Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 5 Skkn một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu lớp 5...

Tài liệu Skkn một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu lớp 5

.DOC
28
79
117

Mô tả:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC DẠY VÀ PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU LỚP 5 PHẦN I PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho người học. từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo. Trong những năm qua, có một thực tế là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó làm cách nào để có thể giúp cho học sinh nắm được tối đa kiến thức trong bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về : khả năng tiếp thu bài, khả năng nhận thức, sức khoẻ.....so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm riêng biệt vốn có của từng em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả cao hơn, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy 1 tính tích cực, tự giác của học sinh và giảm dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề này là một khó khăn với rất nhiều giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức. Vận dụng sự đổi mới trong công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt khác nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ giúp các em tự tin hơn khi đến lớp, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Những năm qua, được sự quan tâm sâu sát của ngành, chính quyền địa phương, của ban giám hiệu nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh và đặc biệt là sự nỗ lực không ngừng của tập thể thầy cô Trường Tiểu học Thanh Tân trong công tác phổ cập giáo dục Tiểu học – xoá mù chữ. Với những lí do trên, ngay từ đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân tôi luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em có hứng thú học tập, tiếp thu bài được tốt hơn, là điều kiện tốt để các em không ngừng trau dồi tri thức, tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ những suy nghĩ trên, bản thân tôi đã mạnh dạn chọn đề tài : “ Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu lớp 5” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 5B nói riêng và học sinh khối 5 Trường Tiểu học Thanh Tân nói chung. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài 2.1. Mục tiêu của đề tài. Qua những năm trực tiếp giảng dạy, tôi đã nắm bắt và hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích say mê và nỗ lực trong học tập. Điều 2 này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội.Vì vậy, đây là mục tiêu mà những ai đã và đang làm công việc “ trồng người” luôn cố gắng tìm ra những tồn tại, nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt kết quả cao. Từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục. Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của đề tài này. 2.2 Nhiệm vụ của đề tài Khảo sát tình hình học sinh yếu của học sinh lớp 5B. Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu. Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu lớp 5”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Lớp 5B Trường Tiểu học Thanh Tân. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 5B năm học 2013-2014, trong đó chủ yếu là đối tượng học sinh yếu. Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu. Nghiên cứu cách dạy, phụ đạo cho học sinh yếu để nâng cao chất lượng. Tiến hành thực nghiệm. 3 5.Phương pháp nghiên cứu 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận. Nghiên cứu qua sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, phương pháp giảng dạy các phân môn và khảo sát thực tế để tìm cách giải quyết vấn đề nêu trên. Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Điều tra, quan sát, đàm thoại, thực hành, thống kê, tổng kết kinh nghiệm; ... 4 PHẦN II PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở. Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết và tính toán ) của học sinh được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông; đặt cơ sở vững chắc cho sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện con người. Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định, vì thế, làm tốt giáo dục tiểu học là đảm bảo sự phát tiển bền vững của đất nước. Giáo dục tiểu học đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc viết và tính toán. Kiến thức ở tiểu học là những vấn đề cơ bản, cần thiết, đơn giản và gần gũi với cuộc sống thực của học sinh. Các môn học và hoạt động giáo dục ở nhà trường tiểu học góp phần tạo nên những học sinh khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, ham hoạt động, biết yêu thương, quý trọng con người; yêu thiên nhiên, yêu nghệ thuật; có kĩ năng sống, biết sống an toàn, chia sẻ và hợp tác; thích học, biết cách học và học tốt các môn học. Trách nhiệm của nhà trường là tạo cho học sinh niềm vui đến trường, để các em thấy “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” và “ Đi học là hạnh phúc”. 2.Thực trạng 5 Trong thực tế một lớp học bao giờ cũng có sự chênh lệch về trình độ tiếp thu của học sinh và nhất là học sinh yếu kém thì quả là một gánh nặng . Gánh nặng đó, khiến các em khó vượt qua để theo kịp các bạn trong lớp. Vậy làm sao để thúc đẩy động cơ học tập của học sinh yếu- kém. Đó chính là vấn đề đặt ra và cần có hướng giải quyết. 2.1. Thuận lợi, khó khăn: * Thuận lợi. Đối với học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao. Học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập. Đội ngũ giáo viên trong khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban giám hiệu và các đoàn thể trong nhà trường. Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn. * Khó khăn. Như đã nêu ở trên, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức. Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau. Trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, Tiếng Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao. 6 Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế hoặc là gia đình ít quan tâm đến việc học tập của các em. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục là: + Đội ngũ giáo viên + Cơ sở vật chất + Chất lượng đầu vào 2.2 Thành công, hạn chế * Thành công: Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi đã luôn tự bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề để cải tiến phương pháp dạy, bên cạnh đó phải trau dồi cho mình đạo đức nghề nghiệp, thương yêu học sinh, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh; đồng thời tạo sự đoàn kết thương yêu, tinh thần giúp đỡ giữa các em học sinh trong lớp, trong trường. Từ đó lôi cuốn học sinh học tập tích cực hơn. Có một môi trường học tập thân thiện như vậy đã giúp cho các em mạnh dạn, tự tin hơn để phát huy khả năng học tập của mình. * Hạn chế : Bên cạnh nhiệm vụ bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu để các em có thể vươn lên chiếm lĩnh những kiến thức, kĩ năng cơ bản nhất theo yêu cầu của phổ cập giáo dục tiểu học thì mỗi giáo viên như chúng tôi còn phải chủ nhiệm, giảng dạy một lớp mà trong đó còn có cả các đối tượng học sinh khác nhau. Vì vậy, bồi dưỡng học sinh khá, giỏi để các em có thể phát triển tối đa khả năng của mình cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Nhiệm vụ đó đòi hỏi người giáo viên phải có kế hoạch dạy học hợp lí để tất cả các em đều được bình đẳng trong học tập. 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh : 7 Là một giáo viên nhiều năm trong nghề nên kinh nghiệm mà bản thân tích luỹ được cũng khá nhiều. Hơn nữa tôi đã trực tiếp giảng dạy lớp 5 được nhiều năm nên kiến thức, kĩ năng cơ bản trong chương trình các môn học ở lớp 5 tôi nắm khá vững vàng. Mặt khác các đồng chí giáo viên trong tổ, khối là những đồng chí có kiến thức vững vàng, thuận lợi cho việc trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm của nhau. Học sinh lớp 5 có ý thức tự giác cao hơn so với các khối lớp khác trong trường. Hình thức học theo nhóm dễ đạt hiệu quả hơn, là điều kiện tốt để những học sinh khá, giỏi giúp đỡ học sinh yếu. * Mặt yếu : Là học sinh vùng nông thôn nên điều kiện học tập của nhiều em chưa được tốt. Ngoài việc học, nhiều em còn phải tham gia lao động thêm, giúp đỡ gia đình. Mặt khác, nhiều gia đình chưa thật sự chú ý đến việc học của con em mình mà hầu như là giao toàn bộ việc học của con cho nhà trường, cho thầy cô. 2. 4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu : * Về phía học sinh : Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu có thể là do : Học sinh lười học : Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem lại bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi đến lớp nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học, sau đó về nhà lấy vở ra “ học vẹt” mà không hiểu nhiều về nội dung. Tuy nhiên cũng có những em do chưa có phương pháp học tập hợp lí cũng dẫn đến học yếu. 8 Học sinh không có thời gian cho việc tự học : Ở vùng nông thôn thì ngoài thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em còn phải phụ giúp gia đình việc cơm nước, đồng áng, chăn trâu, chăn bò,..... Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ : Đây là một tồn tại khá phổ biến với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh. * Về phía giáo viên : Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác tôi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản thân tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, tôi mạnh dạn nêu ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu. Trong phạm vi của bài viết, tôi chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở hai môn học Toán và Tiếng Việt. 3. Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu lớp 5. 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu phù hợp với điều kiện của lớp mình đang phụ trách, phù hợp với điều kiện chung của nhà 9 trường. Ở trường tiểu học hiện nay có thuận lợi là học sinh được học 2 buổi/ ngày, chương trình dạy buổi sáng nếu chưa hết có thể chuyển bớt sang buổi chiều. Vì vậy, giáo viên có nhiều thời gian để cung cấp đến các em những đơn vị kiến thức mà giáo viên cho là cần thiết cho các em hoặc là những đơn vị kiến thức mà các em nắm chưa vững. Là giáo viên thì ai cũng biết.”Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người về mọi mặt .”Để giáo dục dạy hiệu quả người giáo viên phải hiểu sâu sắc các em . Từ đó mới có thể đặt ra các tác động sư phạm thích hợp và cụ thể với từng đối tượng học sinh. 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Biện pháp 1: Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười... giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như : giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà các em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Biện pháp 2: Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là : sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu 10tự tin, nhút nhát... Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài : giải toán về tỉ số phần trăm ( Toán- lớp 5), đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất :“ Biết cách tìm tỉ số phần trăm của hai số” là đạt yêu cầu rồi. Trong dạy học cần phân hoá đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản đề tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 3 đến 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1 đến 2,3...bài tuỳ theo khả năng của các em. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp là chưa đủ. Có thể phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải phù hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải nặng nề. Biện pháp 3: Giáo dục ý thức học tập cho học sinh Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo 11 dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. Biện pháp 4: Kèm cặp học sinh yếu: Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 5B mà bản thân chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 4 học sinh yếu và bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em. Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,… DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP 5B TIẾNGVIỆT STT Con ông TOÁN (bà) Nơi ở Họ và tên Đọc Viết yếu Không biết Tính yếu 1 Lại Thị Hiền 2 Lại Minh Quang x x tính x yếu x x x Ông Nham Tuân Tràng Ông Bạc Bến Tường 3 Nguyễn Thị Mỹ x 12 Ông Bạc Làng Khương 4 Lê Mạnh Tiến x Ông Bạc Bến Hồng Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục. Biện pháp 5: Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp khắc phục: + Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong lớp 5B còn một số em đọc rất yếu. Như em Lại Minh Quang , em Lại Thị Hiền. Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu, chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lược bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế. + Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến viết sai. + Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu. + Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn. 13 * Biện pháp: + Tập đọc: Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần: - Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút. - Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ. - Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc. - Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc. + Chính tả: Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần: 14 - Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời. - Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng chính tả. - Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. - Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả. + Luyện từ và câu: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu. + Tập làm văn: Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn. Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại. Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp. 15 Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn. Ví dụ: Với đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 ) Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức “ Lễ hội trăng rằm”, tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó. Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả. Biện pháp 6: Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục Trong lớp tôi chủ nhiệm có em Lại Thị Hiền thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia phân số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắc). Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ không nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số thập phân. Mà đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập phân. Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, 16 nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện. Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng. Ví dụ: 125 +217 Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng. Ví dụ: 56 +1024 Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo viên cũng phải yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu phẩy ngăn cách giữa phần nguyên và phần thập phân thì mới tính toán chính xác được. Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần: Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. 17 Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần. Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. Tóm lại: Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra 18 những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao. 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu các khối 4, 5 đạt hiệu quả. Theo dõi bảng số liệu Kiểm tra khảo sát đầu năm và kết quả Kiểm tra định kì cuối học kì I của học sinh lớp 5B, ta sẽ thấy sự tiến bộ vượt bậc của các em : NĂM HỌC TỔNG SỐ 2014 - 2015 HS LỚP 5B KSĐN Cuối HKI SỐ HỌC SINH YẾU Số lượng Tỉ lệ 27 4 14,8% 27 1 3,7% Đặc biệt cuối năm học này, sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm thì việc phụ đạo học sinh yếu trong lớp 5B bản thân tôi chủ nhiệm đến thời điểm này đạt kết quả rất cao: NĂM HỌC TỔNG SỐ 19 SỐ HỌC SINH YẾU 2014 - 2015 Cuối HKII HS LỚP 5B Số lượng Tỉ lệ 0 0% 27 5. Bài học kinh nghiệm : Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần: - Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. - Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. - Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. - Học sinh lớp 5 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập. Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan