Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định của cơ quan điều tra...

Tài liệu Phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định của cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
94
13
112

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ DIỆP PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ DIỆP PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI – 2008 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÊ CHUẨN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................................................................................... 11 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA ........................................... 11 1.1.1. Khái niệm phê chuẩn ......................................................................................... 11 1.1.2. Mục đích ý nghĩa của việc phê chuẩn trong tố tụng hình sự ............................ 16 1.2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÊ CHUẨN TRONG LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY ....................................... 18 1.2.1. Giai đoạn 1945-1960 ......................................................................................... 18 1.2.2 Giai đoạn 1960 – 1988 ....................................................................................... 21 1.2.3. Giai đoạn 1988 – 2003 ...................................................................................... 23 1.3. VÀI NÉT VỀ THỦ TỤC PHÊ CHUẨN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI ..................................................................................... 25 1.3.1. Hoa Kỳ ............................................................................................................. 25 1.3.2. Cộng hoà Pháp .................................................................................................. 26 1.3.3. Cộng hoà liên bang Đức .................................................................................... 28 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 33 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CẦN CÓ SỰ PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ........ 33 2.1.1. Thủ tục phê chuẩn các lệnh bắt của Cơ quan điều tra ....................................... 35 2.1.2. Thủ tục phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn khác ............................................ 44 2.1.3. Thủ tục phê chuẩn khởi tố bị can ...................................................................... 51 2.1.4. Thủ tục phê chuẩn việc khám xét, thu giữ điện tín, bƣu kiện, bƣu phẩm ......... 56 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................................................................................................... 58 2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc .................................................................................... 58 2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót ................................................................................... 61 2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG NÀY .................................................. 62 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan ...................................................................................... 62 2 2.3.2 Nguyên nhân khách quan ................................................................................... 64 2.3. CÁC YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ XU HƢỚNG ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................ 66 CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................... 70 3.1. GIẢI PHÁP VỀ NGUỒN NHÂN LỰC .............................................................. 70 3.2. GIẢI PHÁP VỀ CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT VÀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA ................................................................................ 75 3.2.1. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất cho các Viện kiểm sát ................................. 75 3.2.2. Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra ......... 76 3.2.3. Tăng cƣờng tính độc lập của Viện kiểm sát ...................................................... 80 3.3. GIẢI PHÁP VỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT .................... 81 3.3.1. Hƣớng dẫn cụ thể một số quy định của BLTTHS để thực hiện nghiêm chỉnh thống nhất .................................................................................................................... 81 3.3.2. Sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến thủ tục phê chuẩn của VKS ............................................................................................................ 84 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 90 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Danh mục Chữ viết tắt 1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 2. Cơ quan điều tra BLTTHS CQĐT 3. Điều tra viên ĐTV 4. Kiểm sát viên KSV 5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 6. Viện Kiểm sát PLTCĐTHS VKS 7. Viện kiểm sát nhân dân VKSND 4 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Danh mục Trang 1. Biểu 2.1: So sánh số quyết định khởi tố bị can bị VKS huỷ trên cả nƣớc năm 2005-2007 59 2. Biểu 2.2: So sánh số bị can đình chỉ vì không phạm tội trên cả nƣớc trong các năm 2005-2007 60 3. Bảng 2.3: Thống kê tội phạm theo tội danh trên cả nƣớc trong ba năm 2005-2007 67 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) ra đời đã đánh dấu một bƣớc tiến đáng kể trong lịch sử công tác lập pháp nói chung và đặc biệt là trong lịch sử công tác xây dựng pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng. BLTTHS đã đƣợc sửa đổi một cách tƣơng đối toàn diện Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 theo hƣớng tăng cƣờng trách nhiệm và quyền hạn cho Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đặc biệt là trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và cụ thể hoá các trách nhiệm và quyền hạn này một cách rõ nét hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. VKSND hay còn đƣợc gọi là Viện kiểm sát (VKS) vẫn giữ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Đồng thời, BLTTHS cũng đã quy định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn về vai trò của VKS trong việc phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra (CQĐT) trong tố tụng hình sự đó là “... quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT... trong trƣờng hợp không phê chuẩn thì phải nêu rõ lý do”[điều 112; 4]. Chính sự cụ thể hoá này cũng thể hiện rõ nét hơn trách nhiệm của VKS đối với các trƣờng hợp oan, sai trong tố tụng hình sự đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội 11 về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Theo quy định tại các văn bản này, nếu phát sinh vấn đề oan, sai trong tố tụng hình sự thì: đối với các quyết định tố tụng của CQĐT mà VKSND đã phê chuẩn thì trách nhiệm bồi thƣờng oan, sai thuộc về VKSND và ngƣợc lại, các quyết định của CQĐT mà không đƣợc VKSND phê chuẩn thì trách nhiệm bồi thƣờng oan, sai (nếu có) thuộc về CQĐT. Quy định về việc VKS phê chuẩn một số quyết định của CQĐT trong giai đoạn điều tra đã tạo ra một cơ chế vừa có sự phân định rõ ràng trách nhiệm, nhiệm vụ của CQĐT và VKS vừa đảm bảo tính phối hợp, chế ƣớc giữa hai cơ quan này nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự đƣợc thực hiện đúng pháp luật. Trải qua gần năm năm thực hiện BLTTHS, các quy định của Bộ luật này và các văn bản hƣớng dẫn về thủ tục phê chuẩn và hoạt động phê chuẩn của VKSND đối với một số quyết định của CQĐT vẫn còn những khó khăn, 6 vƣớng mắc dẫn đến những ảnh hƣởng đáng kể tới việc giải quyết các vụ án hình sự cả về mặt thời gian, tiến độ cũng nhƣ chất lƣợng. Mặc dù các báo cáo sơ kết, tổng kết của các VKS, CQĐT thƣờng chƣa quan tâm một cách đúng mức đến nội dung này, song trong công tác bồi thƣờng oan, sai trong tố tụng hình sự thì đây lại là nội dung gây nhiều tranh cãi vì nhiều lý do trong đó có một lý do là hoạt động này có liên quan đến việc xem xét xem cơ quan nào, chủ thể nào phải chịu trách nhiệm đối với những oan, sai đó. Bên cạnh đó, với sự ra đời của Nghị quyết số 48/NQ-TƢ ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TƢ ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng về Chiến lƣợc cải cách Tƣ pháp đến năm 2020, với mục đích xây dựng một nhà nƣớc dân chủ, kỷ cƣơng, công bằng, nhiều vấn đề cũng đã đƣợc đặt ra với các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tƣ pháp. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà liên ngành tƣ pháp cần quan tâm đến đó là xem xét rà soát lại các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để tiến tới sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự một cách đồng bộ đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và thực hiện các chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về lĩnh vực này. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ to lớn này, một trong những hoạt động cần phải đƣợc tiến hành đó là xem xét, đánh giá những ƣu điểm, nhƣợc điểm trong vấn đề phê chuẩn của VKS đối với các quyết định của CQĐT và làm rõ những nguyên nhân của tình trạng này để có những điều chỉnh cho phù hợp trong lần sửa đổi tiếp theo (hiện đang trong quá trình triển khai) theo chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách hoạt động tƣ pháp trong thời gian tới. Đó chính là các lý do để học viên chọn đề tài “Phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật chuyên ngành Luật hình sự tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Việc phê chuẩn của VKS đối với các quyết định phải có sự phê chuẩn 7 của VKS của CQĐT trong tố tụng hình sự là một chế định thể hiện sự chế ƣớc rõ nét trong mối quan hệ giữa hai cơ quan này. Song cho tới thời điểm này, việc tổng kết, đánh giá các ƣu điểm, nhƣợc điểm của các quy định về vấn đề này trong BLTTHS và các văn bản hƣớng dẫn cũng nhƣ các vấn đề hạn chế, vƣớng mắc trong hoạt động thực tiễn vẫn chƣa đƣợc thực hiện trên phạm vi toàn ngành kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, đây cũng là nội dung đƣợc Đảng, Chính phủ và đặc biệt là lãnh đạo các cơ quan Nội chính quan tâm vì nó thể hiện rõ nét sự phân định trách nhiệm giữa CQĐT và VKS trong việc giải quyết vụ án hình sự. Hiện vẫn chƣa có đề tài khoa học nào chọn đây làm đối tƣợng nghiên cứu, số lƣợng bài viết đề cập đến nội dung này cũng rất ít ỏi. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài này chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn song đây là vấn đề cần đƣợc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. 3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục phê chuẩn của VKS đối với các quyết định của CQĐT cần có sự phê chuẩn của VKS trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Các quy định của BLTTHS về các quyết định tố tụng của CQĐT phải có sự phê chuẩn của VKS, quyền hạn và trách nhiệm của CQĐT, VKS trong việc thực hiện thủ tục phê chuẩn này; tình hình thực hiện các quy định này trong thực tiễn từ năm 2003 cho đến nay; trên cơ sở đó phát hiện ra những ƣu điểm và hạn chế của pháp luật về thủ tục phê chuẩn của VKS đối với các quyết định của CQĐT trong tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay cũng nhƣ những vƣớng mắc trong việc thực hiện các quy định đó, trách nhiệm của các bên trong việc tháo gỡ các vƣớng mắc; các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục phê chuẩn của VKS đối với các quyết định của CQĐT trong tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của VKS. Luận văn có nghiên cứu, đánh giá và bình luận về các quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới về thủ tục phê chuẩn đối với các quyết định tƣơng ứng. Luận văn cũng có sử dụng nguồn dữ liệu thực tế là các số liệu về hoạt động phê chuẩn của các VKS theo báo cáo của VKSND tối cao trong các năm 2005, 2006, 2007 là ba năm thực hiện BLTTHS để phân tích, nghiên cứu. Năm 2005 cũng là năm đầu tiên VKSND sửa đổi hệ thống các chỉ mục thống 8 kê và triển khai công tác thống kê tội phạm, thống kê hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 trên toàn bộ các VKSND khắp cả nƣớc. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 4.1. Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và khảo sát, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thủ tục phê chuẩn của VKSND đối với các quyết định của CQĐT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục phê chuẩn của VKSND đối với các quyết định của CQĐT. 4.2. Nhiệm vụ của luận văn Từ mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ: - Khái quát, hệ thống lại một số vấn đề chung về phê chuẩn trong tố tụng hình sự trong lịch sử lập pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phân tích các quy định về phê chuẩn của một số quốc gia trên thế giới. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật về phê chuẩn trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và việc thực thi các quy định đó. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động phê chuẩn trong tố tụng hình sự Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm mang tính lý luận về nhà nƣớc và pháp luật trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mác xít, nhƣ: phƣơng pháp lịch sử cụ thể, phƣơng pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, đặc biệt là phƣơng pháp trừu tƣợng khoa học. 6. Điểm mới khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu tƣơng đối có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục phê chuẩn của VKS đối với các quyết định của CQĐT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của 9 pháp luật Việt Nam và so sánh với các quy định tƣơng ứng của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Luận văn cũng thống kê, hệ thống lại toàn bộ số lƣợng các quyết định đã đƣợc phê chuẩn/không phê chuẩn của trong vòng ba năm 2005-2007 cũng nhƣ các vƣớng mắc, tồn tại trong việc áp dụng các quy định này trong thực tế. Thông qua việc đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định về thủ tục này trong luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, luận văn cố gắng làm rõ phƣơng hƣớng xây dựng các quy định về thủ tục này trong luật tố tụng hình sự phù hợp với thực tiễn Việt Nam một cách khoa học, lô gic và hợp lý, phân công, phân cấp hợp lý giữa các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam và đặc biệt là đáp ứng đƣợc những đòi hỏi cấp bách hiện nay của cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong lĩnh vực tƣ pháp cũng nhƣ việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÊ CHUẨN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 10 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÊ CHUẨN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA 1.1.1. Khái niệm phê chuẩn Phê chuẩn là một từ gốc Hán Việt, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1998 thì: “Phê chuẩn” có nghĩa là xét duyệt, đồng ý cho thi hành [Tr. 750; 44]. Theo Từ điển luật học Nhà xuất bản Từ điển bách khoa-Tƣ pháp 2006 thì phê chuẩn là: Xét duyệt để cho phép sử dụng hoặc thực hiện một văn bản, công việc, vấn đề hay lĩnh vực nào đó. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 2003, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa: Phê chuẩn là: Việc thực hiện quyền lực của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền (thường là cấp trên) chấp thuận một hay nhiều đề nghị, yêu cầu của cấp phụ thuộc (thường là cấp dưới) được ghi vào văn bản có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu, cho phép cấp phụ thuộc được thực hiện yêu cầu, đề nghị đó. Phê chuẩn thường xuất hiện trong quá trình giải quyết những công việc chung của các cơ quan nhà nước, khi cấp phụ thuộc (tổ chức cá nhân) có một số yêu cầu về công việc cần thiết mà điều kiện tiên quyết để thực hiện yêu cầu đó là sự chấp thuận của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền, khi đó cấp phụ thuộc phải làm một văn bản như: tờ trình, đơn đề nghị, bản yêu cầu, dự thảo đề án, hiệp ước... gửi cho cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền. Trong văn bản cấp phụ thuộc nêu rõ yêu cầu, lý do, nội dung, mục đích và các điều kiện thực hiện. Sau khi xem xét các văn bản đó, nếu thấy không trái với pháp luật và thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền phê vào văn bản đó yêu cầu của mình, có ký tên hoặc ký tên, đóng dấu cho phép hoặc không cho phép cấp phụ thuộc được thực hiện. Có thủ tục phê chuẩn toàn bộ hoặc chỉ phê chuẩn một hay một số yêu cầu đề nghị nào đó trong văn bản yêu cầu của cấp phụ thuộc. Phê chuẩn có giá trị pháp lý nếu các yêu cầu, đề nghị nếu các yêu cầu, đề nghị của cấp phụ thuộc được cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền chấp thuận nằm trong các quy định của 11 pháp luật hiện hành [Tr 459-460; 40]. Nhìn chung, các khái niêm về thuật ngữ “phê chuẩn” trên đây đều đề cập đến mối quan hệ quyền lực nhà nƣớc giữa cơ quan có thẩm quyền giám sát, thẩm tra với cơ quan có thẩm quyền thi hành những hoạt động nhất định do pháp luật quy định phải chịu sự giám sát, thẩm tra thông qua thủ tục phê chuẩn. Phê chuẩn trong tố tụng hình sự: Nhìn lại lịch sử nhà nƣớc và pháp luật thế giới chúng ta thấy rằng thời kỳ khi nhà nƣớc mới ra đời, bộ máy nhà nƣớc còn giản đơn và hệ thống pháp luật mới đƣợc hình thành thì các chức năng trong tố tụng hình sự chƣa đƣợc tách bạch rõ ràng, có thể do một cơ quan, thậm chí một quan chức thực hiện trong suốt quá trình tố tụng. Chẳng hạn trong nhà nƣớc Chủ nô hoặc Phong kiến thì việc điều tra, truy tố, xét xử và cả thi hành án thông thƣờng chỉ do một quan án đảm nhiệm. Càng về sau, cùng với sự phát triển, hoàn thiện của bộ máy nhà nƣớc và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng giữa các cơ quan nhà nƣớc ngày càng khoa học hơn. Luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng nhƣ luật tố tụng hình sự hiện đại của các nƣớc trên thế giới ngày càng có xu hƣớng chuyên môn hoá cao hơn, phân định chức năng rõ ràng và khoa học hơn. Đó là việc giao cho mỗi cơ quan thực hiện một chức năng khác nhau; các cơ quan khác nhau thực hiện chức năng điều tra khám phá tội phạm, buộc tội và xét xử sẽ là tiền đề để hoạt động tố tụng hình sự khách quan hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Chức năng của CQĐT là điều tra thu thập chứng cứ làm rõ có tội phạm hay không có tội phạm và ngƣời thực hiện hành vi phạm tội (khám phá tội phạm); chức năng của cơ quan thực hành quyền công tố là buộc tội và yêu cầu trừng phạt ngƣời phạm tội; chức năng của Toà án là xét xử. Trong luật tố tụng hình sự có chủ thể tiến hành tố tụng đƣợc độc lập thực hiện các hoạt động tố tụng, nhƣng có những chủ thể khi thực hiện một số hoạt động lại cần phải đƣợc sự phê chuẩn của chủ thể khác. Điều này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong tố tụng là khác nhau. Luật tố tụng hình sự hiện đại có các chủ thể là các cơ quan đƣợc tiến hành tố tụng gồm có CQĐT, cơ quan công tố/ VKS và cơ quan xét xử /Toà án thực hiện các chức năng tƣơng ứng là điều tra, truy tố và xét xử. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, khái niệm cơ quan điều tra là một khái niệm tƣơng đối rộng. Theo quy định tại Điều 110 12 BLTTHS và điều 1 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (từ đây đƣợc viết tắt là PLTCĐTHS), Cơ quan điều tra gồm có: - Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân: + Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện); + Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh). - Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân: + Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tƣơng đƣơng; Cơ quan điều tra hình sự khu vực; + Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tƣơng đƣơng. - Cơ quan điều tra trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao: + Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; + Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng. [Điều 110; 4], [Điều 1; 22] Ngoài các cơ quan điều tra (chuyên trách) này, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành còn có quy định trong một số trƣờng hợp, một số cơ quan khác đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra là Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lƣợng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này trong tố tụng hình sự đã đƣợc quy định rõ tại các điều 19-25 PLTCĐTHS. Về bản chất, các hoạt động này chính là các hoạt động trong giai đoạn điều tra. Song do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, để đảm bảo hoạt động điều tra truy tố xét xử đƣợc tiến hành nhanh chóng, kịp thời nên các cơ quan này mới đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong các vụ án đơn giản, tội phạm ít nghiêm trọng, hoặc các hoạt động điều tra ban đầu trong các vụ án nghiêm trọng trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan này. Nếu nhƣ trong Cơ quan điều tra có Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Cơ 13 quan điều tra và Điều tra viên (ĐTV) đƣợc coi là các chủ thể là ngƣời tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự thì trong các cơ quan đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra, hoạt động điều tra này chủ yếu do Thủ trƣởng, Phó thủ trƣởng các cơ quan này tiến hành [điều 19-25; 22]. Bên cạnh đó, ngoài các chủ thể đã đƣợc đề cập ở trên, để đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong trƣờng hợp khẩn cấp, một số chủ thể cũng đƣợc quyền áp dụng một số biện pháp ngăn chặn nhằm ngăn cản không cho kẻ phạm tội bỏ trốn hoặc tẩu thoát. Đó là “ngƣời chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.” [điểm c khoản 2 Điều 81, khoản 2 Điều 86; 4]. Tuy vậy, thẩm quyền của các chủ thể này chủ yếu cũng chỉ dừng lại trong phạm vi áp dụng một số biện pháp ngăn chặn có hiệu lực trong thời gian ngắn và các hoạt động đó cũng chỉ xảy ra trong giai đoạn điều tra. Và một số các hoạt động đƣợc thực hiện bởi các chủ thể này cũng đƣợc coi là đối tƣợng phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhƣ lệnh bắt ngƣời trong trƣờng hợp khẩn cấp, tạm giữ hình sự. Tuy nhiên, các chủ thể này chỉ đƣợc tiến hành một số rất ít các hoạt động và chủ yếu chỉ trong tình huống khẩn cấp. Ngay khi trở về lãnh thổ Việt Nam, hoạt động điều tra cũng nhƣ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong các vụ án hình sự này phải đƣợc chuyển giao ngay cho Cơ quan điều tra (chuyên trách) có thẩm quyền điều tra vụ án đó theo quy định của pháp luật (nội dung này sẽ đƣợc làm rõ thêm ở phần 2.1.1. và 2.1.2 Chƣơng 2 Luận văn này). Do vậy, về bản chất, việc áp dụng các lệnh, quyết định này của ngƣời chỉ huy tàu bay, tàu biển khi các phƣơng tiện đã rời khỏi ga không phải là các hoạt động thuộc thẩm quyền của các chủ thể này mà chỉ là các hoạt động nhân danh Cơ quan điều tra nhằm đảm bảo việc bắt, giữ nghi phạm để xử lý theo pháp luật và tránh trƣờng hợp những ngƣời đó lẩn trốn hoặc tiếp tục phạm tội trên các phƣơng tiện này. Căn cứ vào các nội dung đã đƣợc đề cập ở trên, chúng ta có thể thấy rằng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, khái niệm Cơ quan điều tra có thể đƣợc hiểu theo hai cách: theo nghĩa hẹp, đó là các Cơ quan điều tra (chuyên trách) là các cơ quan đƣợc tổ chức, thành lập để chuyên thực hiện nhiệm vụ điều tra các tội phạm hình sự trong phạm vi nhiệm vụ của mình và theo nghĩa rộng thì cơ quan điều tra là các chủ thể đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động (toàn bộ hoặc một phần) điều tra các vụ án hình sự bao gồm cả các Cơ quan điều tra (chuyên trách) và các cơ quan đƣợc 14 giao tiến hành một số hoạt động điều tra ( nhƣ là Hải quan, Kiểm lâm,...) và các chủ thể có thẩm quyền ra một số lệnh, q uyết định các tình huống khẩn cấp (ngƣời chỉ huy tàu bay, tàu biển...). Kể từ đây, tác giả luận văn sẽ sử dụng khái niệm Cơ quan điều tra (CQĐT) theo nghĩa thứ hai này. Đối với hoạt động công tố, ở Việt Nam, VKSND chính là cơ quan đƣợc giao chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp, tức là đƣợc giao nhiệm vụ nhân danh nhà nƣớc, nhân danh công quyền chống lại hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất, đó là tội phạm, thực hiện quyền buộc tội và yêu cầu trừng phạt ngƣời phạm tội. Với chức năng thực hành quyền công tố, VKS có trách nhiệm “bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời ... không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [khoản 3 Điều 23; 4]. Mỗi khi tội phạm xảy ra đều phát sinh quyền công tố cũng nhƣ nhu cầu thực hiện quyền công tố để kịp thời xử lý tội phạm. Hoạt động thực hành quyền công tố càng đƣợc thực hiện sớm, thì càng có khả năng đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới” đã xác định “hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án”. Buộc tội là một quá trình diễn ra trong suốt quá trình chứng minh tội phạm, chứng minh ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ này đòi hỏi phải có một lực lƣợng chuyên môn về điều tra với sức mạnh vật chất có khả năng cƣỡng chế để thu thập toàn diện chứng cứ xác định tội phạm, ngƣời phạm tội hoặc để xác định ngƣời vô tội trong giai đoạn điều tra. Những hoạt động điều tra này chủ yếu do CQĐT và các ĐTV thực hiện. Tuy nhiên quyền buộc tội phải do cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố tức VKS thực hiện. Theo chức năng của mình, VKS có quyền và trách nhiệm quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan đến việc buộc tội một chủ thể nào đó trong giai đoạn điều tra; kiểm soát đƣợc việc phát hiện, điều tra tội phạm và xử lý. VKS và CQĐT là các cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng khác nhau, phải đƣợc phân định nhiệm vụ, quyền hạn có tính độc lập tƣơng đối nhằm đảm bảo từng cơ quan thực hiện đúng vầ đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, luật tố tụng hình sự không thể chia tách, cắt khúc quyền lực tƣ pháp để từ đó làm suy giảm khả năng đấu tranh phòng chống tội phạm. Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ vừa chế 15 ƣớc, vừa phối hợp. Đó chính là cội nguồn xuất phát của việc quy định quyền phê chuẩn của VKS đối với một số quyết định, hành vi của CQĐT. Từ các phân tích ở trên, có thể đi đến khái niệm về thuật ngữ “Phê chuẩn” trong tố tụng hình sự nhƣ sau: Phê chuẩn trong tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền xác nhận tính hợp pháp của các quyết định, lệnh, hành vi của CQĐT. Về phạm vi thời gian, hoạt động của CQĐT chỉ diễn ra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, do vậy hoạt động phê chuẩn của VKS đối với các quyết định, lệnh của CQĐT cũng chỉ diễn ra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Căn cứ pháp lý: từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự các năm 1988 và 2003, trong các điều luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra đều ghi nhận một trong những nghiệm vụ, quyền hạn của VKS đó là phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra tập trung chủ yếu ở Điều 141 và không phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố hay khi kiểm sát điều tra. Còn BLTTHS hiện hành thì quán triệt tinh thần thực hành quyền công tố từ khi khởi tố vụ án và phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của VKS khi thực hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Điều 112 của Bộ luật này quy định về nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, trong đó tại khoản 4 quy định VKS quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT. 1.1.2. Mục đích ý nghĩa của việc phê chuẩn trong tố tụng hình sự Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, chỉ có VKS có quyền phê chuẩn và ngƣợc lại việc phê chuẩn này cũng chỉ áp dụng đối với một số hoạt động (quyết định, lệnh... đƣợc gọi chung là quyết định) của CQĐT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Phê chuẩn hay không phê chuẩn của VKS là hoạt động thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý với quyết định, hành vi của CQĐT sau khi nghiên cứu quyết định, hành vi đó và các tài liệu có liên quan. Nếu VKS quyết định phê chuẩn có nghĩa là VKS 16 nhận thấy quyết định, hành vi của CQĐT là hợp pháp và cần thiết; ngƣợc lại không phê chuẩn nghĩa là VKS nhận thấy quyết định, hành vi của CQĐT không đảm bảo tính hợp pháp hoặc không cần thiết. Hậu quả pháp lý của việc phê chuẩn là xác nhận tính hợp pháp và làm phát sinh hiệu lực thi hành hoặc làm cho quyết định, hành vi của CQĐT tiếp tục có hiệu lực thi hành (nếu đã đƣợc thi hành). Ngƣợc lại nếu VKS không phê chuẩn thì nếu đối với quyết định chƣa đƣợc thi hành thì nó sẽ không có hiệu lực pháp lý và không đƣợc phép thi hành trên thực tế; đối với quyết định, hành vi mà CQĐT đã thực hiện rồi thì phải chấm dứt ngay việc thi hành và khắc phục những hậu quả mà việc thi hành quyết định, hành vi đó đã gây ra trên thực tế. Theo quy định của BLTTHS, các quyết định của CQĐT cần có sự phê chuẩn của VKS bao gồm: Lệnh bắt bị can để tạm giam (Điều 80), việc bắt ngƣời trong trƣờng hợp khẩn cấp (Điều 81), Quyết định gia hạn tạm giữ (Điều 87), Lệnh tạm giam bị can (Điều 88), Lệnh khám xét (Điều 141), Quyết định khởi tố bị can (Điều 126). Có thể thấy rất rõ là điểm chung lớn nhất của các quyết định này là chúng đều là các hoạt động mang tính cƣỡng chế, khi thi hành chúng đồng nghĩa với việc hạn chế hoặc là tiền đề để hạn chế đáng kể các quyền, tự do đối với công dân. Nhƣ vậy mục đích của việc phê chuẩn trong tố tụng hình sự là nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động mang tính chất cƣỡng chế bất lợi về quyền tự do đối với công dân của CQĐT; đảm bảo việc áp dụng các biện pháp này là hợp pháp và cần thiết. Thông qua việc phê chuẩn VKS có thể ngăn chặn những hành động xâm phạm các quyền của công dân không đƣợc pháp luật cho phép; ngăn ngừa sự lạm quyền, lạm dụng các biện pháp cƣỡng chế của CQĐT. Trong tố tụng hình sự thì Toà án và VKS cũng có thẩm quyền ban hành các quyết định mang tính cƣỡng chế đối với bị can, bị cáo nhƣ tạm giam, VKS có quyền khởi tố bị can. Quyết định của Toà án và của VKS không cần phải có sự phê chuẩn của cơ quan khác mà có hiệu lực thi hành ngay. Tuy nhiên điều khác biệt ở đây là Toà án và VKS không thể tự mình thi hành việc bắt giam mà phải yêu cầu lực lƣợng công an thực hiện. Quy định nhƣ vậy không có nghĩa là Toà án và VKS có đặc quyền lớn hơn so với CQĐT trong tố tụng hình sự, mà mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều có chức năng, nhiệm vụ riêng, đồng thời có cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp để thực hiện chức năng nhiệm vụ đó. Điều đó giải thích lý do tại sao một số quyết định của CQĐT 17 cần phải có sự phê chuẩn và đồng thời quyền phê chuẩn các quyết định của CQĐT chỉ đƣợc quy định cho VKS. Bởi vì, nhƣ đã phân tích ở phần trên, VKS là cơ quan đƣợc giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, có quyền quyết định các vấn đề liên quan đến việc buộc tội từ giai đoạn khởi tố, điều tra đến khi đƣa ra xét xử trƣớc Toà án. Hoạt động buộc tội của VKS luôn gắn liền và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ với hoạt động điều tra của CQĐT, do đó VKS là cơ quan biết rõ nhất sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp cƣỡng chế nhƣ bắt, khám xét hay không; có quyền quyết định khởi tố bị can hay không. Thủ tục phê chuẩn là sự thể hiện quyền giám sát của VKS và mối quan hệ vừa chế ƣớc, vừa phối hợp giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự. Hoạt động phê chuẩn có ý nghĩa không nhỏ trong việc bảo đảm cho hoạt động điều tra hình sự với nhiều biện pháp cƣỡng chế thƣờng xuyên đƣợc áp dụng diễn ra trong phạm vi pháp luật cho phép. Với bộ máy có khả năng cƣỡng chế mạnh mẽ, nếu CQĐT có thể tự mình ra quyết định cƣỡng chế rồi thực hiện quyết định cƣỡng chế đó mà không chịu sự chi phối, giám sát của cơ quan nào khác thì nguy cơ dẫn đến lạm dụng biện pháp cƣỡng chế sẽ luôn thƣờng trực và là mối đe doạ khôn lƣờng cho việc bảo đảm các quyền tự do của công dân. Với nhiệm vụ của mình, VKS chỉ đƣợc phép phê chuẩn các quyết định của CQĐT khi xét thấy quyết định đó đáp ứng đủ các điều kiện là phù hợp với quy định của pháp luật và cần thiết cho việc điều tra giải quyết vụ án cụ thể đó. Nếu thực hiện tốt việc phê chuẩn, sẽ góp phần làm cho hoạt động điều tra diễn ra khách quan hơn, xác định chính xác tội phạm và ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, phòng ngừa và hạn chế oan, sai xảy ra trong hoạt động tố tụng hình sự. 1.2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÊ CHUẨN TRONG LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 1.2.1. Giai đoạn 1945-1960 Ngay sau khi chính quyền cách mạng non trẻ đƣợc thành lập tháng 9 năm 1945, để đáp ứng các yêu cầu của tình hình chính trị phức tạp, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cách mạng Việt Nam đã ban hành ngay sắc lệnh số 33C/SL ngày 13/9/1945 về việc thành lập các toà án quân sự ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam để “xét xử tất cả các ngƣời nào phạm vào một việc gì đó 18 có phƣơng hại đến nền độc lập của Nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà” và Sắc lệnh số 37/SL ngày 26/9/1945 về việc quy định thẩm quyền theo lãnh thổ cho các toà án quân sự. Hệ thống toà án quân sự này đã thay thế Toà án dân chúng hoặc Toà án quân sự thời tiền khởi nghĩa và trở thành vũ khí tƣ pháp sắc bén để trấn áp, trừng trị những thế lực thù địch và bảo vệ thành quả cách mạng. Đối với vấn đề bảo vệ các quyền tự do cá nhân của công dân, ngay sau đó, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 trong đó quy định những ngƣời có thẩm quyền bắt, khám xét, giam giữ. Theo sắc lệnh này, việc ra các lệnh bắt, khám xét ... đối với những ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Thẩm phán viên. Điều 1 Tiết 1 Sắc lệnh số 40 quy định: “Chỉ trừ khi nào có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội còn bao giờ bắt ngƣời cũng cần phải có lệnh của Thẩm phán viên” Điều 3 quy định: “Việc giam cứu trƣớc khi xử, bao giờ cũng do các cơ quan tƣ pháp quyết định.” Tại tiết II Sắc lệnh quy định về “những phƣơng pháp đề phòng đặc biệt”, Điều thứ 7 cho phép “Trong tình thế đặc biệt hiện thời và cho đến khi có lệnh khác, Chủ tịch uỷ ban hành chính kỳ đặc cách đƣợc phép lệnh bắt những ngƣời xét ra lời nói hay việc làm có thể làm hại cho sự đấu tranh giành độc lập, cho chế độ dân chủ, cho sự an toàn của công chúng và sự đoàn kết của quốc gia....”. Tuy nhiên Điều 8 Sắc lệnh này cũng quy định trƣớc khi ký những lệnh trên, Chủ tịch uỷ ban hành chính phải “thoả hiệp” với một hội đồng gồm các vị: - Đại biểu hành chính; - Thẩm phán viên. Điều 9 Sắc lệnh này quy định “trong trƣờng hợp cấp bách đặc biệt, Chủ tịch uỷ ban kháng chiến hành chính các tỉnh đƣợc phép tạm bắt giữ ngƣời xét ra lời nói hay việc làm nguy hại cho việc trị an, nhƣng phải báo tin lập tức trong ngày bắt giữ ấy cho uỷ ban hành chính kỳ .... trong hạn 30 ngày hội đồng nói ở Điều 8 phải xét hồ sơ và phát biểu ý kiến với Chủ tịch uỷ ban hành chính kỳ để hoặc tha hoặc ký nghị định chính thức giam giữ” Nhƣ vậy Sắc lệnh này cho phép trong trƣờng hợp đặc biệt cơ quan hành chính có thể ra lệnh bắt ngƣời không phải là phạm tội quả tang nhƣng vẫn phải đƣợc sự đồng ý của một hội đồng trong đó có sự hiện diện của đại diện cơ quan tƣ pháp. Chế định này tƣơng tự nhƣ việc bắt ngƣời trong trƣờng hợp khẩn cấp trong luật tố tụng hình sự hiện nay. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan