Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường ...

Tài liệu Phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh bình thuận từ đặc điểm nhân thân của người phạm tội

.PDF
125
43
111

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN TỪ ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƢỜI PHẠM TỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015 BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN TỪ ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƢỜI PHẠM TỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60380104 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ NGUYÊN THANH TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Luận văn thạc sĩ "Phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ đặc điểm nhân thân của ngƣời phạm tội" là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi tự thực hiện. Kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trình bất kỳ công trình khoa học nào. Tác giả Ngô Minh Hải DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ATGT An toàn giao thông BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CSND Cảnh sát nhân dân CSGT Cảnh sát giao thông CTTP Cấu thành tội phạm PPHS Phạm pháp hình sự PTGT Phương tiện giao thông TAND Tòa án nhân dân THTP Tình hình tội phạm TNHS Trách nhiệm hình sự TNGT Tai nạn giao thông TTKS Tuần tra kiểm soát UBND Ủy ban nhân dân VCGT Va chạm giao thông VPQĐ Vi phạm quy định MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………….. 1 CHƢƠNG 1. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN………………………………………………………………………. 9 1.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong Bộ luật hình sự 1999………………………………………………….... 9 1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội trong tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận…………………………………………………………………………. 14 CHƢƠNG 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN NHÌN TỪ ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI………………………………………………... 37 2.1. Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ……………………………………... 37 2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ phía người phạm tội …………………... 40 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN, DỰ BÁO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI………………………………………………... 3.1. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận..…………. 3.2. Dự báo tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong thời gian tới tại địa bàn tỉnh Bình Thuận ………. 3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận từ góc độc nhân thân người phạm tội…………………………………………… KẾT LUẬN………………………………………………………………….. 58 58 73 78 89 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta bước đầu đã chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đạt được những chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đem lại đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn cho nhân dân; cùng với đó, hệ thống cơ sở vật chất, giao thông vận tải cũng ngày càng hoàn thiện với chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên, đi đôi với sự phát triển này thì tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng và tình hình tai nạn giao thông đường bộ nói chung trong những năm gần đây cũng gia tăng rất nhanh về cả số vụ, số người chết và bị thương, gây nên những thiệt hại vô cùng to lớn về người và tài sản, làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, bình quân hàng năm, cả nước xảy ra trên 22.000 vụ tai nạn giao thông, làm chết trên 11.000 người và làm bị thương trên 25.000 người và theo ước tính của Ngân hàng phát triển Châu Á, thiệt hại kinh tế do tai nạn giao thông đường bộ hàng năm ở Việt Nam ước khoảng 880 triệu USD, chiếm 2,45%GDP (năm 2003), cao hơn mức trung bình của các nước Asean (2,1%GDP). Đồng thời, trong nghiên cứu quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam, thiệt hại do tai nạn giao thông đường bộ năm 2007 ước tính khoảng 2,89%GDP, tương đương 32.600 tỉ đồng(1). Bình Thuận là tỉnh nằm trên trục giao thông trọng yếu Bắc – Nam, với ba tuyến quốc lộ chạy qua, tất cả đều đã và đang được nâng cấp, mở rộng và hoàn thiện dần gồm: Quốc lộ 1A xuyên Việt (chiều dài đi qua tỉnh là 180,5km); Quốc lộ 55 từ Lâm Đồng đi Bà Rịa – Vũng Tàu (chiều dài qua tỉnh là 152,5km); Quốc lộ 28 từ thành phố Phan Thiết đi huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng (chiều dài qua tỉnh là 42km). Với đặc điểm đó, tình hình tai nạn giao thông tại địa bàn tỉnh Bình Thuận trong những năm qua cũng diễn ra hết sức phức tạp. Theo số liệu thống kê của Ban An toàn giao thông tỉnh, từ năm 2009 đến năm 2013, toàn tỉnh Bình Thuận xảy ra 1.218 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1.349 người và làm bị thương 581 người. Cùng với tình hình tai nạn giao thông diễn biến phức tạp như trên, tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ cũng diến (1) Bộ Giao thông vận tải(2011), Báo cáo cuối kỳ thực hiện chiến lược quốc gia đảm bảo ATGT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Viện chiến lược và phát triển giao thông vận tải, Hà Nội, tháng 01/2011, tr.8. 2 biến phức tạp không kém, từ năm 2009 đến hết năm 2013, toàn tỉnh Bình Thuận xảy ra 1192 vụ phạm tội/1218 vụ tai nạn giao thông, chiếm tỉ lệ 98,69% số vụ tai nạn giao thông xảy ra. Đồng thời, theo số liệu thống kê năm 2009, Bình Thuận có số vụ tai nạn giao thông xảy ra cao thứ 10 cả nước, xếp sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng nai, Bình Dương, Long An, Quảng Nam, Đắk Lắk, Tiền Giang, Hải Dương; có tỉ lệ người chết do tai nạn giao thông trên 100.000 dân đứng thứ 4 cả nước sau Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Dương; có tỉ lệ người chết do tai nạn giao thông trên 10.000 phương tiện đứng thứ 5 cả nước sau Quảng Bình, Quảng Trị, Hòa Bình, Đắk Nông(2). Thời gian qua, cùng với nổ lực chung của cả nước, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận cũng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể nhằm tạo chuyển biến tích cực, kéo giảm số vụ tai nạn giao thông nói chung và phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng, góp phần ổn định trật tự xã hội, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho công cuộc phát triển kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế tình hình tai nạn giao thông đường bộ vẫn chưa giảm mà có xu hướng ngày càng diễn biến phức tạp; tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Bình Thuận vẫn còn ở mức cao. Thực trạng trên đòi hỏi phải có những giải pháp hợp lý và có hiệu quả hơn nhằm phòng ngừa tai nạn giao thông nói chung và phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng. Trước tình hình trên, với mong muốn góp phần nhỏ nhằm làm kéo giảm tình hình tai nạn giao thông nói chung và tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng, tác giả đã chọn vấn đề "Phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ đặc điểm nhân thân của người phạm tội" làm Luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Tai nạn giao thông đường bộ là một hiện tượng xã hội xuất hiện và gia tăng cùng với sự phát triển của hoạt động giao thông đường bộ. Trong thời gian qua, việc nghiên cứu về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự, cán bộ thực tiễn với nhiều góc độ và mục đích nghiên cứu khác nhau. Điểm lại từ sau (2) Bộ Giao thông vận tải, tlđd, số 1, tr.15, 16, 17. 3 khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố như các Luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo… Theo thứ tự thời gian có thể kể đến các nghiên cứu điển hình như: Năm 2001, Tiến sĩ Bùi Kiến Quốc đã có luận án tiến sĩ luật học với đề tài “Các biện pháp đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà Nội”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong Luật hình sự nước ta qua các thời kỳ, có sự so sánh với luật hình sự một số nước; tình hình công tác đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại địa bàn Hà Nội; phân tích, đánh giá các đặc điểm về cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, phương tiện vận tải và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông, tác giả đã đưa ra các nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh đối với loại tội phạm này. Năm 2003, Nhà xuất bản chính trị quốc gia đã xuất bản cuốn sách mang tên “Trật tự an toàn giao thông đường bộ, thực trạng và giải pháp” của tập thể tác giả gồm tiến sĩ Trần Văn Luyện, kỹ sư Trần Sơn và cử nhân Nguyễn Văn Chính; năm 2008 Nhà xuất bản Công an nhân dân cũng đã xuất bản cuốn sách “Hoạt động phòng ngừa tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” do Thạc sĩ Hoàng Đình Ban (nay đã là tiến sĩ) biên soạn. Đồng thời, tháng 01 năm 2011, Viện chiến lược và phát triển giao thông vận tải cũng đã ban hành “Báo cáo cuối kỳ thực hiện chiến lược quốc gia đảm bảo an toàn giao thông đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, trên cơ sở phân tích hiện trạng phát triển kinh tế xã hội, tình hình tai nạn giao thông cũng như hiện trạng phương tiện giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tình hình tổ chức giao thông vận tải đường bộ và thực trạng triển khai một số công tác có liên quan đến công tác đảm bảo an toàn giao thông cũng như cơ chế, chính sách, pháp luật về an toàn giao thông, có sự so sánh với tình hình tai nạn giao thông trên thế giới. Báo cáo đã đưa ra một số định hướng phát triển giao thông vận tải ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đồng thời đưa ra định hướng thực hiện chiến lược trên thực tế. Tiếp đó, năm 2013, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trung tướng, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm - Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, Trung tâm Nghiên cứu an toàn giao thông thuộc Học viện Cảnh sát nhân dân đã tập trung nghiên cứu và biên soạn cuốn sách: “Trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn 5 thành phố trực thuộc Trung ương -Thực trạng và giả 4 trực thuộc trung ương (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cầ ấ Bên cạnh đó, có rất nhiều Luận văn viết về vấn đề này dưới các góc độ khác nhau như: - “Đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Long An”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2008 của Phạm Thị Thanh Thảo, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - “Hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên các tuyến giao thông đường tỉnh, đường huyện, đường xã của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2010 của Đặng Thế Trung, Đại học Cảnh sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh)”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2010 của Nguyễn Đắc Dũng, Đại học Luật Hà Nội; - “Đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang và Bến Tre”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2010 của Ngô Hoàng Huy, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - “Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2011 của Nguyễn Thành Phúc, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; … Qua nghiên cứu các tài liệu trên cho thấy các tác giả đã nghiên cứu vấn đề tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rộng và hết sức phức tạp. Các công trình nghiên cứu này, hoặc là nghiên cứu rộng và đã được 5 thực hiện từ lâu (2001) nên giá trị về lý luận và thực tiễn hiện nay không cao, hoặc nghiên cứu chuyên sâu ở khía cạnh nạn nhân (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thành Phúc) hay nghiên cứu ở một số địa bàn cụ thể; chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này từ góc độ nhân thân của người phạm tội. Đặc biệt, đối với tỉnh Bình Thuận, dù tình hình tai nạn giao thông đường bộ diễn biến hết sức phức tạp, xếp thứ 10/63 tỉnh, thành phố trong cả nước về số vụ tai nạn; có tỉ lệ số người chết vì tai nạn giao thông trên 100.000 dân đứng thứ 4 cả nước(3) nhưng lại chưa có bất cứ một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình này, trong nội dung Luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu các đặc điểm nhân thân của người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận để từ đó tìm ra các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm và đưa ra các giải pháp phòng ngừa có hiệu quả đối với tội phạm này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ thực trạng về tình hình nhân thân người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Bình Thuận từ năm 2009 đến năm 2013, phân tích các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, xác định các nguyên nhân phạm tội từ đặc điểm nhân thân người phạm tội để đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng và tình hình tai nạn giao thông nói chung trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. Nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội trong tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận năm 2009 đến năm 2013. - Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ góc độ nhân thân người phạm tội. (3) Bộ Giao thông vận tải, tlđd (1), tr.16. 6 - Từ góc độ nhân thân người phạm tội, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác phòng ngừa đối với loại tội phạm này của các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ năm 2009 năm 2013. - Dự báo tình hình tội phạm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận từ góc độ nhân thân người phạm tội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội trong thực trạng tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, các nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm này từ góc độ nhân thân người phạm tội. Hay nói cách khác, nhân thân người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Bình Thuận là chủ đề xuyên suốt trong Luận văn khi phân tích về tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và các biện pháp phòng ngừa tội phạm này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vikhông gian: Luận văn nghiên cứu tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. - Phạm vi thời gian: Thông tin, tài liệu được nghiên cứu, khảo sát từ năm 2009 đến năm 2013. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Các nguyên lý, quy luật, phạm trù nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận được tác giả vận dụng để tiếp cận, lý giải, đánh giá những vấn đề nghiên cứu trong Luận văn. Bên cạnh đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng chống tội phạm nói chung và phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng cũng đóng vai trò phương pháp luận đối với Luận văn này. - Phương pháp nghiên cứu cụ thể: + Phương pháp thống kê hình sự: Thống kê các bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận và Tòa án nhân dân các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh. Thống kê số liệu không khởi tố vụ án hình sự vì lý do người thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã chết (theo Khoản 7 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự) tại 7 cơ quan điều tra các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh để có số liệu đánh giá chính xác thực trạng tình hình tội phạm tại địa bàn tỉnh Bình Thuận. + Phương pháp nghiên cứu chọn lọc: Để minh chứng một cách cụ thể, sâu sắc hơn về đặc điểm nhân thân người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, ngoài số liệu thống kê chính thức, tác giả đã tiến hành khảo sát 292/781 bị cáo đã bị kết án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Bình Thuận từ năm 2009 đến năm 2013 để tìm ra quy luật, đặc điểm chung về nhân thân người phạm tội. + Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình được sử dụng để minh họa những trường hợp cụ thể liên quan đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. + Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp tư duy phân tích, so sánh, tổng hợp để mô tả, giải thích và đưa ra các kết luận về những vấn đề được nghiên cứu trong Luận văn. Quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã gặp những khó khăn nhất định trong việc thu thập các số liệu về thực trạng tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Bởi thực tế hiện nay, Tòa án nhân dân các cấp chưa có số liệu thống kê riêng đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Vì vậy, tác giả đã tiến hành thu thập, tách số liệu án đã xét xử của Tòa án nhân dân 10 huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh không bị kháng cáo, kháng nghị và số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh để tổng hợp thành số liệu xét xử chung của toàn tỉnh đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Đồng thời, tự tiến hành thu thập số liệu các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định không khởi vụ án hình sự theo Khoản 7 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự tại Công an 10 huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh để có sự đánh giá chính xác thực trạng tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Bình Thuận. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đọc và trích các đặc điểm nhân thân của 292 bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phục vụ cho việc phân tích, đánh giá các đặc điểm nhân thân của người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Mặc dù vấn đề đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng 8 ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã được một số cơ quan, đơn vị, cá nhân nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, nhưng đây là lần đầu tiên có một công trình nghiên cứu về đề tài này trên địa bàn tỉnh Bình Thuận được tiếp cận dưới góc độ nhân thân người phạm tội. Chính vì vậy, đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ nói chung và về phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng. - Giá trị ứng dụng: Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn giao thông và phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tại địa bàn tỉnh Bình Thuận. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, nội dung của Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chƣơng 1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và đặc điểm nhân thân người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận. Chƣơng 2. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận nhìn từ đặc điểm nhân thân người phạm tội. Chƣơng 3. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bình Thuận, dự báo và một số kiến nghị từ góc độ nhân thân người phạm tội. 9 CHƢƠNG 1 TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂNNGƢỜI PHẠM TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN 1.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong Bộ luật hình sự 1999 Tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ được được quy định từ rất sớm, trong Bản sơ kết kinh nghiệm về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn (Công văn số 949 -NCPL ngày 25/11/1968 của Toà án nhân dân tối cao) đã quy định tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn là tội phạm xâm phạm nền ATGT, một bộ phận của nền trật tự, trị an và thuộc loại tội khinh xuất. Đường lối xử lý đối với người phạm tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn được quy định là: “trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”. Đến năm 1976, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và hình phạt, tại Điều 9 của Sắc luật này có quy định “tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân”. Đến năm 1985, khi BLHS năm 1985 được ban hành, hành vi xâm phạm đến các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 186 với tên tội danh là: “Tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”. Đến năm 1991, thì Điều luật này tiếp tục được sửa đổi bổ sung. Theo BLHS năm 1991 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985, tên tội danh được sửa thành “Tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải”, riêng nội dung của tội phạm vẫn được giữ nguyên. Ngày 22/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Tại Chương XIX, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng đã quy định tách riêng hành vi vi phạm các quy định về ATGT vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không thành các tội phạm độc lập. Điều 202 quy định tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ như sau: “Tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ 10 1. Người nào điều khiển PTGT đường bộ mà VPQĐ về ATGT đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định; b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng; c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 4. VPQĐ về ATGT đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” Theo quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì: Khách thể của tội phạm Tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ xâm hại đến hai loại quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ là an toàn công cộng, trật tự công cộng và tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. Trong đó, loại quan hệ xã hội bị xâm hại thể hiện đầy đủ, đúng nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong trường hợp này là an toàn công cộng, trật tự công cộng trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Do vậy, khách thể trực tiếp của tội phạmVPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ là an toàn công cộng, trật tự công cộng trong lĩnh vực giao thông đường bộ; mà thực chất đó là những quy tắc, quy định để đảm bảo trật tự ATGT đường bộ và trật tự an toàn xã hội. Đối tượng tác động của 11 tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ là hoạt động bình thường của các chủ thể khi tham gia giao thông đường bộ. Mặt khách quan của tội phạm Hành vi khách quan của tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ không được quy định trực tiếp trong BLHS mà được quy định dưới dạng dẫn chiếu sang những hành vi VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ theo Luật Giao thông đường bộ. Theo đó thì có nhiều hành vi vi phạm khác nhau nhưng có thể tựu chung lại thành nhóm các hành vi vi phạm các quy định đối với người điều khiển PTGT; vi phạm quy tắc ATGT đường bộ; vi phạm các quy định về thể lệ vận tải; vi phạm các quy định về tiêu chuẩn kỷ thuật an toàn của PTGT… Hậu quả của tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ thể hiện thông qua các loại thiệt hại phi vật chất, thiệt hại về vật chất và thiệt hại về thể chất. Thiệt hại phi vật chất do tội phạm này gây ra là tình trạng nguy hiểm trong hoạt động giao thông đường bộ, mức độ thiệt hại được đánh giá thông qua hoạt động tư duy của con người nên chỉ mang tính tương đối. Thiệt hại về vật chất, thể chất là những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản bị mất mát, hư hỏng, hao hụt, bị hủy hoại. Nghị quyết số 02/HĐTPTANDTC ngày 17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 1999 đã quy định cụ thể mức định lượng thiệt hại về vật chất, thể chất để xác định các trường hợp hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được quy định Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 202 BLHS. Theo đó, những trường hợp được coi là gây hậu quả nghiêm trọng tại Khoản 1 Điều 202 được quy định cụ thể tại Khoản 1, Mục 4 của Nghị quyết. Những trường hợp được coi là gây hậu quả rất nghiêm trọng tại Khoản 2 Điều 202 được quy định cụ thể tại Khoản 2, Mục 4 của Nghị quyết. Những trường hợp được coi là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng tại Khoản 3 Điều 202 được quy định cụ thể tại Khoản 3, Mục 4 của Nghị quyết(4). Đồng thời, mới đây nhất, tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLTBCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật (4) Xem thêm Nghị quyết số 02/HĐTPTANDTC ngày 17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 1999. 12 tự, ATGT cũng đã quy định cụ thể mức định lượng thiệt hại về vật chất, thể chất để xác định các trường hợp hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Trong một CTTP nếu hậu quả đã được phản ánh là một dấu hiệu trong mặt khách quan thì mối quan hệ nhân quả cũng sẽ là một dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của CTTP. Như vậy, việc áp dụng CTTP tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ không chỉ đòi hỏi phải xác định hậu quả nghiêm trọng cho xã hội mà còn phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Theo đó, một người chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm có mối quan hệ nhân quả với nhau, hay nói cách khác là hậu quả nguy hiểm đó phải do chính hành vi khách quan của họ gây ra. Khi có một vụ TNGT xảy ra thường do một loạt các nguyên nhân và điều kiện tác động, gắn liền với nhau. Chúng có thể là hành vi vi phạm của người điều khiển PTGT, có thể do sự vô ý của người khác trong đó có người bị hại, hoặc do lỗi của cả 2 bên, thậm chí do lỗi của người thứ ba, tình trạng đường sá, thời tiết, thiết bị an toàn của PTGT, hệ thống đèn, biển báo giao thông, do tình trạng sức khoẻ của nạn nhân và điều kiện cứu chữa nạn nhân... Như vậy, trong từng trường hợp một, đặt trong hoàn cảnh cụ thể đó phải xác định được những nguyên nhân nào do ai gây ra, đâu là nguyên nhân trực tiếp, đâu là nguyên nhân gián tiếp. Đây cũng chính là nội dung của việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của loại tội này. Chủ thể của tội phạm Tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ được quy định tại Điều 202 BLHS, có khung hình phạt cao nhất đến 15 năm tù nên theo quy định tại Điều 8 BLHS thì thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Đồng thời, lỗi của người phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ là lỗi vô ý. Do vậy, căn cứ quy định tại Điều 12 BLHS thì tuổi của người phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ phải từ đủ 16 tuổi trở lên. Ngoài ra, chủ thể của tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ đòi hỏi có một dấu hiệu riêng biệt khác, đó phải là người điều khiển PTGT đường bộ. Theo quy định tại Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì: “Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ” và “phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô 13 tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự”; “phương tiện giao thông thô sơ đường bộ gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự”; “Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ”. Những người tham gia giao thông khác như: người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ không phải là chủ thể của tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ. Như vậy, chủ thể của tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ là người điều khiển PTGT đường bộ, từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS thực hiện hành vi quy định tại Điều 202 BLHS. Mặt chủ quan của tội phạm Người thực hiện hành vi phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ hoàn toàn có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội, do vậy họ bị coi là có lỗi. Đồng thời, họ có thể nhận thức hoặc không nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thể hiện ở chổ có thể thấy trước hoặc không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội. Sự không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ thể hiện ở chổ người điều khiển PTGT đường bộ mặc dù đang thực hiện hành vi VPQĐ về điều khiển phương tiên giao thông đường bộ nhưng vì cẩu thả nên không ý thức được sự vi phạm của mình, có thể là do chưa được học những quy tắc an toàn khi tham gia giao thông đường bộ, chưa được đào tạo về điều khiển PTGT đường bộ hoặc trong tình trạng thiếu tập trung, thiếu chú ý quan sát khi tham gia giao thông. Do vậy họ không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình đang thực hiện. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về giao thông đường bộ cũng như những quy tắc an toàn về điều khiển PTGT đường bộ buộc người thực hiện hành vi vi phạm trong trường hợp này phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của mình gây nên. Sự thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ chỉ mang tính chất chung chung, trừu tượng ở mức độ 14 khả năng, nguy cơ; không thấy trước một cách thực tế, cụ thể nên không thuộc trường hợp lỗi cố ý. Người phạm tội thấy trước hành vi của mình nói chung, hoặc trong những tình huống tương tự có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng tin tưởng rằng hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ không xảy ra. Việc phán đoán, đánh giá, tính toán cân nhắc này hoàn toàn không phù hợp với thực tế khách quan. Hay nói cách khác, nhận định chủ quan của người phạm tội là không có cơ sở thực tế nên hậu quả tai nạn đã xảy ra trái với nhận thức, trái với ý muốn của họ. Cả hai trường hợp nhận thức được hậu quả nguy hại hoặc không nhận thức được hậu quả nguy hại cho xã hội, người phạm tội đều hoàn toàn không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả cho xã hội. Do vậy, tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ chỉ có thể thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin hoặc vô ý phạm tội do cẩu thả. 1.2. Đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội trong tình hình tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ tại tỉnh Bình Thuận Tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận là một bộ phận không thể tách rời của tình hình tội phạm nói chung và được thể hiện bằng tổng thể các tội phạm và người phạm tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ xảy ra trong một khoảng thời gian xác định. Thông tin về nhân thân người phạm tội cũng phản ánh đặc điểm của tình hình tội phạm. Tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận thể hiện thông qua các thông số như: - Thực trạng của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ; - Cơ cấu của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ; - Động thái của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ; - Tính chất tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ. 1.2.1. Nhân thân người phạm tội trong thực trạng tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 1.2.1.1 Tội phạm rõ trong thực trạng tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Thực trạng của tình hình tội phạm bao gồm hai bộ phận: số người phạm tội, số tội phạm đã xảy ra và đã bị phát hiện, xử lý (tội phạm rõ) và số người phạm tội, số tội phạm đã xảy ra nhưng chưa bị phát hiện, xử lý. Tội phạm rõ trong thực trạng của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình 15 Thuận là tình hình tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị các cơ quan chức năng phát hiện và xử lý theo thủ tục tố tụng hình sự và được thể hiện qua số liệu thống kê của các cơ quan chức năng. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCABQP ngày 01/7/2005 hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê tội phạm, thống kê hình sự, nội dung thống kê tội phạm được chia thành 3 giai đoạn tương ứng với số liệu thống kê từ các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong đó,“thống kê tội phạm trong giai đoạn khởi tố là thống kê những vụ án, bị can mới bị khởi tố, Viện kiểm sát đã thụ lý kiểm sát điều tra”; “thống kê tội phạm trong giai đoạn truy tố là thống kê những vụ án, bị can mà Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố, đình chỉ, tạm đình chỉ”; “thống kê tội phạm trong giai đoạn xét xử là thống kê những bị cáo có tội trong giai đoạn xét xử, bao gồm các trường hợp: có tội nhưng được đình chỉ theo yêu cầu của người bị hại, có tội nhưng được đình chỉ và miễn TNHS, đình chỉ do bị cáo chết hoặc do có sự thay đổi của pháp luật hình sự, bản án của tòa án tuyên xử bị cáo có tội”(5). Theo đó, để tiếp cận thực trạng tội phạm rõ của tình hình tội phạm VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ, có nhiều cách tiếp cận khác nhau từ số liệu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong nội dung Luận văn này, chúng tôi chọn cách tiếp cận thông qua số liệu thống kê những bị cáo có tội trong giai đoạn xét xử, bao gồm các trường hợp: có tội nhưng được đình chỉ và miễn TNHS, đình chỉ do bị cáo chết, bản án của tòa án tuyên xử bị cáo có tội. Theo các số liệu thống kê tội phạm của TAND các cấp cho thấy, từ năm 2009 đến nay, đối với tội VPQĐ về điều khiển PTGT đường bộ tại địa bàn Bình Thuận, không có các trường hợp có tội nhưng được đình chỉ và miễn TNHS hay đình chỉ do bị cáo chết mà chỉ có các trường hợp bản án của tòa án tuyên xử bị cáo có tội. Qua tổng hợp số liệu thống kê tội phạm từ các bản án tuyên xử bị cáo có tội của TAND tỉnh Bình Thuận và TAND các huyện trong tỉnh (bao gồm các bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và các bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật), từ năm 2009 đến năm 2013, toàn tỉnh Bình Thuận đã đưa ra xét xử 762 vụ và (5) Trích Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP ngày 01/7/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê tội phạm, thống kê hình sự.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan