Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn thành phố hồ chí minh

.PDF
94
50
65

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN HUY THẮNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRỐN THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH . NGUYỄN HUY THẮNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRỐN THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hình sự. Mã số: 60.38.40 Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. TRỊNH VĂN THANH TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012 LỜI CAM ĐOAN Bằng văn bản này, tác giả Luận văn “Phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu khoa học của chính tác giả, các nội dung được trình bày trong luận văn này là kết quả nghiên cứu khoa học của tác giả dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trịnh Văn Thanh. Mọi kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học khác được sử dụng trong luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng và được trích dẫn phù hợp theo quy định. Tác giả Nguyễn Huy Thắng CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS Bộ luật hình sự CQĐT Cơ quan điều tra GTGT Giá trị gia tăng TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh TNCN Thu nhập cá nhân TNDN Thu nhập doanh nghiệp TAND Toà án nhân dân UBND Ủy ban nhân dân VKS Viện kiểm sát DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU * Bảng : - Bảng 1. Số liệu tội trốn thuế từ năm 2006 đến năm 2010 - Bảng 2. Tỷ lệ số vụ phạm tội trên 100.000 dân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Bảng 3. Tình hình truy tố xét xử các vụ án trốn thuế từ năm 2006 đến 2010 - Bảng 4. Tương quan giữa tội trốn thuế và các tội kinh tế chức vụ khác - Bảng 5. Cơ cấu của tội trốn thuế với các tội phạm khác xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Bảng 6. Tỷ lệ số vụ án xét xử tại hai cấp - Bảng 7. Tổng hợp mức hình phạt được áp dụng - Bảng 8. Tỷ lệ nghề nghiệp của các bị can trong các vụ án trốn thuế xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Bảng 9. Tỷ lệ giới tính, quốc tịch của các bị can trong các vụ án trốn thuế xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Bảng 10. Tỷ lệ về độ tuổi của các bị can trong các vụ án trốn thuế xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Bảng 11. Tỷ lệ về trình độ học vấn của các bị can trong các vụ án trốn thuế xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Bảng 12. Tỷ lệ về lĩnh vực thuế tội phạm trốn thuế hoạt động - Bảng 13. Tổng số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tính đến 31/12/2010 * Biểu đồ: - Biểu đồ 1. Sơ đồ tăng giảm số vụ án trốn thuế đã phát hiện - Biểu đồ 2. Sơ đồ tăng giảm số bị can trong các vụ án trốn thuế MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1  CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRỐN THUẾ VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRỐN THUẾ .......................................................... 5  1.1. Nhận thức chung về thuế và tội phạm trốn thuế............................................. 5  1.1.1 Nhận thức chung về thuế.................................................................................... 5  1.1.2 Nhận thức về tội phạm trốn thuế trong pháp luật hình sự Việt Nam ................. 8  1.2 Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành về tội trốn thuế ...........12  1.2.1 Khái niệm về tội phạm trốn thuế ......................................................................12  1.2.2 Dấu hiệu pháp lý của tội trốn thuế ...................................................................14  1.2.3 Hình phạt ..........................................................................................................17  1.3 Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm trốn thuế .............................20  1.3.1 Khái niệm .........................................................................................................20  1.3.2 Chủ thể phòng ngừa tội phạm trốn thuế ...........................................................22  1.3.3 Nội dung, biện pháp phòng ngừa tội phạm trốn thuế......................................23  CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỐN THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA ..............................................................24  2.1 Tình hình, đặc điểm và nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .................................................24  2.1.1 Tình hình tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...............24  2.1.2 Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm trốn thuế ................................34  2.1.3 Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trốn thuế ...........................42  2.2 Thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm trốn thuế trong thời gian qua - những thành công và hạn chế.......................................................................61  2.2.1 Chủ trương của Đảng và chính quyền địa phương trong công tác phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................61  2.2.2 Những thành công trong hoạt động đấu tranh với tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. ...................................................................................63  2.2.3 Những hạn chế trong hoạt động đấu tranh với tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................65  CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRỐN THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..............................................................................68  3.1 Dự báo tình hình tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới .........................................................................................68  3.1.1 Khái niệm và cơ sở dự báo ...............................................................................68  3.1.2 Dự báo tình hình tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ...69  3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................71  3.2.1 Giải pháp kinh tế - xã hội .................................................................................71  3.2.2 Giải pháp về quản lý ........................................................................................73  3.2.3 Giải pháp về chính sách, pháp luật ..................................................................75  3.2.4 Giải pháp về phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật .................................79  3.2.5 Giải pháp nâng cao hiệu quả các cơ quan bảo vệ pháp luật.............................81  KẾT LUẬN ..............................................................................................................82  1 PHẦN MỞ ĐẦU 1 - Lý do chọn đề tài Qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề an sinh - xã hội, góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đến nay, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước với tổng sản phẩm quốc nội năm 2010 đạt 349.614 tỷ đồng, tăng trưởng 11,8%. Trong đó nguồn thu từ thuế đóng vai trò quan trọng đối với việc tăng ngân sách của thành phố. Năm 2010 riêng nguồn thu từ thuế là 105.147 tỷ đồng, đạt 108,29% dự toán, tăng 34,2% so với cùng kỳ năm 2009. Nhu cầu đảm bảo ngân sách cho việc duy trì hoạt động bộ máy cũng như đầu tư phát triển xã hội đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước về thuế phải đảm bảo thu đúng, thu đủ các nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có xu hướng ngày càng gia tăng của nhiều loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm trốn thuế, một loại tội phạm rất phức tạp với phương thức, thủ đoạn tinh vi làm ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước tại địa phương, gây thất thu không nhỏ cho ngân sách thành phố. Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm trốn thuế nhằm làm giảm bớt thiệt hại do tội phạm này gây ra. Tuy nhiên, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, loại tội phạm này ngày càng có nhiều phương thức thủ đoạn mới, do đó công tác phòng ngừa còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Nâng cao chất lượng của hoạt động phòng ngừa đối với tội phạm trốn thuế trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã và đang là một nhiệm vụ thực sự cấp thiết, có ý nghĩa kể cả về lý luận lẫn thực tiễn. Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là một trung tâm kinh tế, văn hóa trọng điểm của cả nước, các hoạt động kinh doanh, hoạt động liên quan đến thuế cũng như tình hình tội phạm về thuế có tính điển hình cao. Việc nghiên cứu công tác phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có khả năng áp dụng trên phạm vi toàn quốc. Xuất phát từ những luận giải trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn Cao học Luật của mình. 2 2 - Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề trốn thuế và phòng ngừa tội phạm trốn thuế hiện nay đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu dưới dạng các chuyên đề, luận văn cao học, luận án tiến sỹ, bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành luật như: Luận án tiến sỹ của tác giả Đồng Xuân Thọ về “Nâng cao hiệu quả phát hiện điều tra của lực lượng cảnh sát kinh tế đối với tội phạm trốn thuế trong lĩnh vực xuất – nhập khẩu ở Việt Nam”; Luận án tiến sỹ của tác giả Mai Thế Bảy về “Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”; Luận văn cao học của tác giả Lê Thành Kính về “Đấu tranh phòng chống hành vi trốn thuế”... Hay các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Bài viết “Một số vấn đề áp dụng chế tài đối với các hành vi gian lận thuế và nộp chậm tiền thuế” của Thạc sĩ Trần Trung Nhân đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9 năm 2006; Bài viết “Kinh nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án liên quan đến chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia tăng” của tác giả Ngụy Thế Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 17 năm 2005; Bài viết “Tội trốn thuế theo quy định của Bộ Luật Hình sự năm 2009” của Thạc sĩ Nguyễn Tuyết Mai đăng trên Tạp chí Toà án, Số 19 năm 2004… Thực tiễn nghiên cứu cho thấy trong lĩnh vực pháp lý hình sự các công trình nghiên cứu có liên quan “gần” đến vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, mặc dù các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh pháp lý, xã hội khác nhau liên quan đến tội phạm trốn thuế, tuy nhiên, chưa công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về công tác phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên một địa bàn cụ thể và sôi động như Thành phố Hồ Chí Minh. 3 - Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu đề tài: “Phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, mục tiêu của tác giả là tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm trốn thuế cũng như những hạn chế, thiếu sót trong công tác phòng ngừa từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian tới, góp phần ổn định an ninh, chính trị tạo đà phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là: 3 - Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận chung về tội phạm trốn thuế, phòng ngừa tội phạm trốn thuế. - Trên cơ sở thực trạng chỉ ra nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trốn thuế cũng như những thành công, hạn chế trong hoạt động phòng ngừa hiện nay. - Từ đó dự báo về tình hình tội phạm trốn thuế trong thời gian tới và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 4 - Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn có một số giới hạn về đối tượng, phạm vi nghiên cứu sau: - Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động phòng ngừa tội phạm trốn thuế. - Phạm vi nghiên cứu: + Về địa bàn: luận văn chỉ tập trung vào Thành phố Hồ Chí Minh nơi tác giả có điều kiện thu thập số liệu và hiểu rõ thực trạng đấu tranh với loại tội phạm trên. + Về thời gian khảo sát, thống kê: luận văn giới hạn trong thời hạn 5 năm kể từ năm 2006 đến năm 2010. 5 - Các phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm và khoa học nghiên cứu về tội phạm học. Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp. Những phương pháp này được áp dụng riêng lẻ hoặc kết hợp tùy theo từng vấn đề cụ thể để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã nêu. 6 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Luận văn làm rõ diễn biến, thực trạng và các đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm trốn thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 – 2010. Trên cơ sở đó lý giải và làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trốn thuế nhằm đưa ra các giải pháp góp phần đẩy mạnh công tác phòng ngừa tội trốn thuế tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là nguồn tham khảo cho các nhà thực tiễn trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế cũng như là tài liệu hữu ích cho sinh viên tham khảo khi nghiên cứu về tội trốn thuế nói riêng và các tội phạm về kinh tế nói chung. 7 - Bố cục của luận văn 4 Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu bao gồm 3 chương: Chương 1. Nhận thức chung về tội phạm trốn thuế và phòng ngừa tội phạm trốn thuế. Chương 2. Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và thực trạng hoạt động phòng ngừa. Chương 3. Dự báo và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa tội phạm trốn thuế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 5 CHƯƠNG 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRỐN THUẾ VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRỐN THUẾ 1.1. Nhận thức chung về thuế và tội phạm trốn thuế 1.1.1 Nhận thức chung về thuế - Khái niệm, đặc điểm Khi nhu cầu con người ngày càng cao, sự phân hóa giàu nghèo xuất hiện, xã hội có sự phân chia giai cấp, Nhà nước ra đời trước hết là nhằm mục đích quản lý xã hội. Muốn duy trì sự tồn tại của mình, cũng như đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đề ra, đòi hỏi Nhà nước phải có các nguồn của cải vật chất. Để đáp ứng nhu cầu này, Nhà nước đặt ra các khoản đóng góp bắt buộc đối với các thành viên trong xã hội. Những khoản đóng góp mang tính bắt buộc này gọi là thuế. Đồng thời, cũng bằng quyền lực đặc biệt của mình, nhà nước ban hành các quy định để buộc các thành viên trong xã hội phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp đó. Như vậy, thuế được hiểu là khoản nộp bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng pháp luật mà các cá nhân, tổ chức phải nộp vào ngân sách nhà nước. Các khoản nộp này không mang tính đối giá và không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế1. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm riêng nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình về thuế. Tuy nhiên, về cơ bản chung các quan điểm này đều thống nhất chỉ ra ba đặc điểm chính của thuế bao gồm: Thứ nhất, thuế là khoản đóng góp bắt buộc vào ngân sách dựa trên quyền lực nhà nước. Thuế thể hiện quan hệ kinh tế - chính trị - hành chính giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Trong quan hệ đó Nhà nước là người có “quyền” thu thuế, còn các tổ chức, cá nhân là người có “nghĩa vụ” đóng thuế, bất luận thái độ tâm lí của người nộp thuế ra sao2. Đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nước khi thoả mãn các điều kiện mà pháp luật quy định. Mặt khác, trong quá trình thực hiện chức năng của mình, các chủ thể có thẩm quyền thay mặt Nhà nước trong việc thu thuế cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, không được phân biệt đối xử với người nộp thuế. 1 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng Luật thuế, TP.HCM, tr .8 . Nguyễn Văn Tuyến (2009), “Bản chất của thuế - sự tiếp cận từ các học thuyết cổ điển và hiện đại”, Tạp chí Luật học, (4), tr 72-77. 2 6 Tính bắt buộc của thuế là một trong những dấu hiệu quan trọng để phân biệt thuế với các khoản thu trên cơ sở tự nguyện hình thành nên ngân sách nhà nước. Điều này có ý nghĩa pháp lý quan trọng khi ban hành luật về thuế và chi phối phương pháp thu thuế, cưỡng chế thuế... của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ hai, thuế do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định. Ở Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới, các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ công dân phải do cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân quyết định. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các văn bản pháp luật về một sắc thuế cụ thể chỉ được ban hành dưới hình thức văn bản là luật hoặc pháp lệnh. Chính phủ chỉ ban hành các văn bản pháp luật thuế dưới hình thức là các Nghị định nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật thuế, pháp lệnh về thuế. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa thuế và các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước như phí, lệ phí hoặc các khoản thu vào ngân sách của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội như đảng phí, đoàn phí... Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Đối giá là sự ngang bằng về mặt giá trị thường xuất hiện trong quan hệ trao đổi, mua bán. Hoàn trả trực tiếp là quan hệ, theo đó bên nhận một lợi ích phải hoàn lại cho bên kia một lợi ích ngang bằng tương tự như trong quan hệ hợp đồng song vụ... Trong quan hệ thuế, người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách nhà nước nhưng Nhà nước không nhất thiết phải hoàn trả lại cho chính người nộp thuế những lợi ích ngang bằng về mặt giá trị với số thuế đã nộp. Thuế cũng không phải là nghĩa vụ hoàn trả mà người nộp thuế phải thực hiện khi đã nhận được một lợi ích nào đó từ Nhà nước. Thuế là nghĩa vụ luật định được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Vì vậy, giữa người nộp thuế và nhà nước không có sự thoả thuận, mặc cả, đánh đổi. Việc thực hiện nghĩa vụ thuế không phụ thuộc vào đối tượng nộp thuế đó đã hoặc sẽ nhận lợi ích từ phía Nhà nước. Hành vi nộp thuế của người nộp thuế mang tính cụ thể, cá nhân và trực tiếp còn sự thụ hưởng các lợi ích từ nhà nước mang tính cộng đồng, gián tiếp. Điều này cho thấy thuế là một phần công cụ của Nhà nước nhằm điều phối lại lợi ích trong xã hội. Ngoài ra, thuế còn có một số đặc điểm khác như: thuế dùng vào chi tiêu công cộng, thuế là nguồn thu chủ yếu của nhà nước... - Vai trò của thuế: Thứ nhất, thuế là nguồn thu chủ yếu và thường xuyên cho ngân sách nhà nước. Đây là vai trò mang tính lịch sử gắn liền với sự ra đời của thuế vì Nhà nước muốn tồn tại và phát triển thì phải có ngân sách để hoạt động. Ngân sách được tạo lập từ nhiều nguồn thu khác nhau, trong đó nguồn thu từ thuế chiếm vai trò chủ đạo. 7 Tuy nhiên, để thực hiện tốt vai trò huy động nguồn tài chính cho ngân sách, khi xây dựng các chính sách thuế phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Đảm bảo tính bao quát đối với các nguồn thu có khả năng động viên cho ngân sách nhà nước, trên cơ sở xác định hợp lý tỷ lệ động viên so với GDP. Khi thực hiện yêu cầu này, cần lưu ý đến khả năng chịu thuế của người dân. - Phải chú trọng đến khía cạnh công bằng trong điều tiết thu nhập, khi xây dựng và thực hiện chính sách thuế, từ đó thực hiện sự bình đẳng giữa tất cả các đối tượng chịu sự điều tiết thu nhập của thuế. - Chính sách thuế phải tác động tích cực đến các yếu tố giúp tăng trưởng nền kinh tế xã hội nói chung. Cần lưu ý đến các trường hợp ưu đãi về thuế suất hay miễn giảm; các trường hợp không chịu thuế; hình thức thuế suất thích hợp với yêu cầu của từng loại thuế. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển các hoạt động kinh doanh, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã hoạch định.3 Thứ hai, thuế góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ở khía cạnh này thuế không đơn thuần là công cụ tài chính nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà khi tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân, Nhà nước đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Do đó chính sách thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ góp phần điều tiết vĩ mô nhằm thúc đẩy và thu hút đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững, cân đối, hài hoà. Bằng cách ban hành các chính sách thuế phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước qua các ưu đãi, miễn giảm khi đầu tư mới theo vùng lãnh thổ, theo các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào việc tái cấu trúc và định hướng sự phát triển của nền kinh tế... Từ đó phân bổ hợp lý các nguồn lực kinh tế - xã hội. Ngoài ra, thuế còn là công cụ điều tiết giá cả thị trường, góp phần kiểm soát lạm phát hoặc giảm lạm phát, được dùng để điều tiết hoạt động ngoại thương làm cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, kích thích xuất khẩu. Thứ ba, thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư vốn bị phân hoá giàu nghèo do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nhà nước bằng các chính sách thuế của mình động viên một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là những đối tượng có thu nhập cao để thực hiện các nhiệm vụ chi cho các chương trình phúc lợi xã hội mà đối tượng thụ hưởng các khoản chi này phần lớn là người không có thu nhập hoặc có thu nhập thấp. Tuy nhiên, phải để người có thu nhập cao chính đáng được hưởng thành quả lao động của mình thì mới 3 Võ Thế Hào chủ biên (2009), Giáo trình thuế, Nxb Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh, tr 5-6. 8 khuyến khích được họ phát triển sản xuất kinh doanh, tránh lạm thu, trùng lắp đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội. - Phân loại thuế: + Phân loại thuế theo đối tượng chịu thuế, thuế có thể bao gồm: Thuế thu đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ như: thuế GTGT; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế nhập khẩu, xuất khẩu... Thuế thu đối với thu nhập chịu thuế như: thuế TNDN, thuế TNCN... Thuế thu đối với tài sản như: thuế sử dụng đất nông nghiệp... + Phân loại thuế theo phương thức thu thuế, ta có: Thuế trực thu là loại thuế mà nhà nước thu trực tiếp từ đối tượng nộp thuế, đối tượng nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Các loại thuế trực thu hiện hành: thuế TNDN, thuế TNCN... Thuế gián thu: là loại thuế mà Nhà nước động viên từ người chịu thuế nhưng tổ chức thu gián tiếp thông qua đối tượng nộp thuế, trong đó đối tượng nộp thuế không đồng thời là người chịu thuế, điển hình là thuế GTGT. 1.1.2 Nhận thức về tội phạm trốn thuế trong pháp luật hình sự Việt Nam Qua mỗi thời kỳ, giai đoạn khác nhau, tội phạm luôn có sự biến đổi cả về nội dung và hình thức kéo theo đó là sự thay đổi của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng trong đó có các quy định về tội phạm trốn thuế. Tuy nhiên sự thay đổi này luôn có tính tiếp thu, kế thừa các ưu điểm của pháp luật trước đó theo hướng hoàn thiện hơn nhằm đấu tranh một cách có hiệu quả đối với tội phạm trốn thuế. - Trước khi có Bộ luật Hình sự 1985 Ở giai đoạn này, nguồn của pháp luật hình sự Việt Nam nói chung và các chế định về tội trốn thuế nói riêng được quy định tản mạn, rời rạc với nội dung đơn giản như trong các Sắc lệnh đơn hành… Mặt khác, trong thời kỳ này cũng chưa có khái niệm cụ thể về trốn thuế và hành vi trốn thuế. Tuy nhiên, pháp luật hình sự trước khi có BLHS 1985 cũng đã tội phạm hoá và xử lý ở một chừng mực nào đó đối với các hành vi trốn thuế, cụ thể: Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL quy định tạm thời giữ các luật lệ của chế độ cũ ở Bắc – Trung – Nam không trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa cho đến khi ban hành được những quy định mới. Theo đó, những hành vi xâm phạm vào hoạt động kinh tế nói chung và hành vi trốn thuế nói riêng được điều chỉnh theo 9 pháp luật của Pháp ở Nam Kỳ và theo pháp luật của Nhà nước phong kiến Việt Nam ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Từ năm 1946 đến năm 1954, Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật trong đó hành vi trốn thuế được xử lý theo pháp luật hình sự chủ yếu được quy định chung trong các văn bản liên quan đến các tội phạm về kinh tế. Điển hình như: Sắc lệnh số 192/SL ngày 28/5/1948 về việc cấm buôn bán, chuyên chở và tàng trữ các xa xỉ phẩm ngoại hóa; Sắc lệnh số 221/SL ngày 208/1948 về việc cho phép Bộ Nội vụ và Bộ Kinh tế có thể hạn chế tự do buôn bán trong nội địa; Sắc lệnh số 257b/SL ngày 19/11/1948 về việc ấn định thể lệ truy tố những vụ phạm pháp về thể lệ mậu dịch giữa vùng tự do và vùng bị địch chiếm; Thông tư số 223 VN/1 ngày 13/9/1949 của Liên Bộ Nội vụ- Tư pháp- Kinh tế về việc truy tố các vụ phạm pháp kinh tế… Đến năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi thì hoạt động kinh tế được mở rộng, văn bản pháp luật cụ thể về tội phạm trốn thuế mới được ban hành. Trong Thông tư số 427/ TTg ngày 18/12/1954 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Tất cả các kinh doanh công nghiệp, thương mại và thu ích, kể cả các hàng quán có chỗ nhất định hay lưu động đều phải nộp thuế doanh nghiệp… Những người phạm vào các Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10 và 11 sẽ bị phạt một số tiền có thể tới 500.000 đồng, ngoài ra có thể bị phạt từ 1 đến 10 lần số thuế định gian lận. Những người khai man số doanh thu chi ngoài số tiền thuế phải nộp thêm, sẽ bị phạt từ 1 đến 10 lần số thuế định gian lận. Những người làm chứng từ giả hoặc gây trở ngại cho việc thu thuế, không chịu nộp thuế, chống thuế, nếu trường hợp nặng thì sẽ đưa ra Tòa án xét xử.” Từ năm 1955 đến năm 1975, Miền Bắc đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. Trong giai đoạn này, xuất phát từ đặc điểm của chế độ kinh tế nên những trường hợp trốn thuế, gian lận thuế chủ yếu chỉ bị xử lý hành chính. Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ: Riêng đối với thuế sát sinh “Người nào vi phạm chính sách thuế sát sinh thì tuỳ trường hợp nặng, nhẹ mà bị cảnh cáo hoặc bị phạt một số tiền bằng từ 1 đến 5 lần số thuế gian lận. Nếu là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì có thể bị truy tố trước TAND” 4 và có thể bị phạt tù từ 01 đến 6 tháng. 4 Điều 5, Nghị quyết số 37 NQ/TVQH ngày 20 tháng 11 năm 1964 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thuế sát sinh. 10 Đối với những vi phạm về thuế công thương nghiệp thì “Nếu vi phạm nghiêm trọng, như tái phạm nhiều lần, làm chứng từ giả, có hành động chống đối việc thu thuế... thì có thể bị truy tố trước TAND. Những người có hành vi can thiệp gây trở ngại cho việc thu thuế công thương nghiệp có thể bị phê bình, cảnh cáo, hoặc truy tố trước TAND, tuỳ theo mức độ nặng nhẹ” 5 và có thể bị xử phạt tù từ 1 tháng đến 6 tháng. Riêng đối với hành vi vi phạm các quy định về thuế nông nghiệp thì trách nhiệm hình sự không chỉ đặt ra khi có hành vi không chịu nộp thuế, mà còn đối với hành vi lôi kéo hoặc xúi giục người khác không nộp thuế hoặc không chịu nộp thuế lại có hành động đánh cán bộ bị thương nặng, đánh chết cán bộ; cán bộ thuế tham ô, che chở cho họ hàng, khai man lậu thuế, cố tình làm sai chính sách thuế nông nghiệp… thì tùy từng trường hợp cụ thể, có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 5 năm, hoặc có thể bị phạt tù chung thân, tử hình. Giai đoạn từ năm 1976 đến 1985, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động kinh tế và thuế như Nghị định số 119/CP ngày 09/4/1980 ban hành Điều lệ đăng ký kinh doanh công thương nghiệp và phục vụ áp dụng cho khu vực kinh tế tập thể và cá thể; Chỉ thị số 260/CT/HĐBT ngày 6/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng quy định việc đăng ký kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ; Pháp lệnh số 120-LCT ngày 24/6/1980 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi và bổ sung một số điều về thuế công thương nghiệp và thuế sát sinh; Pháp lệnh số 7-LCT/HĐNN ngày 01/7/1982 của Hội đồng Nhà nước về trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép; Pháp lệnh số 9-LCT ngày 03/3/1983 của Hội đồng Nhà nước về thuế nông nghiệp; Quyết định số 111/ HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng quy định danh mục những hàng hóa Nhà nước độc quyền kinh doanh, cấm tư nhân buôn bán... Về cơ bản, hành vi trốn thuế trong thời gian này vẫn chủ yếu bị xử lý về mặt hành chính với hình thức phạt tiền. Trách nhiệm hình sự chủ yếu được quy định chung đối với hành vi kinh doanh trái phép, thể hiện tại Điều 6 Pháp lệnh số 7LCT/HĐNN ngày 01/7/1982 của Hội đồng Nhà nước về trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép quy định: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan Nhà nước và 5 Khoản 5, Điều 44, Nghị quyết số 200/NQ-TVQH ngày 18 tháng 01 năm 1966 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ấn định thuế công thương nghiệp đối với hợp tác xã, tổ chức hợp tác xã và hộ riêng lẻ kinh doanh công thương nghiệp. 11 người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp”, phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng như: phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm; phạm tội có tổ chức; có hành động chống lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ… thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm và bị phạt tiền từ ba lần đến năm lần trị giá hàng phạm pháp. - Sau khi Bộ luật Hình sự 1985 ra đời Trước khi có BLHS, lĩnh vực hình sự chỉ được điều chỉnh bằng những văn bản đơn hành, lẻ tẻ. Việc ban hành BLHS đánh dấu bước tiến bộ quan trọng trong việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, vì đây là một trong những Bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta sau giải phóng. BLHS ra đời vào thời điểm này là công cụ sắc bén góp phần trấn áp các loại tội phạm nói chung và tội phạm trốn thuế nói riêng “nhằm bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa mọi hành vi phạm tội, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Để thực hiện nhiệm vụ này, BLHS 1985 đã dành hẳn một chương quy định các tội phạm về kinh tế, trong đó tội trốn thuế được quy định tại Điều 169: “Người nào trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. Mặc dù quy định còn tương đối đơn giản nhưng với việc xây dựng hoàn chỉnh BLHS trong đó có quy định về tội trốn thuế đã phản ánh sự tiến bộ trong quá trình lập pháp cũng như sự thay đổi về nhận thức trong quản lý nhà nước nói chung và hướng xử lý đối với các hành vi trốn thuế nói riêng. - Theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999 Trước mặt trái của nền kinh tế thị trường các hành vi liên quan đến tội phạm kinh tế ngày càng tăng nhanh đặc biệt là hành vi trốn thuế đã xảy ra tại nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực gây thất thu không nhỏ cho ngân sách quốc gia. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng cho những thay đổi của BLHS 1999 về tội trốn thuế trong BLHS năm 1999, bao gồm: Điều 161. Tội trốn thuế 1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 12 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế. So với quy định của BLHS 1985, quy định này cụ thể, rõ ràng và dễ áp dụng hơn, mức định lượng trong cấu thành tội phạm rõ ràng hơn. Biện pháp xử lý được chia làm nhiều khung hình phạt khác nhau. Điều này giúp đảm bảo công bằng trong chính sách xử lý hình sự về tội trốn thuế. Đối với mỗi mức độ phạm tội khác nhau sẽ được áp dụng những hình phạt tương ứng. Việc ra đời quy định này thể hiện thái độ của nhà nước trước thực trạng trốn thuế đang xảy ra như là một mặt trái của sự phát triển kinh tế, thể hiện chính sách xử lý nghiêm minh, tạo ra tính răn đe, phòng ngừa đối với những ai có ý định thu lợi bất chính thông qua hành vi trốn thuế. 1.2 Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành về tội trốn thuế 1.2.1 Khái niệm về tội phạm trốn thuế Mặc dù việc đóng góp các khoản thuế là nguồn thu cơ bản để duy trì sự hoạt động của bộ máy chính quyền đồng thời thực hiện việc đầu tư phát triển đất nước, tuy nhiên, theo tư duy thông thường thì việc quy định các khoản thuế bắt buộc về mặt cơ học đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của các cá nhân thực hiện nghĩa vụ thuế. Hành vi trốn thuế sẽ xuất hiện theo hướng chuyển những khoản thu nhập lẽ ra phải đóng góp cho xã hội theo nguyên tắc đóng thuế công bằng thì nó lại được chuyển vào túi riêng của các cá nhân. Về bản chất, cùng với các hiện tượng tiêu cực khác, trốn thuế được coi là hiện tượng phát sinh khi có hình thức động viên vào ngân sách nhà nước thông qua thuế. Điều 161 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội trốn thuế như sau: 1. Người nào trốn thuế với số tiền từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền 13 từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đồng đến dưới sáu trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ sáu trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn 6 thuế Theo quy định tại Điều 161 BLHS hiện hành, có thể hiểu: “Trốn thuế là việc người nộp thuế hoặc không thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật quản lý thuế quy định hoặc có thực hiện các nghĩa vụ thuế nhưng bằng những nghiệp vụ kinh tế khác nhau để làm tăng số tiền được miễn, giảm hoặc làm giảm số tiền thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước”7. Tuy nhiên, không phải hành vi trốn thuế nào cũng phải chịu trách nhiệm hình sự mà tùy theo mức độ trốn thuế sẽ có các hình thức xử lý khác nhau. Trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với người có hành vi trốn thuế khi thỏa mãn một số điều kiện cơ bản sau đây: Một là, hành vi trốn thuế phải ở mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Hai là, hành vi trốn thuế phải chứa đựng yếu tố lỗi cố ý với hình thức cố tình không nộp hoặc cố tình nộp ít hơn số thuế đáng ra phải nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu thuế. Ba là, số lượng thuế do hành vi trốn thuế chiếm đoạt được quy định trong văn bản pháp luật hình sự. Bốn là, hành vi trốn thuế phải đáng bị xử lý bằng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam.... Năm là phải do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện. Trên cơ sở sự phân tích nêu trên có thể rút ra khái niệm tội phạm trốn thuế là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gây thất thu cho ngân sách Nhà nước và phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi do họ gây ra. Để hiểu rõ hơn khái niệm trên ta cần đi sâu vào phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội trốn thuế. 6 7 Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng Luật thuế, tr .326
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan