Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố hà nội...

Tài liệu Quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố hà nội

.PDF
77
22
78

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP ............................................... 6 1.1. Khái niệm hoạt động đăng ký doanh nghiệp, quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp ................................................................................ 6 1.2. Nội dung, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp ..................................................................................................... 12 1.3. Các yếu tố bảo đảm và ảnh hưởng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp....................................................................................................... 22 1.4. Quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp của một số nước trên thế giới ...... 27 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 34 2.1. Đặc điểm kinh tế- xã hội thành phố Hà Nội .............................................. 34 2.2. Hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội ....................................................................................... 36 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................... 62 3.1. Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .............................................................. 62 3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .......................................................................... 65 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Doanh nghiệp là một đơn vị cơ sở, tế bào của nền kinh tế mỗi quốc gia, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước. Muốn doanh nghiệp hoạt động có hiệu quản thì công tác quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là quản lý về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; Trong những năm qua, nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển doanh nghiệp, trong đó rất chú trọng trong việc nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Theo đó hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện, có tính khả thi cao, điều chỉnh toàn diện hoạt động của doanh nghiệp. Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hóa của cả nước, phát triển với nhịp độ tăng trưởng cao, đã và đang hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Với xu thế đó, nhu cầu phát triển của cộng đồng doanh nghiệp thủ đô, mong muốn nhanh chóng gia nhập thị trường là điều tất yếu khách quan. Hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô Hà Nội có số lượng rất lớn khoảng hơn 160.000 doanh nghiệp. Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chấp hành tốt các quy định của pháp luật về doanh nghiệp, tình hình phát triển kinh tế doanh nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, có một số có ý kiến cho rằng hiện nay quy định về công tác đăng ký doanh nghiệp còn chưa được tuyên truyền phổ biến rộng rãi, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp đôi khi còn bị phiền hà, sách nhiễu, công tác hỗ trợ doanh nghiệp chưa được quan tâm. Chính những điều trên đã gây cản trở cho sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp vào thành tựu phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội. Hiện nay, chính 1 quyền thành phố Hà Nội đang yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính, chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa của việc thực hiện đăng ký doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề về doanh nghiệp, thực hiện đăng ký doanh nghiệp là vấn đề xoay quanh quá trình hình thành và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nên việc nghiên cứu vấn đề này vừa có ý nghĩa thiết thực lại mang tính thời sự. Trong những năm qua việc nghiên cứu, tổng kết vấn đề pháp luật về doanh nghiệp và đăng ký doanh nghiệp đã có một số tác giả tiến hành. Có thể kể đến một số công trình có giá trị như: - Phạm Thị Ngọc Anh, Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luật văn thạc sĩ luật học. Tác giả có những đánh giá khái quát về công tác quản lý đối với doanh nghiệp tư nhân về ba nội dung: hoạch định chiến lược và môi trường lý; hỗ trợ chính sách đối với doanh nghiệp và công tác thanh tra kiểm tra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Năm 2012, Đại học Đà Nẵng; - Lê Văn Hưng, cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, luật án tiến sĩ luật học. Tác giả đã nghiên cứu, đánh giá nội dung, thực trạng của việc quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, Năm 2003, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phạm Thu Hường, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng 2 ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn Thạc Sĩ; Tác giả tiến hành khái quát chung về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh trên địa bàn Hà Nội, Năm 2006, Khoa Luật -Đại học quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Việt Anh, hoàn thiện công tác đăng ký kinh doanh ở Việt Nam đến năm 2020, Luận văn thạc sĩ luật học; Năm 2013, Đại học kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội; - Trần Thị Tố Uyên, pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ Luật học. Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về đăng ký kinh doanh và pháp luật về đăng ký kinh doanh, tác giả đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh; Năm 2005, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội Có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước về doanh nghiệp nói chung và việc đăng ký doanh nghiệp nói riêng, nhưng mỗi công trình lại đề cập đến những khía cạnh khác nhau, trên mỗi địa phương khác nhau nên chúng mang những giá trị khác nhau. Đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp vấn đề “Quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Mặc dù vậy, các công trình khoa học đã được công bố là những tài liệu có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu và viết luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; Nghiên cứu, phân tích thực trạng thực thi pháp luật về đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội Đề xuất giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký 3 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội để thấy được những ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội - Đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm công tác quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu việc thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Đối tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến nay; 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; dựa trên đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới và xây dựng nền hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, các tư tưởng, quản điểm về luật học tiến bộ và hiện đại trên thế giới. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu hệ thống, phân tích và tổng hợp, phương pháp khái quát hoá, phương pháp thống kê, so sánh, mô tả… Trong đó, sử dụng nhiều là phương pháp phân tích và tổng hợp. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Việc nghiên cứu luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp nói chung và đăng ký doanh doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, từ đó hoàn thiện hơn cách thức tiếp cận vấn đề này, đồng thời giúp mọi người thấy được vai trò quan trọng của việc quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp với sự phát triển kinh tế của đất nước. Luận văn cũng đánh giá một cách toàn diện thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hà Nội và đưa ra được quan điểm, đề xuất được những giải pháp thiết thực để bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên cả nước và trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo luận văn được chia thành 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm hoạt động đăng ký doanh nghiệp, quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp 1.1.1.Khái niệm hoạt động đăng ký doanh nghiệp Để thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường, chủ thể phải tiến hành hoạt động đăng ký doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. đăng ký doanh nghiệp là thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp, theo đó có thể nhìn nhận dưới các góc độ sau: Về phương diện kinh tế - xã hội: Đăng ký doanh nghiệp là thủ tục đầu tiên của doanh nghiệp phải thực hiện để tham gia vào thị trường, trong hoạt động đăng ký doanh nghiệp, việc thành lập doanh nghiệp và các lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp được thông tin rộng rãi, công khai trên thị trường, bên ngoài xã hội nhằm thu hút sự chú ý của cộng đồng doanh nghiệp (các đối tác tương lai) và cộng đồng xã hội (các bên có liên quan). Về phương diện pháp lý: Đăng ký doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý mang tính hành chính tư pháp để xác nhận địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Theo đó nhà đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của mình và được Nhà nước thừa nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Nói cách khác đây là thủ tục khai sinh cho doanh nghiệp và đưa doanh nghiệp đến với thương trường một cách hợp pháp. Tùy theo luật pháp các quốc gia mà đăng ký doanh nghiệp được giao cho cơ quan hành chính hay cơ quan tư pháp thực hiện. Ở Việt Nam, đăng ký doanh nghiệp được giao cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyên môn là Sở Kế hoạch và Đầu tư. Như vậy, đăng ký doanh nghiệp được hiểu là hoạt động pháp lý bao gồm hành vi của cơ quan 6 nhà nước có thẩm quyền đăng ký doanh nghiệp và của chủ thể kinh doanh. Theo đó, chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy định của pháp luật với những nội dung cụ thể, còn cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thực hiện thủ tục ghi tên vào sổ đăng ký doanh nghiệp đồng thời cấp cho chủ thể đăng ký doanh nghiệp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là bằng chứng pháp lý quan trọng chứng minh chủ thể kinh doanh được tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước công nhận và bảo hộ.Vì vậy, tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp chưa thực sự có, song chi phí trong quá trình đăng ký doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp vẫn được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp và được khấu trừ trong khi tính thuế. Về phương diện quản lý nhà nước: Một trong những thủ tục hành chính bắt buộc mà doanh nghiệp và thương nhân phải hoàn tất trước yêu cầu của nhà nước, nhằm quản lý các công việc kinh doanh. Bất cứ hình thức kinh doanh nào chỉ được xem là hợp pháp trong nước nếu có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Nói cách khác, đăng ký doanh nghiệp được coi là một trong những biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Đăng ký doanh nghiệp là hoạt động quản lý đầu tiên của nhà nước đối với doanh nghiệp, nó sẽ tạo điều kiện để Nhà nước có thể thực hiện các hoạt động quản lý tiếp theo của mình khi doanh nghiệp chính thức đi vào sản xuất, kinh doanh. Về phương diện chính trị pháp lý: Đăng ký doanh nghiệp được hiểu là quyền tự do kinh doanh, một bộ phận của quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, quyền này phải được hiểu là tự do trong khuôn khổ, dân chủ tập trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền đăng ký doanh nghiệp cũng đồng thời là nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do kinh doanh của công dân có nội dung bao gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh và tự do đăng ký loại hình doanh nghiệp. Bất cứ tổ chức nào có đủ điều kiện để 7 kinh doanh đều có thể đăng ký với nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà không ai có quyền ngăn cản trái phép. Theo góc nhìn của pháp luật doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp được hiểu là việc ghi nhận về mặt pháp lý cho sự ra đời và cập nhập những thay đổi trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm về quản lý Thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách diễn đạt khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận1. Theo nghĩa chung, quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể vào các đối tượng cần quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra. Theo điều khiển học: quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước. Các Mác đã viết: “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động” và để nhấn mạnh nội dung này, ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” 1 Theo “Đại Từ điển tiếng Việt” thì quản lý được hiểu: “1. Tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ quan”, “2. Trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì”. (15) Còn theo “Từ điển bách khoa Việt Nam 3” thì quản lý được hiểu là “Chức năng và hoạt động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội), bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó” (12) 8 Quan điểm trên của Mác có thể áp dụng cho mọi hoạt động chung của con người, ở đâu có sự hợp tác thì ở đó cần có quản lý, quản lý tồn tại trong mọi quan hệ xã hội, trong bất cứ lĩnh vực nào và ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, vì hoạt động chung của nhiều người đòi hỏi phải được liên kết lại dưới các hình thức. Một trong những hình thức liên kết đó là tổ chức, tổ chức là yếu tố quyết định đem lại hiệu quả cho quản lý, không có tổ chức thì không có quản lý. Mặt khác, quản lý để duy trì tính tổ chức, mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội, nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Lênin đã viết: “Muốn quản lý tốt mà chỉ biết thuyết phục không thôi thì chưa đủ, mà cần phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa”. Để điều khiển, phối hợp hoạt động của những con người thì cần có những phương tiện buộc con người phải hành động theo những nguyên tắc nhất định, phải phục tùng những mệnh lệnh nhất định. Cơ sở của sự phục tùng là uy tín hoặc uy quyền. Nếu uy tín đóng vai trò là cơ sở quan trọng của sự phục tùng thì uy quyền vẫn là cơ sở chủ yếu. Uy Quyền là phương tiện rất quan trọng để chủ thể quản lý buộc đối tượng quản lý phải phục tùng, là yếu tố không thể thiếu của quản lý. Từ những phân tích nêu trên và dựa trên những tài liệu đã được công bố, có thể hiểu quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện, cơ chế khác nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đặt ra, phù hợp với quy luật vận động khách quan của xã hội 1.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước Quản lý nhà nước là một nội dung trong quản lý xã hội, là quản lý xã hội mang quyền lực nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. 9 Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước nhằm bảo đảm chấp hành pháp luật và các quyết định của các cơ quan quyền lực nhà nước để tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, nói cách khác, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước. Từ khi xuất hiện nhà nước thì phần quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm, tức là nhà nước đứng ra quản lý những quan hệ xã hội cơ bản nhất, bao trùm nhất của đời sống xã hội, đó chính là quản lý nhà nước. Cùng với chủ thể quản lý đặc biệt là nhà nước, tham gia vào quản lý xã hội còn có một số chủ thể khác như các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo..., tuy nhiên, đối tượng và phạm vi điều chỉnh nhỏ hẹp hơn. Vì thế có thể coi quản lý xã hội là một khái niệm bao hàm quản lý nhà nước và quản lý phần công việc còn lại của xã hội. Quản lý nhà nước là quản lý xã hội do nhà nước thực hiện bằng bộ máy nhà nước, gắn với quyền lực nhà nước. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử cụ thể. Quản lý nhà nước xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thông qua các hoạt động đặc thù này mà quản lý nhà nước có những điểm khác biệt so với quản lý xã hội khác, cụ thể: quản lý nhà nước chỉ xuất hiện khi nhà nước xuất hiện. Khi nhà nước xuất hiện thì phần quan trọng các công việc của xã hội do nhà nước quản lý; Pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý nhà nước. Bằng pháp luật, nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức hoặc các cá nhân để họ thay mặt nhà nước tiến hành hoạt động quản lý; Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hay cá nhân mang quyền lực nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý nhà nước bao gồm: nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước hay nói cách khác, thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp, tư 10 pháp. Khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước, trật tự này do pháp luật quy định. Từ những điểm khác biệt đã nêu trên, có thể hiểu quản lý nhà nước là sự tác động có mục đích, chủ yếu bằng pháp luật, của các tổ chức, cá nhân mang quyền lực nhà nước lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước. 1.2.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp Nói một cách khái quát, quản lý nhà nước là sự tác động của Nhà nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc gia nói chung, doanh nghiệp nói riêng bằng hệ thống luật pháp, chính sách tổ chức, các chế tài về kinh tế, tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Có thể hiểu quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp là sự tác động có chủ đích, có tổ chức và bằng pháp quyền của nhà nước và thông qua một hệ thống các chính sách kinh tế với các công cụ kinh tế lên hệ thống các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc gia nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể hơn, quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp là cả một quá trình với nhiều hoạt động như ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức thực hiện đăng ký doanh nghiệp; quản lý cơ sở dữ liệu về thông tin doanh nghiệp quốc gia; bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc; chỉ đạo, 11 hướng dẫn nghiệp vụ về đăng ký doanh nghiệp; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ về đăng ký doanh nghiệp; triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và quản lý doanh nghiệp; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư và doanh nghiệp. 1.2. Nội dung, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp 1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp 1.2.1.1. Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp và văn bản pháp luật có liên quan Để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước, các chủ thể quản lý sử dụng nhiều hình thức hoạt động khác nhau, nhưng hình thức cơ bản và quan trọng nhất là hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Đây là hoạt động quản lý cơ bản tạo ra công cụ quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp. Hoạt động ban hành văn bản pháp luật chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý, bởi vì hầu hết mọi hình thức hoạt động quản lý khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho hoạt động xây dựng và ban hành các loại văn bản pháp luật, hoặc là để tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó. Văn bản pháp luật là phương tiện không thể thiếu và chủ yếu mà các chủ thể quản lý sử dụng để thực hiện hầu hết các nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước. Sau khi ban hành, phổ biến các văn bản pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp, thì các hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về đăng ký doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức thực hiện công tác đăng ký doanh nghiệp. Hướng dẫn các cơ quan quản lý nhà nước thực thi việc quản lý về hoạt động đăng ký doanh nghiệp; bồi dưỡng 12 kỹ năng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện công tác đăng ký doanh nghiệp; Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp là quá trình hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải pháp luật đi vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp, phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò này bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Một trong những vai trò cơ bản của pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội là: pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước. Hiện nay, hệ thống văn bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp bao gồm hai khối chính: thứ nhất, đó là các văn bản điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp đến những nội dung quản lý nhà nước có sự phân biệt nhất định theo loại hình, nguồn vốn sở hữu hoặc lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm một số văn bản quan trọng như: Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014. Thứ hai, đó là các văn bản điều chỉnh trực tiếp hoặc gián tiếp đến những nội dung quản lý nhà nước được áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Đây là hệ thống văn bản pháp lý có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rất rộng, có tác dụng tạo ra một môi trường kinh doanh chung cho mọi hình thức doanh nghiệp, bao gồm: - Các quy định về chế độ tài chính, kế toán đối với doanh nghiệp như: Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, Luật Kế toán năm 2015; Các quy định về đấu thầu, canh tranh, phá sản, bảo hộ nhãn hiệu, các thị trường đầu vào như: Luật Phá sản năm 2014, Luật Cạnh tranh năm 2005, Luật 13 Thương mại năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Đất đai năm 2013; - Các quy định về điều kiện kinh doanh (điều kiện có giấy phép hoặc không cần giấy phép): Đây là hệ thống các quy định liên tục được ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung và nằm trong hầu hết các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Đến nay, chỉ tính riêng hệ thống quy định về ngành, nghề kinh doanh phải có giấy phép bao gồm khoảng hơn 40 Luật, Pháp lệnh và khoảng 150 Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. - Các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính đối với doanh nghiệp như: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Như vậy, có thể thấy rằng, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ, nhất là giai đoạn từ năm 2014 đến nay. Bên cạnh đó, chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp cũng được nâng cao, tiếp cận với pháp luật và thông lệ quốc tế, đáp ứng từng bước của quá trình hội nhập quốc tế. 1.2.1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật Đăng ký thành lập doanh nghiệp mới: bao gồm các loại hình doanh nghiệp doanh nghiệp tư nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công ty cổ phần và công ty hợp danh; Đăng ký doanh nghiệp đối với các công ty được thành lập trên cơ sở chia, tách, hợp nhất và đối với công ty nhận sáp nhập; Đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và ngược lại; doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn; công 14 ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần và ngược lại; Đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp: Thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp gồm có: thay đổi tên doanh nghiệp; thay đổi địa chỉ trụ sở chính; thay đổi vốn điều lệ /vốn đầu tư, cơ cấu tỉ lệ góp vốn; thay đổi người đại diện theo ủy quyền/thành viên/cổ đông công ty; thay đổi người đại diện theo pháp luật; thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân /chủ sở hữu công ty; thay đổi thông tin đăng ký thuế; Đăng ký bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký doanh nghiệp và đăng ký thuế; Đăng ký thành lập mới và đăng ký thay đổi nội dung hoạt động các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh); Đăng ký tạm ngừng kinh doanh, hoạt động trở lại của doanh nghiệp và các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; Đăng ký giải thể doanh nghiệp và chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp do bị chia/bị hợp nhất/bị sáp nhập. Các trường hợp đăng ký chấm dứt hoạt động đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; Đăng ký cấp đổi sang giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cấp lại chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh/văn phòng đại diện; Đăng ký cấp chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay thế nội dung đăng ký doanh nghiệp trong Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư Thực hiện các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp, doanh nhân trong quá trình đăng ký doanh nghiệp để thực hiện nội dung quản lý này, Nhà nước phải tiến hành một số công vụ như: 15 - Tạo nguồn vốn ưu đãi đầu tư cho các chương trình kinh tế trọng điểm của quốc gia, cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. - Xây dựng và tiến hành bảo hiểm sản xuất kinh doanh cho những doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà nước và thực hiện các quy định của bảo hiểm. - Thực hiện miễn giảm thuế cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo định hướng ưu đãi của Nhà nước. - Chuyển giao đến các nhà kinh doanh những thông tin chính trị, thời sự quan trọng có giá trị trong sản xuất kinh doanh để họ biết và tham khảo. - Thực hiện chương trình bồi dưỡng kiến thức quản trị kinh doanh, giúp các doanh nghiệp hiện đại hoá đội ngũ nhân viên nghiệp vụ quản trị doanh nghiệp. - Mở ra các trung tâm thông tin, các triển lãm thành tựu kinh tế kỹ thuật để tạo môi trường cho các doanh nghiệp giao tiếp và liên kết với nhau trong sản xuất kinh doanh. - Thực hiện các hỗ trợ pháp lý, đặc biệt là hỗ trợ tư pháp quốc tế đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế. 1.2.1.3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra Thanh tra và kiểm tra là những hoạt động thiết yếu, thường xuyên của hoạt động quản lý Nhà nước, ở đâu có quản lý thì ở đó có thanh tra, kiểm tra. Thông qua hoạt động thanh tra trong việc đăng ký doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước có thể phát hiện những sai phạm trong quá trình thực hiện quy trình đăng ký doanh nghiệp góp phần bảo vệ lợi ích của quốc gia, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của chủ thể kinh doanh. Chính vì vậy, khi bàn về quản lý nhà nước, Lê Nin đã nói: "Điều kiện tất yếu để công tác quản lý được chính xác là việc kiểm tra tình hình chấp hành chỉ thị và nghị quyết. Kiểm tra thường xuyên việc chấp hành là một trong những ưu điểm cơ bản nhất, tất yếu 16 nhất của phương thức quản lý...". Hoạt động quản lý nhà nước và trong quá trình thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra. Một cơ quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà nước mà không được kiểm tra thì dễ xảy ra lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền, vì mục đích động cơ cá nhân, cục bộ ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. Nếu không thực hiện tốt loại hoạt động này thì tất yếu sẽ ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện chức năng chính. Đây là một trong những nội dung quan trọng đã được cơ quản quản lý nhà nước quan tâm chỉ đạo sát sao, bằng văn bản cụ thể để triển khai tổ chức thực hiện việc thanh tra, kiểm tra hằng năm đối với các đơn vị thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp kịp thời phát hiện những thiếu sót trong quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của tập thể, cá nhân người đứng đầu cơ quan thực hiện đăng ký doanh nghiệp. 1.2.2.4. Hoạt động xử lý vi phạm Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm là hoạt động cơ bản, tiếp theo bảo đảm thực thi chính sách pháp luật, góp phần thiết lập trật tự quản lý nhà nước trong việc thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp theo ý chí của chủ thể quản lý. Việc thực hiện theo dõi, kiểm tra, thanh tra việc hạch sách, nhũng nhiễu doanh nghiệp trong việc thực hiện đăng ký doanh nghiệp, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp sẽ do cơ quan quản lý nhà nước về công tác doanh nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm 1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp * Đặc điểm về chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp 17 Chủ thể quản lý nhà nước về hoạt động đăng ký doanh nghiệp được thực hiện bởi một số chủ thể nhất định. Những chủ thể đó là: - Chính phủ; - Bộ Kế hoạch và đầu tư; - Sở Kế hoạch và đầu tư - Ủy ban nhân dân cấp huyện (Phòng kinh tế tài chính) - Tổng cục thuế - Chi cục thuế Sở kế hoạch và đầu tư là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp bằng pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp thông qua việc thi hành công vụ của các cán bộ công chức thuộc Sở kế hoạch và đầu tư, cụ thể là tiến hành các hoạt động đăng ký và quản lý hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đối với việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về hoạt động đăng ký doanh nghiệp của Sở kế hoạch và Đầu tư thì còn một loại chủ thể cùng tham gia và góp phần quyết định đến việc thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiêp, đó là: cơ quan quản lý thuế (để cấp mã số thuế đồng thời là mã số doanh nghiệp) đặc biệt là các cá nhân, tổ chức kinh doanh là chủ thể phổ biến trong hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp nói riêng. Cá nhân thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp thông qua việc đăng ký các sự kiện như thành lập mới doanh nghiệp, thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, chia, tách, sáp nhập doanh nghiệp ... Nếu như công dân có ý thức tốt trong thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp thì việc thực hiện pháp luật của Sở kế hoạch và đầu tư sẽ thuận lợi, đúng pháp luật và ngược lại, những sai phạm của công dân sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực hiện pháp luật của Sở Kế hoạch và đầu tư, thậm chí dẫn đến những sai sót trong thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp tại phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở Kế hoạch và Đầu tư. 18 * Đặc điểm về phạm vi thực hiện Quản lý nhà nước bằng pháp luật về đăng ký doanh nghiệp chỉ không chỉ có phạm vi trong một tỉnh, một thành phố nhất định. Các doanh nghiệp có thể mở thêm các chi nhánh, văn phòng đại diện, hoặc góp vốn thành lập một doanh nghiệp khác tại tỉnh, thành phố khác trên mọi miền đất nước, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà nhu cầu giao lưu kinh tế, xã hội đã khiến các quan hệ pháp luật về đăng ký doanh nghiệp đi khỏi phạm vi hành chính của một một tỉnh. Bên cạnh đó còn có sự hoạt động của các chi nhánh văn phòng địa diện của nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, việc thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp của cá nhân, tổ chức kinh doanh không chỉ liên quan đến sự quản lý cơ quan đăng ký doanh nghiệp cấp tỉnh nơi đặt địa chỉ trụ sở chính mà còn liên quan đến nhiều địa phương khác trên địa bàn cả nước. * Đặc điểm mục đích thực hiện Việc thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp mang tính kinh tế đối với người kinh doanh,tuy nhiên các chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật về đăng ký doanh nghiệp không nhằm mục đích lợi nhuận hay yếu tố vật chất mà mục đích đảm bảo hoạt động kinh doanh được đúng pháp luật duy trì trật tự xã hội, quyền lợi người tiêu dùng để bảo vệ các quyền tự do kinh doanh những thứ mà pháp luật không cấm của công dân. Mục đích thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp là nhằm đáp ứng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Sở kế hoạch và đầu tư. Ngoài những đặc điểm trên, quản lý nhà nước bằng pháp luật về đăng ký doanh doanh nghiệp có những đặc điểm khác. 2 2 Thứ nhất, đăng ký doanh nghiệp: là một trong những dịch vụ hành chính công do cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện. Thứ hai, theo quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đăng ký doanh nghiệp cũng là thủ tục đầu tiên để tiến hành hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Thứ ba, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đăng ký gia nhập thị trường đều phải thực hiện theo một khung pháp lý chung gồm các thủ tục hành chính sau: đăng ký doanh nghiệp (bao 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan