Tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Xác lập định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển
kinh tế trong lĩnh vực đất đai nói chung và về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng;
2
- Các quy phạm pháp luật thực định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
- Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất của Trung Quốc;
- Các báo cáo, tổng kết tình hình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
b. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm
vi nghiên cứu ở việc đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành từ năm 1987 (năm
ban hành Luật Đất đai lần đầu tiên) đến nay;
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa;
- Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước
và pháp quyền nói chung và về chính sách, pháp luật đất đai nói riêng trong
điều kiện kinh tế thị trường;
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau:
(i) Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh v.v. được sử dụng trong
Chương 1 tìm hiểu về một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
3
(ii) Phương pháp đánh giá, đối chiếu, diễn giải, điều tra v.v... được sử
dụng tại Chương 2 khi tìm hiểu về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
(iii) Phương pháp tổng hợp, quy nạp v.v. được sử dụng tại Chương 3
khi nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
4. Tình hình nghiên cứu đề tài và những đóng góp mới của luận văn
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một chế
định quan trọng của pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực
tiếp đụng chạm đến lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và
lợi ích của nhà đầu tư nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của giới
khoa học pháp lý nước ta;
Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên
cứu về lĩnh vực pháp luật này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là
các công trình nghiên cứu của các tác giả: Trịnh Thị Hằng Nga: Chế định
pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn Thạc sĩ luật
học, 1999; Nguyễn Vinh Diện: Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất, Luận văn Thạc sĩ luật học, 2006; Nguyễn Duy Thạch: Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn
thi hành tại thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ luật học, 2007; Đặng Anh
Quân: Bàn về giá đất khi bồi thường - Nên cao hay thấp? Tạp chí Tài nguyên
và Môi trường, số 8, 2005; Dự án khu đô thị Nam Thăng Long (CIPUTRA):
Từ những bất thường trong đền bù, giải phóng mặt bằng, của nhóm phóng
viên thời sự Báo Pháp luật Việt Nam, số 285, ngày 29/11/2005; Hoàng Lộc:
Nông dân góp vốn bằng …đất - Giải pháp đột phá trong đền bù giải tỏa, Thời
báo Kinh tế Việt Nam, số 253, ngày 21/12/2005 v.v... Các công trình này chủ
yếu đi sâu nghiên cứu về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa
tìm hiểu một cách thấu đáo khía cạnh hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi
4
đất. Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình trên đây,
luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dưới góc độ của pháp luật đất đai;
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc xây dựng các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; trên cơ sở đó chỉ ra tồn tại, bất cập
và nguyên nhân của những hạn chế này trong các quy định hiện hành;
Thứ ba, đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1.1. Đƣờng lối, chính sách của Đảng về bồi thƣờng, hỗ trợ, tái
định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất
còn là yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Hơn
nữa, dưới góc độ chính trị - pháp lý, đất đai còn là lãnh thổ quốc gia và gắn liền
với chủ quyền quốc gia. Trong luật pháp quốc tế không thể có khái niệm quốc
gia mà thiếu đi yếu tố đất đai - lãnh thổ quốc gia. Đối với một nước nông nghiệp
như nước ta, đất đai lại càng có vai trò và tầm quan trọng đặc biệt. Nhận thức
sâu sắc vấn đề này ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
quan tâm đến vấn đề đất đai. Vấn đề này được ghi nhận trong các cương lĩnh,
văn kiện của Đảng và được xác định là một yếu tố không thể thiếu được để
tập hợp, đoàn kết, giác ngộ các tầng lớp quần chúng nhân dân đi theo Đảng
làm cách mạng giải phóng dân tộc. Trong Luận cương Chính trị năm 1930,
Đảng ta đã xác định: "coi "thổ địa cách mạng" (cách mạng ruộng đất) cùng
với Cách mạng tư sản dân quyền là một trong hai mục tiêu chiến lược quan
trọng của Cách mạng Việt Nam, với các nhiệm vụ cụ thể là: "đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho người cày có ruộng" [20, tr. 94].
Như vậy ngay từ khi mới thành lập và chưa giành được chính quyền,
Đảng ta vẫn luôn luôn coi trọng và bảo vệ quyền lợi về đất đai cho mọi người
6
dân nói chung và người nông dân nói riêng. Quan điểm này được thực hiện
một cách nhất quán khi cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới: Giai
đoạn phát triển kinh tế, kiến thiết đất nước. Ngày 13/01/1981, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100/CT-TƯ về "Cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp" với nội dung quan trọng là tổ chức tốt việc giao diện tích ruộng đất
cho đội sản xuất, cho nhóm người lao động; khi diện tích giao khoán cho
người lao động được phân bố hợp lý thì có thể ổn định trong vài năm để xã
viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó. Chính sách khoán và giao đất sử
dụng ổn định đã từng bước đưa người lao động gắn bó chặt chẽ, lâu dài với
đất đai và bước đầu động viên nông dân hăng hái lao động, sản xuất; đồng
thời là "bước đầu quá trình xác lập địa vị làm chủ ruộng đất thực sự của người
lao động" [66, tr. 53].
Tiếp đó, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội toàn quốc
lần thứ VI của Đảng năm 1986 khởi xướng đã làm thay đổi căn bản về nội
dung chính sách, pháp luật đất đai: đất đai từ chỗ do tập thể các hợp tác xã,
các đơn vị, tổ chức của Nhà nước quản lý đã từng bước được giao cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Sự thay đổi tư duy của Đảng trong
lĩnh vực đất đai được đánh dấu bằng sự kiện: Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, trong đó khẳng định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản
xuất nông nghiệp và giao khoán ruộng đất ổn định, lâu dài cho hộ nông dân.
Tiến trình đổi mới tư duy này được tiếp tục ghi nhận trong các văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 và các Hội nghị Trung ương tiếp
theo, đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khóa VII, tháng 12/1991) và
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII, tháng 6/1992) đã khẳng định thực
hiện nhất quán chủ trương: "Ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu
dài; Nhà nước quy định bằng pháp luật việc thừa kế, chuyển quyền sử dụng
ruộng đất".
7
Để phấn đấu thực hiện mục tiêu: đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp phát triển mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã đề ra thì nước ta không thể không thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tuy nhiên, muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chúng ta phải giải quyết "bài toán" đất đai phục vụ cho việc xây
dựng các cơ sở công nghiệp, cơ sở kinh tế thông qua thu hồi đất của người sử
dụng đất (SDĐ). Nhận thức được vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, IX và các Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa VIII), Hội
nghị Trung ương 7 (lần 2), Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khóa IX) đã khẳng
định quan điểm của Đảng về vấn đề duy trì, củng cố chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai đi đôi với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ;
trong đó chú trọng thực hiện việc bồi thường cho người SDĐ khi Nhà nước
thu hồi đất. Đặc biệt, Nghị quyết số 26 ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã đề ra những chính sách quan trọng về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất, cụ thể:
- Chính sách đất đai phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà
đầu tư và người SDĐ, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước,
của xã hội;
- Nhà nước có quyền thu hồi đất nông nghiệp được quy hoạch vào
mục đích xây dựng đô thị, kết cấu hạ tầng;
- Quy định rõ loại đất có liên quan đến quốc phòng, an ninh và có quy
chế đặc biệt về quy hoạch sử dụng và giao loại đất này;
- Cần thực hiện tổng hợp các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo
nghề để tạo việc làm; đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp và những biện
pháp hỗ trợ khác để giải quyết một cách cơ bản việc làm và thu nhập cho
người nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng, phát
triển kinh tế - xã hội;
8
- Khi Nhà nước thu hồi đất của cá nhân hoặc tổ chức đang sử dụng
hợp pháp để phục vụ các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng và phát triển sản xuất - kinh doanh, Nhà nước thực hiện chế độ
bồi thường, tái định cư, đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm. Nhà nước thu hồi
không bồi thường đối với đất lấn chiếm, đất sử dụng không hiệu quả, không
đúng mục đích;
- Chính phủ quy định khung giá đất cho từng địa bàn, trong từng thời
gian (có điều chỉnh theo tình hình thực tế) và nguyên tắc, phương pháp xác
định giá đất. Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quy định giá cụ thể làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất;
- Phải lập và xây dựng khu tái định cư trước khi thu hồi đất đối với
những dự án thu hồi đất đang sử dụng; đồng thời chú trọng đào tạo để chuyển
đổi nghề cho lao động tái định cư. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và đào
tạo việc làm theo nguyên tắc "bảo đảm cho người bị thu hồi đất đến chỗ ở
mới có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ";
- Nhà nước có quy hoạch tổng thể về SDĐ trên địa bàn cả nước tạo
điều kiện cho các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch triển khai đồng bộ việc
bồi thường, tái định cư và hỗ trợ tạo việc làm khi thu hồi đất;
- Phải chú ý phân chia hợp lý phần giá trị tăng thêm do việc quy hoạch
và xây dựng cơ sở hạ tầng mang lại; đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước,
lợi ích của người đang SDĐ hợp pháp bị thu hồi và lợi ích của Nhà đầu tư,
trong đó phải chú trọng lợi ích của Nhà nước. Chính sách điều tiết này được
tiếp tục khẳng định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khóa IX): "Thực hiện
chính sách điều tiết để đảm bảo lợi ích của Nhà nước với tư cách là người đại
diện chủ sở hữu và là Nhà đầu tư lớn nhất phát triển hạ tầng, làm tăng giá trị
của đất" [25, tr. 10].
Như vậy, Nghị quyết số 26 Hội nghị Trung ương 7 (lần 2) khóa IX đã
đề ra quan điểm, đường lối khá đầy đủ và toàn diện về việc bồi thường thiệt
9
hại khi Nhà nước thu hồi đất trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm, đường lối
này đã được Luật Đất đai năm 2003 thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.1.2. Cơ sở lý luận của việc bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ khi
Nhà nƣớc thu hồi đất
Nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề bồi thường cho người SDĐ khi Nhà nước
thu hồi đất, chúng tôi nhận thấy chế định này được xây dựng và hình thành
trên những cơ sở lý luận chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa
trên cơ sở quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến
pháp năm 1946 đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản:
"Quyền sở hữu về tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm" (Điều 12).
Quyền này tiếp tục được khẳng định trong bản Hiến pháp năm 1992: "Công
dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp... Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" (Điều 58).
Hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 còn long trọng tuyên bố: "Tài sản hợp pháp
của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị
trường…" (Điều 23).
Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ
chức đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
thì toàn bộ tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thu hồi của người đang SDĐ
đều phải được bồi thường theo giá thị trường;
Thứ hai, xét về bản chất, Nhà nước ta là Nhà nước do nhân dân lao
động thiết lập lên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
10
Nhà nước theo đuổi sứ mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn là phục vụ và
chăm lo cho lợi ích, sự phồn vinh của người dân. Đặt trong bối cảnh đó, thì
khi Nhà nước thu hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kể mục đích gì
(cho dù là sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng và phát triển kinh tế) mà làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ phải bồi thường;
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người SDĐ
là hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Hơn
nữa, trong điều kiện nhà nước và pháp quyền, mọi chủ thể trong xã hội bao gồm
Nhà nước, công dân, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội v.v... đều bình
đẳng với nhau trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng một xã hội dân
sự văn minh và hiện đại nơi mà ở đó quyền lợi hợp pháp của mọi thành viên
trong xã hội phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Với cách tiếp cận như vậy,
khi Nhà nước thu hồi đất mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người
SDĐ thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho họ;
Thứ tư, Nhà nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh" trong điều kiện chịu rất nhiều thách thức do quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đem lại. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của xu thế toàn cầu
hóa về kinh tế, chúng ta phải biết phát huy nội lực, tinh thần đoàn kết toàn
dân tộc và khơi dậy lòng yêu nước, tính năng động, sáng tạo của mỗi người
dân đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước. Điều này chỉ có thể thực
hiện được khi Nhà nước biết tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi chính đáng
của người dân. Đây cũng là một lý do dẫn đến việc ra đời chế định bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ năm, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài:
11
Nhìn lại thành tựu 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước có
thể nhận thấy rằng những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi mới tư
duy mà hạt nhân cơ bản là đổi mới tư duy về sở hữu tài sản. Để giải phóng
mọi năng lực sản xuất của người lao động, tạo lập một động lực mới cho sản
xuất nông nghiệp, Đảng ta đã rất sáng suốt khi lựa chọn và thực hiện việc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp làm khâu đột phá cho toàn bộ
quá trình cải cách kinh tế với việc từng bước xác lập địa vị làm chủ của hộ gia
đình, cá nhân đối với đất đai thông qua giao đất cho họ sử dụng ổn định, lâu
dài và mở rộng các quyền năng cho người SDĐ. Như vậy, "kể từ đây quyền
sử dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai
chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền về
tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất" hay nói cách khác, "quyền sở hữu
đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện; còn quyền sử dụng đất thuộc
sở hữu của người sử dụng đất" [64, tr. 83]. Chính nhờ việc tìm ra cách thức
giao quyền SDĐ cho người lao động trên cơ sở vẫn giữ nguyên chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai nhằm duy trì sự ổn định về chính trị - xã hội tạo tiền đề cho
việc phát triển kinh tế mà Việt Nam và Trung Quốc "gặp nhau" ở điểm chung
này và hai nước đã thực hiện thành công cuộc cải cách kinh tế mà không gặp
phải thất bại như Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước
đây. Đánh giá về vấn đề này, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: "Sáng tạo
ra khái niệm "quyền sử dụng đất" cả người Việt Nam và người Trung Quốc
dường như đã tạo ra một khái niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa
tầng: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song quyền sử dụng đất lại thuộc về cá
nhân hoặc tổ chức" [49, tr. 169]. Cùng chung quan điểm này, GS.TSKH. Đặng
Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận xét: "Chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta chỉ mang tính thuật ngữ,... Quyền
lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất ở nước ta không khác so với quyền lợi
và nghĩa vụ của chủ sở hữu đất đai ở các nước" [74].
Như vậy, bằng việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền của người
SDĐ thì dường như người SDĐ ở nước ta là người "sở hữu" một loại quyền
12
về tài sản đó là "quyền sử dụng đất". Bởi lẽ, người SDĐ được pháp luật trao
cho các quyền năng liên quan đến quyền SDĐ: quyền chuyển nhượng, chuyển
đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế quyền SDĐ; quyền thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền SDĐ. Như vậy, một khi pháp luật đã thừa nhận
quyền SDĐ là một loại quyền về tài sản của người SDĐ, thì khi Nhà nước thu
hồi đất (có nghĩa là người SDĐ bị mất quyền SDĐ do hành vi thu hồi đất của
Nhà nước gây ra), Nhà nước phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho người SDĐ;
1.2. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.2.1. Khái niệm bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1.1. Định nghĩa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống hàng ngày, bồi thường là một thuật ngữ được sử dụng
trong trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ
phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình
gây ra. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "Bồi thường: đền bù những tổn
hại đã gây ra" [77, tr. 79].
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một
chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm
này được rất nhiều các ngành luật đề cập như trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong lĩnh vực pháp luật dân sự; trách nhiệm bồi thường oan,
sai do hành vi của các cơ quan tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự;
trách nhiệm vật chất do hành vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp
luật lao động v.v...
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù)
thiệt hại để thực hiện giải phóng mặt bằng ở Việt Nam đã được đặt ra từ rất
sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ (nay là
Chính phủ) "Quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất", tại Chương II
đã đề cập đến việc "Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng". Tiếp
13
- Xem thêm -