Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự việt nam...

Tài liệu Phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự việt nam

.PDF
108
11
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ BÍCH HẢI PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ BÍCH HẢI PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình Hµ néi - 2009 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoan MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA PHÚC 6 THẨM DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân 6 sự 1.1.1. Khái niệm phiên tòa phúc thẩm dân sự 6 1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm dân sự 10 1.1.3. ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm dân sự 14 1.1.3.1. ý nghĩa về mặt chính trị 15 1.1.3.2. Ý nghÜa vÒ mÆt x· héi 16 1.1.3.3. ý nghÜa vÒ mÆt ph¸p lý 17 1.2. Các nội dung cơ bản của phiên tòa phúc thẩm dân sự 18 1.2.1. Nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự 18 1.2.2. Các chủ thể trong phiên tòa phúc thẩm dân sự 20 1.2.3. Phạm vi xét xử phúc thẩm dân sự 22 1.2.4. Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự 23 1.2.5. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm 25 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG 28 DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ 2.1. Các quy định chung về phiên tòa phúc thẩm dân sự 28 2.1.1. Một số nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự 28 2.1.1.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa 28 2.1.1.2. Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 28 2.1.1.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể 28 2.1.1.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai 29 2.1.1.5. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự 29 2.1.1.6. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự 29 2.1.1.7. Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự 30 2.1.1.8. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 30 2.1.2. Các quy định về chủ thể trong phiên tòa phúc thẩm dân sự 31 2.1.2.1. Các quy định về người tiến hành tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm dân sự 31 2.1.2.2. Các quy định về người tham gia phiên tòa phúc thẩm dân sự 34 2.1.3. Các quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm 36 2.2. Các quy định về thủ tục phiên tòa phúc thẩm dân sự 38 2.2.1. Các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm dân sự 38 2.2.2. Các quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa phúc thẩm dân sự 46 2.2.3. Các quy định về tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm dân sự 52 2.2.4. Các quy định về nghị án phúc thẩm 54 2.2.5. Các quy định về tuyên án phúc thẩm 55 2.3. Các quy định về quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm 57 2.3.1. Quyền giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 57 2.3.2. Quyền sửa bản án sơ thẩm 57 2.3.3. Quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án sơ 60 thẩm giải quyết lại vụ án 2.3.4. Quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ 62 65 LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM, YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 65 về phiên tòa phúc thẩm dân sự 3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định 65 của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm 3.1.2. Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật 70 Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm 3.1.3. Một số nguyên nhân của tồn tại trong việc thực hiện các quy 76 định của Bộ luật Tố tụng dân sự 3.2. Các yêu cầu hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân 78 sự Việt Nam năm 2004 về phiên tòa phúc thẩm dân sự 3.2.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm 79 3.2.2. Yêu cầu mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự 79 3.2.3. Yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 80 3.2.4. Yêu cầu về đổi mới hệ thống Tòa án 81 3.2.5. Yêu cầu nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán 82 3.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân 82 sự Việt Nam năm 2004 về phiên tòa phúc thẩm dân sự KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự HĐTPTANDTC : Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao HĐXX : Hội đồng xét xử LTCTAND : Luật tổ chức Tòa án nhân dân LTCVKSND : Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân PLTTGQCVADS : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế PLTTGQCTCLĐ : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKS : Viện kiểm sát VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những thành tựu về văn hóa - xã hội thì các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động cũng nảy sinh hết sức đa dạng và phức tạp, trong đó các tranh chấp có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều. Việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động góp phần bảo vệ trật tự và an ninh xã hội là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước, trong đó Tòa án nhân dân (TAND) giữ vai trò trung tâm. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến việc phát huy dân chủ, phát triển tranh tụng, đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã xác định yêu cầu: Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, của Viện kiểm sát tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác… Khi xét xử Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thật sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, các đương sự… [8]. Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ: "Xây dựng nền tư pháp trong 1 sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành và có hiệu quả cao". Vì vậy, việc ban hành, sửa đổi các quy định của pháp luật để xây dựng một thủ tục tố tụng thống nhất, ổn định, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian trước mắt cũng như trong tương lai là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cải cách tư pháp tại Việt Nam. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, ngày 15/6/2004 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) thay thế Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ). So với các Pháp lệnh trước, BLTTDS có nhiều quy định mới, trong đó có cả những quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự. Việc tuân thủ các quy định này sẽ đảm bảo cho công tác xét xử được toàn diện, khách quan và chính xác. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp thẩm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, một mặt Tòa án cấp trên trực tiếp sửa chữa những sai sót trong công tác xét xử của Tòa án cấp dưới để đảm bảo cho vụ án được xét xử công bằng, chính xác và đúng pháp luật; mặt khác, ở một mức độ nhất định còn uốn nắn về nghiệp vụ và định hướng về đường lối xét xử cho hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định của BLTTDS về xét xử phúc thẩm trong những năm qua cho thấy các quy định này còn nhiều bất cập. Ngoài ra, do có nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện tượng vi phạm các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi làm ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử phúc thẩm, gây thiệt hại đến 2 quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Những lý do trên cho thấy việc nghiên cứu về phiên tòa phúc thẩm dân sự là hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chúng ta đang đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước tới nay, nhất là từ sau khi BLTTDS năm 2004 được ban hành đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý, trong đó có đề cập đến phiên tòa phúc thẩm như đề tài "Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao" của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), 2006; bài "Chế định phúc thẩm vụ án dân sự" của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên đặc san Tạp chí Luật học, 2005; bài "Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án như thế nào khi Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập sai tư cách người tham gia tố tụng" của tác giả Nguyễn Đình Huề đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/2005; bài "Nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự" của tác giả Đào Hữu Đăng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 1/2005…; luận văn thạc sĩ: "Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam" của tác giả Đào Duy Vương; luận văn thạc sĩ: "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Lê Thị Hà; bài "Tòa án cấp phúc thẩm cần gì ở Tòa án cấp sơ thẩm" của tác giả Nguyễn Tuấn Minh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 1990; "Một số quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự" của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 3 2005… Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2004. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận; nội dung các quy định của pháp luật về phiên tòa phúc thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện, từ đó tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của phiên tòa phúc thẩm dân sự. Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề cơ bản sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về phiên tòa phúc thẩm dân sự; - Phân tích các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự. - Khảo sát việc thực hiện các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự tại Tòa án Việt Nam. - Tìm ra những yêu cầu và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về phiên tòa phúc thẩm dân sự; các quy định của BLTTDS về phiên tòa phúc thẩm dân sự và thực tiễn xét xử phúc thẩm của các Tòa án; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính và cải cách tư pháp ở nước ta. Phiên tòa phúc thẩm dân sự là một đề tài rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: Khái 4 niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nội dung của phiên tòa phúc thẩm dân sự; nội dung các quy định của BLTTDS Việt Nam về nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự, các chủ thể tại phiên tòa phúc thẩm dân sự, thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm, quyền hạn của Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm; thực tiễn áp dụng và các giải pháp hoàn thiện chúng. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp thống kê. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên có tính hệ thống và toàn diện về phiên tòa phúc thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam với những đóng góp mới cho khoa học pháp lý như sau: - Luận văn đã làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về phiên tòa phúc thẩm dân sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nội dung của phiên tòa phúc thẩm dân sự. - Phân tích làm rõ các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện. - Chỉ ra những điểm còn bất cập của BLTTDS Việt Nam hiện hành về phiên tòa phúc thẩm và đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện chúng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phiên tòa phúc thẩm dân sự 5 Chương 2: Nội dung các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS Việt Nam về phiên tòa phúc thẩm dân sự, các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm phiên tòa phúc thẩm dân sự Khái niệm "phiên tòa", đến nay chưa được văn bản pháp luật nào định nghĩa. Trong tiếng Việt "phiên tòa" được Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học giải thích là "lần họp để xét xử của Tòa án" [46, tr. 779]. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lần họp đặc biệt và các trình tự, thủ tục của lần họp này do pháp luật về tố tụng quy định chặt chẽ mà ở đó HĐXX vụ án không thể tùy tiện thêm, bớt các bước trong quá trình xét xử hoặc làm sai các trình tự này. Nếu vi phạm các quy định đó, ít nhiều sẽ có ảnh hưởng đến kết quả xét xử. "Xét xử" - hiểu theo nghĩa khái quát là việc "xem xét và xử các vụ án" [46, tr. 1148]. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động của các cá nhân có chức danh cụ thể (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) đại diện cho Tòa án được căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề trong phạm vi luật định để đưa ra những quyết định có tính bắt buộc. Việc xét xử của Tòa án tương ứng với tính chất của thủ tục xét xử vụ án mà có các thủ tục diễn ra theo cấp xét xử như xét xử sơ thẩm được diễn ra tại Tòa án cấp sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được diễn ra tại Tòa án cấp phúc thẩm. Mỗi thủ tục xét xử có một đặc thù riêng mang tính chất pháp lý khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt thì "phúc thẩm" là việc "Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xử sơ thẩm mà có chống án" [46, tr. 1148]. Theo Từ điển Thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì "phúc thẩm là xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, bị kháng nghị" [38, tr. 221]. 7 Cả hai cách giải thích trên, theo tác giả là chưa thỏa đáng. Khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu ở các góc độ khác nhau, cả ở nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong các nghĩa sau: phúc thẩm là một giai đoạn trong tố tụng dân sự (giai đoạn phúc thẩm); phúc thẩm là một chế định (chế định phúc thẩm) của tố tụng dân sự; phúc thẩm là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa rộng, khái niệm phúc thẩm được hiểu ở cả ba nghĩa nêu trên: phúc thẩm là một giai đoạn, một chế định của tố tụng dân sự, đồng thời là một thủ tục xét xử. Như vậy, xét về nội hàm thì khái niệm "phúc thẩm" là một khái niệm rộng nhất, bao hàm các khái niệm hẹp hơn: "giai đoạn phúc thẩm", "chế định phúc thẩm" và "thủ tục xét xử phúc thẩm". Dưới góc độ là giai đoạn phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là một giai đoạn của tố tụng dân sự, có tính độc lập và liên quan chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng khác. So với các giai đoạn tố tụng khác, phúc thẩm có một số đặc trưng sau đây: - Tính chất của phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án; - Nhiệm vụ trực tiếp của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; - Các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm bao gồm: Tòa án cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát (VKS) cấp phúc thẩm (trong trường hợp bắt buộc phải tham gia); những người có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; những người liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác mà Tòa án cấp phúc thẩm thấy cần thiết triệu tập tham gia phiên tòa. Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, chủ thể tham gia ở giai đoạn tố tụng này còn bao gồm cả Tòa án cấp sơ thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị, xác minh lí do kháng cáo quá hạn) và Viện 8 kiểm sát cấp sơ thẩm (trong việc kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật). - Các thủ tục tố tụng được tiến hành ở giai đoạn phúc thẩm có những đặc thù như Tòa án phải thông báo kháng cáo, kháng nghị; trước khi tiến hành xét hỏi, một thành viên HĐXX tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị… - Giai đoạn phúc thẩm là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Nó được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được tuyên và kết thúc khi bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc được thay thế bằng bản án, quyết định phúc thẩm. Giai đoạn phúc thẩm có thể dài, ngắn khác nhau tùy thuộc vào việc kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể và quá trình giải quyết đối với từng vụ án cụ thể. Ví dụ, đối với vụ án được xét xử trong trường hợp có mặt đầy đủ những người có quyền kháng cáo tại phiên tòa sơ thẩm, thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc, nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo quy định (30 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm) không có ai kháng cáo, kháng nghị vì thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với những người có mặt được tính kể từ ngày tuyên án. Còn những vụ án xét xử trong trường hợp có đương sự vắng mặt thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc, nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có ai kháng cáo, VKS không kháng nghị. Tuy nhiên, thời gian không phải là 30 ngày kể từ ngày tuyên án mà có thể dài hơn vì nó phụ thuộc vào thời điểm người có quyền kháng cáo được tống đạt hợp lệ bản án, quyết định. Đối với trường hợp vụ án tuy có kháng cáo hoặc kháng nghị, nhưng sau đó người đã kháng cáo hoặc VKS kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa, thì giai đoạn phúc thẩm sẽ kết thúc ở thời điểm Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án. Còn đối với các vụ án khác thì giai đoạn phúc thẩm kết thúc sau khi tuyên án phúc thẩm. 9 Dưới góc độ là chế định phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là một hệ thống những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết lại vụ án trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Chế định phúc thẩm bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về thủ tục kháng cáo, kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị; HĐXX phúc thẩm; những người tham gia phiên tòa phúc thẩm; phạm vi xét xử phúc thẩm; thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm v.v... Các quy phạm pháp luật này không chỉ bao gồm các quy định trong BLTTDS mà còn bao gồm cả các quy định trong các văn bản pháp luật khác như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân (LTCTAND), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (LTCVKSND). Dưới góc độ là thủ tục xét xử phúc thẩm, phúc thẩm được hiểu là một trong những hình thức giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Thủ tục xét xử phúc thẩm đối với một vụ án chỉ phát sinh khi bản án, quyết định sơ thẩm về vụ án đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật. Vì vậy, không phải tất cả các vụ án dân sự sau khi xét xử sơ thẩm đều được xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc thẩm sẽ kết thúc sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó. Như vậy, giai đoạn phúc thẩm là một phần của quá trình tố tụng dân sự được phân biệt với những phần khác bởi những đặc điểm riêng. Thủ tục xét xử phúc thẩm là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm là cố định, không thay đổi và diễn ra trước thủ tục xét xử phúc thẩm: ngay sau khi tuyên bản án (quyết định) sơ thẩm. Thủ tục xét xử phúc thẩm có phát sinh hay không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật và được xác định từ thời điểm Tòa án nhận được đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị. Thời điểm kết thúc của giai đoạn phúc thẩm và thời điểm kết thúc của thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ trùng nhau trong trường hợp vụ án có kháng cáo hoặc kháng 10 nghị: ngay sau khi tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định phúc thẩm. Đối với vụ án không có kháng cáo hoặc kháng nghị, thủ tục phúc thẩm không phát sinh. Vì vậy, không có thời điểm bắt đầu và kết thúc thủ tục xét xử phúc thẩm. Thủ tục xét xử phúc thẩm bao gồm các công việc khác như: kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, chuẩn bị xét xử phúc thẩm, phiên tòa phúc thẩm, những việc tiến hành sau phiên tòa phúc thẩm. Phiên tòa phúc thẩm là một trong những việc nằm trong thủ tục xét xử phúc thẩm. Theo Điều 242 BLTTDS quy định: "Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị" [2]. Như vậy, có thể đi đến kết luận: Phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên họp của Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự đã được Tòa án cấp dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó. 1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm dân sự Trong tố tụng dân sự có phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm và phiên tòa tái thẩm. Mỗi phiên tòa có những đặc điểm, nhiệm vụ và ý nghĩa riêng. Việc nghiên cứu làm rõ các đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm dân sự là rất cần thiết. Từ đó thấy được vị trí, vai trò của chúng trong tố tụng dân sự. Qua việc nghiên cứu đề tài cho thấy phiên tòa phúc thẩm dân sự có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên của Tòa án xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Đặc điểm này thể hiện tính chất đặc thù của phúc thẩm dân sự là một cấp xét xử. Tuy vậy, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đền này. 11 Ý kiến thứ nhất cho rằng, phúc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó, Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Do vậy phiên tòa phúc thẩm cũng chỉ là một thủ tục tố tụng, chỉ là việc "xét lại" chứ không phải là "xét xử lại". Ý kiến thứ hai cho rằng, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn xét xử cả về nội dung vụ án. Vì vậy, đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm không phải là "xét lại" mà là "xét xử lại" các vụ án mà quyết định, bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thực chất sự khác nhau giữa hai quan điểm nêu trên chủ yếu ở chỗ xác định phúc thẩm có phải là một cấp xét xử hay không? Từ đó xác định phiên tòa phúc thẩm có phải là một thủ tục của một cấp xét xử hay không? Để lý giải hai quan điểm nêu trên, cần thiết đi từ "nguyên tắc hai cấp xét xử". Phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc xét xử hai cấp. Đây là giai đoạn nhằm mục đích để cho đương sự, người đại diện của đương sự thực hiện quyền kháng cáo, VKS thực hiện quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại vụ án. Quyền kháng cáo của đương sự là biểu hiện cụ thể của quyền dân chủ công dân được pháp luật bảo vệ. Do đó, dù bản án, quyết định dân sự sơ thẩm được coi là xét xử đúng, nhưng nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên vẫn phải tiến hành thủ tục phúc thẩm dân sự để kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Sự hình thành và phát triển nguyên tắc "hai cấp xét xử" cùng với các nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ và tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Để đảm bảo dân chủ và công bằng, bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của 12 công dân, đồng thời tạo sự thống nhất ở mức độ nhất định trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các Thẩm phán, các cấp Tòa án với nhau, cần thiết phải có một thủ tục tố tụng xem xét lại các phán quyết chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới khi có yêu cầu (kháng cáo) của các đương sự hoặc yêu cầu (kháng nghị) của VKS. Như vậy, trong tố tụng dân sự nguyên tắc "hai cấp xét xử" ra đời và Tòa án thực hiện nhiệm vụ này là Tòa án cấp phúc thẩm. Nguyên tắc "hai cấp xét xử" và tính chất xét xử lại của phúc thẩm đã được ghi nhận ngay trong các văn bản pháp luật đầu tiên do Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án đã quy định: Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc thẩm đối với các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án Thượng thẩm có quyền chung thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp. Tại Thông tư số 1459/HCTP của Bộ Tư pháp ngày 19/8/1955 nhấn mạnh: "Nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc tố tụng của nhân dân cần phải được bảo đảm". Điều 9 LTCTAND năm 1960 quy định "Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử". Tại Mục III công văn số 614/DS ngày 24/4/1963 của TANDTC về việc vi phạm thủ tục tố tụng có hướng dẫn "Một trong những nguyên tắc cơ bản của Tòa án là hai cấp xét xử, đương sự có quyền chống bản án của TAND xử sơ thẩm lên TAND trên một cấp, VKS nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm của TAND". Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 của TANDTC quy định rõ về chức năng của Tòa án cấp phúc thẩm là "xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị". Trong LTCTAND năm 1981 và LTCTAND năm 1992, mặc dù nguyên tắc hai cấp xét xử không chính thức được ghi nhận lại, nhưng trên thực tế nguyên tắc này vẫn được thừa nhận và Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xét xử lại vụ án về mặt nội dung. Đến khi LTCTAND năm 2002 được ban hành 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan