Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật dân sự việt nam và thực tiễ...

Tài liệu Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật dân sự việt nam và thực tiễn áp dụng quyền khai sinh khai tử trên địa bàn huyện thanh trì, thành phố hà nội

.PDF
86
323
53

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU TRANG QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN KHAI SINH KHAI TỬ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU TRANG QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN KHAI SINH KHAI TỬ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ VỊ 6 TRÍ QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ TRONG HỆ THỐNG QUYỀN NHÂN THÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền nhân thân 6 1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân 6 1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân 12 1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật Việt Nam 14 1.2. Vị trí của quyền khai sinh, khai tr trong hệ thống các quyền nhân thân 18 1.3. Sự tác động và ảnh hưởng của quyền khai sinh, quyền khai tử với các quyền nhân thân khác 23 1.4. Quá trình phát triển của pháp luật việt nam về khai sinh khai tử 25 1.4.1. Giai đoạn trước năm 1945 (thời kỳ phong kiến và thời Pháp thuộc) 25 1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 28 1.4.2.1. Quy định về hộ tịch của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 28 1.4.2.2. Quy định về hộ tịch của chế độ cũ ở miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) 30 3 1.4.2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay Chương 2: QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ THEO QUY ĐỊNH CỦA 31 35 PHÁP LUẬT DÂN SỰ 2.1. Sự cấn thiết của qui định về việc khai sinh, khai tử 35 2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về khai sinh 36 2.2.1. Xác định thẩm quyền đăng ký khai sinh 39 2.2.2. Trình tự, thủ tục thực hiện 40 2.2.2.1. Đăng ký khai sinh cho con trong giá thú 40 2.2.2.2. Đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú 40 2.2.2.3. Đăng ký khai sinh quá hạn 43 2.2.2.4. Khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi 46 2.2.2.5. Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Ủy ban nhân dân xã 47 2.3. Quy định của pháp luật hiện hành về khai tử 49 2.3.1 Thẩm quyền đăng ký khai tử 51 2.3.2. Thủ tục đăng ký khai tử 52 Chương 3: 54 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KHAI SINH, KHAI TỬ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thanh Trì 54 3.1.1. Điều kiện tự nhiên về đất đai 54 3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội 55 3.1.2.1. Về kinh tế 55 3.1.2.2. Về y tế, văn hóa - xã hội 58 4 3.1.3. Vị trí và vai trò của huyện Thanh Trì trong sự phát triển của 59 Thủ đô Hà Nội 3.2. Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội 61 3.3. Thực trạng thực hiện pháp luật trong việc khai sinh trên địa 63 bàn huyện Thanh Trì 3.4. Thực trạng thực hiện pháp luật về khai tử trên địa bàn huyện 66 Thanh Trì 3.5. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và kiến nghị trong việc thực thi pháp luật về khai sinh, khai tử 71 3.5.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật 71 3.5.2. Kiến nghị 73 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 5 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng tổng hợp kết quả giải quyết các sự kiện hộ tịch của 63 bảng 3.1 Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, Hà Nội từ năm 2005 đến năm 2012 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền nhân thân là quyền cơ bản nhất của mỗi con người đã được Bộ luật Dân sự nước ta quy định tại mục 2 chương III. Trong đó quyền được khai sinh và khai tử là một trong những quyền nhân thân quan trọng nhất. Quyền khai sinh được quy định tại Điều 29 và quyền được khai tử được quy định tại Điều 30 mục 2 Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước ta. Quyền khai sinh là quyền đầu tiên của trẻ em được ghi nhận tại Điều 7 công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và có ý nghĩa rất lớn bởi vì chỉ sau khi thực hiện quyền khai sinh, các quyền khác như quyền có họ tên, quốc tịch và những quyền khác mới được thiết lập và thực hiện. Cá nhân, tổ chức có quyền đăng ký khai sinh, khai tử đồng thời cũng là nghĩa vụ phải thực hiện việc đăng ký khi có các sự kiện này xảy ra. Viêc đăng ký khai sinh, khai tử trong thực tế còn một số bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như việc tuân thủ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ trong việc đăng ký khai sinh, khai tử khi có các sự kiện trên xảy ra Thanh Trì là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, ở đây đời sống kinh tế cũng như trình độ nhận thức của nhân dân còn chưa cao, chưa đồng bộ. Chính vì lý do này, mà đến nay vẫn còn tồn tại và phát sinh một số trường hợp chưa hoặc chậm đăng ký khai sinh, khai tử khi có sự kiện hộ tịch này xảy ra. Việc giải quyết các sự kiện hộ tịch còn tồn tại do lịch sử để lại và một số mới phát sinh còn gặp khó khăn, vướng mắc. Một trong những khó khăn của việc đăng ký khai sinh, khai tử muộn là do người dân còn chưa coi trọng công tác này thậm chí một số cán bộ tư pháp - hộ tịch có nhiệm vụ thực hiện việc đăng ký vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác này. 7 Với mong muốn tìm hiểu các quy định của Bộ luật Dân sự về quyền khai sinh, khai tử và áp dụng các quy định này vào thực hiễn để giải quyết tình trạng đăng ký khai sinh, khai tử cho đúng các quy định của pháp luật trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội tôi chọn đề tài "Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng quyền khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội" để làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền nhân thân dưới góc độ là một quyền của con người trong lĩnh vực dân sự như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Bộ Tư pháp: "Một số vấn đề về quyền dân sự và bảo vệ quyền dân sự trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân dân tối cao với đề tài: "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của Bộ luật Dân sự", công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc khẳng định vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân nói chung chứ chưa đưa ra được phương hướng giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ở những trường hợp cụ thể - trong khi đó mỗi quyền nhân thân lại có những đặc thù riêng. Quyền khai sinh, khai tử là một trong số các quyền nhân thân đã được quy định tại luật dân sự Việt Nam năm 1995, năm 2005. Do tính chất là quyền quan trọng nên đã có nhiều học viên cao học, nhiều nhà nghiên cứu đã tiếp cận và nghiên cứu về quyền nhân thân trong đó có quyền khai sinh, khai tử ở các khía cạnh khác nhau nhưng vẫn có một số vấn đề chưa khai thác hoặc chưa khai thác hết hầu như chỉ dừng lại ở việc xem xét, đánh giá các quy định của pháp luật mà chưa có sự đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử. 8 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: Nghiên cứu đề tài "Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng quyền khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội", luận văn nhằm đạt được những mục đích sau: - Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử; - Đánh giá thực tiễn của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết về việc khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh trì. - Đưa ra những giải pháp giải quyết những tồn tại làm tài liệu tham khảo cho cấp cơ sở xã, thị trấn và phòng tư pháp huyện. Nhiệm vụ của luận văn: - Lý giải những vấn đề lý luận chung về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đặc biệt là công tác khai sinh, khai tử. - Đánh giá thực tiễn của công tác đăng ký khai sinh, khai tử cũng như việc thực hiện quyền khai sinh,khai tử của công dân, tổ chức. - Đưa ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của cán bộ công chức cũng như quyền của công dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện đăng ký khai sinh, khai tử của Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Thanh trì. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình thực hiện đăng ký khai sinh, khai tử. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực này trên địa 9 bàn huyện Thanh trì từ năm 2005 đến nay (khoảng thời gian Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định 158/2005/NĐ-CP có hiệu lực thay thế nghị định số 83CP/NĐ-CP). 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài rên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, đề tài tập trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: Phân tích, tổng hợp, so sánh… Đề tài cũng kết hợp chặt chẽ giữu lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. 6. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử theo quy định của luật dân sự trên địa bàn huyện Thanh trì. Ngoài ra luận văn còn góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác đăng ký khai sinh, khai tử và công dân thực hiện quyền của mình. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người trực tiếp làm công tác đăng ký khai sinh, khai tử. Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử theo yêu cầu của công dân. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động áp dụng pháp luật trong việc thực hiện quyền của công dân trên địa bàn huyện Thanh trì và đề ra những giải pháp nhăm đảm bảo áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính. 10 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền nhân thân và vị trí của quyền khai sinh, khai tử trong hệ thống các quyền nhân thân. Chương 2: Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. 11 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ VỊ TRÍ QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ TRONG HỆ THỐNG QUYỀN NHÂN THÂN 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM QUYỀN NHÂN THÂN 1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân Quyền nhân thân là một quyền dân sự của cá nhân, liên quan mật thiết đến quyền con người. Tiếp cận quyền nhân thân không thể không tiếp cận đến quyền dân sự, quyền con người. Con người là trung tâm của xã hội, là đối tượng hướng tới và cần được bảo vệ bằng nhiều thiết chế khác nhau, trong đó có thiết chế pháp luật. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người là quyền của cá nhân trong một xã hội có Nhà nước và pháp luật, theo đó pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho cá nhân có những lợi ích vật chất và tinh thần nhất định. Có thể khẳng định rằng con người với vị trí và tầm quan trọng đặc biệt luôn được các quốc gia tôn trọng và bảo vệ, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi điều kiện kinh tế, chính trị… của thế giới có nhiều thay đổi thì quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người đã và đang được nhiều quốc gia quan tâm như một vấn đề trọng tâm. Quyền con người được hiểu là quyền đối với những lợi ích của con người - với tư cách là chủ thể tham gia quan hệ xã hội, ví dụ như quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa… Sự ra đời của các công ước về quyền con người được coi như là một minh chứng cho tầm quan trọng và sự quan tâm, bảo vệ của mỗi quốc gia đối với quyền con người, điển hình là Công ước quốc tế 1966 của Liên hợp quốc về quyền dân sự, quyền chính trị. Quyền nhân thân theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 là một loại quyền dân sự. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có 12 các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự này có thể do các bên thỏa thuận, trong một số trường hợp, pháp luật quy định cụ thể về quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự mà các bên buộc phải thực hiện. Đảm bảo những lợi ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật chính là đã bảo đảm quyền con người. Hay nói một cách khác quyền dân sự được coi là một khái niệm được bao hàm trong nội dung của quyền con người. Quyền dân sự với tư cách là một quyền con người cũng đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Nhà nước Việt Nam, bằng pháp luật cũng đã thể hiện quan điểm rõ ràng trong việc bảo vệ quyền dân sự. Qua các bản hiến pháp, cụ thể là Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ những quyền con người cơ bản nhất được thể hiện tại Chương V. Quyền dân sự được định nghĩa là "khả năng xử sự được phép của chủ thể có quyền năng được nhà nước quy định hoặc công nhận khi tham gia vào quan hệ dân sự và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện" [22]. Quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích mà các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi liên quan đến vật chất hoặc những lợi ích về tinh thần. Dựa vào những tiêu chí nhất định mà quyền dân sự được phân loại thành những loại quyền khác nhau. Có thể nói sự phân loại phổ biến nhất trong các hệ thống pháp luật dân sự trên thế giới là sự đối lập giữa quyền nhân thân và quyền tài sản. Về khái niệm quyền nhân thân, trên thực tế có nhiều quan điểm khi đề cập tới khái niệm quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất. Luận văn trên cơ sở phân tích những quan điểm nổi bật và đưa ra những nhận định của cá nhân. Theo công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Tòa án nhân dân tối cao, trong đề tài: "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của Bộ luật Dân sự" khái niệm quyền nhân thân được xây dựng trên hai góc độ. Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự là quyền con người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ 13 hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Dưới góc độ khách thể, quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con người về dân sự [30, tr. 19]. Theo đó, quyền nhân thân mà chúng ta đang tìm hiểu được hiểu là quyền con người trong lĩnh vực dân sự, quyền nhân thân này có từ khi mỗi cá nhân sinh ra, là quyền nhân thân để phân biệt các cá nhân với nhau và không thể chuyển giao. Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp lại có cách định nghĩa khác về quyền nhân thân: Quyền nhân thân: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối với tác phẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Khi quyền nhân thân của một người bị xâm phạm thì người đó có quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc tòa án buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình yêu cầu hoặc yêu cầu tòa án buộc người vi phạm bồi thường thiệt 14 hại vật chất hoặc tinh thần. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác [37, tr. 653]. Có thể thấy từ điển luật học này đã đưa ra khái niệm khá súc tích, quyền nhân thân được khẳng định là một loại quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân, các cá nhân không thể chuyển giao quyền nhân thân của mình cho người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định. Nội dung khái niệm về quyền nhân thân trong cuốn từ điển này hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng của Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định: "Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" [27]. Bên cạnh những quan điểm trên còn một số quan điểm của các nhà nghiên cứu luật học mà ngay sau đây xin được trích dẫn một số quan điểm tiêu biểu. Trong bài viết "Khái niệm và phân loại quyền nhân thân", Tạp chí Luật học, số 7/2009, TS Bùi Đăng Hiếu đã thể hiển quan điểm không đồng thuận với quy định tại Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2005 ở hai điểm: Thứ nhất, Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa rằng quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao trừ khi pháp luật có quy định là một khẳng định không thấu đáo, bởi lẽ trên thực tế có một số quyền dân sự thỏa mãn các đặc điểm trên đây nhưng không được xác định là quyền nhân thân. Tác giả bài viết đưa ra những dẫn chứng cụ thể như trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định rằng: "nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác" [24], tương ứng với nghĩa vụ cấp dưỡng Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định quyền yêu cầu cấp dưỡng gắn với những chủ thể nhất định. Theo tác giả, quyền dân sự về cấp 15 dưỡng chính là một loại quyền tài sản. Quyền tài sản này rõ ràng gắn với một cá nhân cụ thể và không thể chuyển giao. Thứ hai, tác giả của bài viết này không đồng ý với quy định cho rằng quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Trong các văn bản mà tác giả dẫn chứng có liên quan đến yếu tố pháp lý của pháp nhân - chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tại Điều 604 và Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2005 có đề cập đến "danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác" hay tại Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đều nhắc đến thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân¸và pháp nhân được bồi thường thiệt hại về tinh thần. Tác giả của bài viết cho rằng những quy định này đã khẳng định quyền nhân thân của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, đồng nghĩa với việc cho rằng quyền nhân thân chỉ gắn với cá nhân như tại Điều 24 Bộ luật Dân sự là không chính xác. Từ những phân tích đó, TS. Bùi Đăng Hiếu cũng đã đưa ra quan điểm cá nhân khi xây dựng định nghĩa về quyền nhân thân: "Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" [9, tr. 40]. Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân: quan điểm của TS. Lê Đình Nghị trong luận án tiến sĩ Luật học Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008), tác giả đã xây dựng khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và chủ quan. Nghĩa khách quan: "quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình" [15]. Theo nghĩa chủ quan, tác giả cho rằng "quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có 16 quy định khác" [15]. Có thể thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm luật khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân. Phân tích một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể thấy rằng chưa thể có một khái niệm thống nhất về quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với mỗi chủ thể từ khi chủ thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại. Xã hội phát triển làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và biến hóa hơn, đồng thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã hội dần hình thành nhiều các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá nhân là chủ thể chủ yếu, trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội cũng đã hình thành và pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp luật dân sự quy định các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền nhân thân là một loại quyền con người, tuy nhiên quyền nhân thân không chỉ gắn với con người với tư cách là cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Đối với pháp nhân, luật dân sự đã có quy định liên quan đến nhân thân của pháp nhân, ví dụ như quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng đã nhắc đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Bằng cách gián tiếp, Bộ luật Dân sự đã công nhận quyền nhân thân cho các pháp nhân. Như vậy có thể khẳng định quyền nhân thân không chỉ gắn với cá nhân mà có thể gắn với chủ thể khác. Như ở phần đầu luận văn chúng tôi đã đề cập tới sự phân loại quyền dân sự thành quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tài sản được hiểu là những quyền có khả năng định giá được bằng tiền và có thể chuyển giao một cách hoàn toàn bình thường với tư cách là một loại tài sản. Quyền nhân thân thì không thể định giá được bằng tiền, nó không mang những giá trị vật chất mặc dù trong một số trường hợp nó có thể là tiền đề để người có quyền năng hưởng một khoản lợi ích vật chất nhất định. Quyền nhân thân có thể xem như "là một loại quyền vô giá" [22]. 17 Từ những lập luận và phân tích trên, chúng tôi xin đưa khái niệm về quyền nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với cá nhân mà không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Quyền nhân thân có các đặc điểm sau đây: Đặc điểm thứ nhất: Quyền nhân thân là một quyền dân sự và là một quyền dân sự đặc biệt. Con người là nhân vật trung tâm của xã hội và luôn là đối tượng hướng tới của các cuộc cách mạng tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Dưới góc độ pháp luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên, quan trọng và phổ biến của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định cho cá nhân là vì con người và hướng tới con người, trong đó có các quyền nhân thân. Sở dĩ nói quyền nhân thân là quyền dân sự đặc biệt và các quyền này gần như chỉ thuộc về cá nhân, trong khi đó các quyền khác (quyền tài sản) có thể thuộc về chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình). Bên cạnh các quyền nhân thân được Bộ luật Dân sự quy định thuộc về cá nhân, có trường hợp ngoại lệ đặc biệt quyền nhân thân có thể thuộc về pháp nhân (theo quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự thì danh dự, uy tín của pháp nhân cũng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ). Đặc điểm thứ hai: Mọi cá nhân đề có sự bình đẳng về quyền nhân thân. Mọi người đều có quyền nhân thân kể từ khi họ được sinh ra, không phân biệt giới tính, tôn giáo, thành phần giai cấp... Chúng ta thấy quyền nhân thân có một sự khác biệt cơ bản với quyền tài sản vì quyền bình đẳng về mặt dân sự không quy định tất cả mọi người đều có khả năng hưởng những quyền như nhau. Nguyên tắc bình đẳng về mặt dân sự có nghĩa là mọi cá nhân đều có những quyền như nhau, đó không phải là một khả năng trừu tượng mà là 18 một thực tế. Lợi ích của quyền nhân thân được quy định như một thực tế chứ không phải là quy định mang tính hình thức. Đặc điểm thứ ba: Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản. Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hay không gắn với tài sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền nhân thân không bao giờ trị giá được thành tiền. Về mặt pháp lý, chúng ta cần phân định rõ tính chất phi tài sản của quyền nhân thân, ví dụ: một người sáng tạo ra một sáng chế hay giải pháp hữu ích. Sáng chế hay giải pháp hữu ích do con người sáng tạo nên mang giá trị kinh tế, chứ bản thân "Quyền tự do sáng tạo" (Điều 47 Bộ luật Dân sự) không phải là tài sản, không mang giá trị kinh tế. Đặc điểm thứ tư: Quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Các quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do vậy về mặt nguyên tắc, cá nhân không thể chuyển dịch quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách khác thì quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá nhân. Ví dụ, người này không thể đổi họ tên cho người khác và ngược lại hoặc một người không thể ủy quyền cho người khác thực hiện quyền tự do đi lại của mình và mình nhận quyền tự do kết hôn của người khác. Điều này có nghĩa rằng bản thân chủ thể hưởng quyền nhân thân chứ họ không thể ủy quyền cho ai đó và thông thường, không ai có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này trừ những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định (Theo quy định của pháp luật, việc thay đổi họ tên của người chưa thành niên có thể do cha mẹ của người này thực hiện trong trường hợp pháp luật quy định - Điều 27 Bộ luật Dân sự). Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật thì quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác, ví dụ: Quyền công bố, phổ biến 19 tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì quyền này có thể chuyển giao cho chủ thể khác (người thừa kế của tác giả). Mặc dù vậy thì có những yếu tố luôn gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi được, ví dụ: quyền đứng tên tác giả, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ quy định cho phép chủ sở hữu quyền tác giả có quyền chuyển giao quyền công bố tác phẩm cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng (Điều 19, Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền công bố tác phẩm, cho phép người khác công bố tác phẩm là một quyền nhân thân). Trong các quyền nhân thân được Luật Sở hữu trí tuệ quy định cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì chúng ta có thể hiểu có cả các quyền nhân thân có thể chuyển giao và quyền nhân thân không thể chuyển giao, mặt khác quy định của pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân là những quyền nhân thân gắn liền với chủ thể mà không thể chuyển giao. Đặc điểm thứ năm: Quyền nhân thân là một quyền dân sự do Nhà nước quy định cho cá nhân, Nhà nước không cho phép cá nhân hạn chế quyền nhân thân của mình cũng như hạn chế quyền nhân thân của người khác. Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ thể được pháp luật thừa nhận. Việc pháp luật quy định cho cá nhân có các quyền nhân thân khác nhau là dựa vào các điều kiện kinh tế - xã hội. Do vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội loài người, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, chế độ chính trị xã hội... mà quyền nhân thân của cá nhân được quy định một cách khác nhau. Quyền nhân thân do Nhà nước "trang bị" cho cá nhân, Nhà nước không cho phép bất cứ cá nhân nào làm thay đổi hay chấm dứt quyền đó. 1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật Việt Nam Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự được Nhà nước ghi nhận cho các cá nhân. Việc ghi nhận các quyền nhân thân chịu ảnh hưởng rất lớn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan