Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại 8 và toàn cấp nói ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại 8 và toàn cấp nói chungđối với môn ngữ văn cấp thcs

.PDF
20
184
56

Mô tả:

CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số:……………………………………………. Tên sáng kiến:Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại Việt Nam cấp THCS. 1.Lĩnh vực áp dụng: Đề tài ” Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại 8 và toàn cấp nói chungđối với môn ngữ văn cấp THCS” 2.Mô tả bản chất của sáng kiến: 2.1.Tình trạng giải pháp đã biết: Ngữ văn là một trong những môn học có nhiều tiết học nhất trong chương trình giáo dục THCS. Điều đó cho thấy vị trí và tầm quan trọng của bộ môn này trong quá trình học tập của học sinh. Bộ môn này cũng có mặt trong danh sách các môn thi bắt buộc của học sinh. Tuy nhiên trên thực tế, không nhiều học sinh yêu thích môn học này. Thậm chí, rất nhiều em chán ghét và sợ, mỗi khi đến giờ học Ngữ văn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên, phải kể đến khối lượng các tác phẩm mà các em phải tiếp nhận trong suốt 4 năm học. Chương trình Ngữ văn THCS có phạm vi thời gian kéo dài từ Văn học dân gian cho đến Văn học hiện đại, trải dài theo chiều dài lịch sử của đất nước. Học sinh của thế kỷ 21 phải học những tác phẩm của hàng ngàn, hàng trăm năm về trước. Sự chênh lệch thời gian kéo theo sự thiếu hiểu biết về nhiều lĩnh vực khác nhau, nên khi tìm hiểu một tác phẩm văn học các em gặp phải không ít những khó khăn. Văn học trung đại là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học cơ sở. Văn học trung đại Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, nhiều tác phẩm đạt đến mức điêu luyện, tinh xảo về nghệ thuật và nội dung, đã góp phần không nhỏ về mọi mặt cho nền văn học hiện đại sau này. Vì vậy, việc giảng dạy từ ngữ trong giờ văn thời kì này rất quan trọng và cần thiết, không những làm cho học sinh cảm thụ được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương mà còn góp phần vào việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh, cung cấp cho học sinh một số vốn kiến thức về một thời kì lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng cung cấp cho học sinh một số vốn từ ngữ cơ bản để vận dụng trong giao tiếp hàng ngày và trong viết văn. Việc giảng dạy tác phẩm văn học trung đại bên cạnh một số thuận lợi vẫn còn có không ít những khó khăn vẫn còn là nỗi khốn khổ, gây nhiều khó khăn, phiền toái cho người dạy lẫn người học. Hiểu được những tác phẩm đó chẳng phải là chuyện dễ dàng gì; truyền thụ cái hay, cái đẹp của nó cho người học hiểu được lại càng khó khăn gấp bội phần do nhiều nguyên nhân,bởi những tác phẩm ấy đều viết bằng ngôn ngữ Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại hôm nay. Thêm vào đó là người tiếp nhận văn bản dù muốn hay không phải có kiến thức chắc chắn, ít nhiều phải hiểu rõ môi trường văn hoá trung đại, tư tưởng ý thức hệ chính thống thời trung đại, điển cố điển tích, thể loại văn học ...VËy mµ ®èi tîng tiÕp nhËn ë ®ây l¹i lµ häc sinh THCS, vèn sèng Ýt ái. kh¶ n¨ng ng«n ng÷ cha hoµn thiÖn, vËy lµm sao ®Ó c¶m ®ược c¸i hay c¸i ®Ñp cña v¨n häc trung ®¹i mang tÝnh b¸c häc? Chỉ bấy nhiêu thứ cũng đủ làm cho người dạy lẫn người học đau đầu, mệt trí thì thử hỏi làm sao mà lắng lòng, mà bình tâm để cảm nhận cho được cái tinh hoa cùng vẻ đẹp của văn chương qua cách biểu đạt “ý tại ngôn ngoại” của các bậc thi nhân tiền bối đã gởi gắm trong từng câu chữ. Làm thế nào để cho giờ dạy tác phẩm văn học trung đại đạt chất lượng, hiệu quả ? Giáo viên cần phải chọn những từ ngữ nào để giảng dạy cho học sinh? Dạy thế nào để học sinh cảm thụ được hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm trung đại này? Đó là vấn đề nan giải.Tình trạng học sinh học đến phần văn học trung đại có chiều hướng lơ là, không thích thú, điều này có nhiều lí do như khó hiểu, khó thuộc, khó phân tích và phải nắm vững điều kiện, hoàn cảnh lịch sử… Xuất phát từ thực tế, qua nhiều năm bản thân tôi đã dạy các khối lớp 6,7,8 trong đó có các tác phẩm văn học trung đại rất hay nhưng lại khó. Vì vậy bản thân tôi đã nghiên cứu tài liệu, thử nghiệm, áp dụng một số kinh nghiệm vào quá trình giảng dạy môn Ngữ văn THCS (phần văn học trung đại), đúc kết lại những kinh nghiệm giảng dạy này trong đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại Việt Nam cấp THCS. .2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến a.Mục đích của giải pháp: Đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại Việt Nam cấp THCS.” nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức trong tác phẩm văn học trung đại một cách đầy đủ toàn diện, cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm.Đồng thời cũng nhằm góp phần nâng cao chất lượng học của sinh giáo viên cũng như chất lượng giảng dạy của giáo viên bộ môn ngữ văn ở cấp THCS. b. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp Với đề tài “” Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại 8 và toàn cấp nói chungđối với môn ngữ văn cấp THCS” ” không những giúp học sinh nắm vững kiến thức,hiểu hoàn cảnh lịch sử thời ấy, cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm. *Ưu điểm: -Tập trung khắc phục đặc điểm khó tiếp cận của các thể văn nghị luận cổ hoàn toàn xa lạ đối với học sinh . -Vận dụng triệt để các kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống trong bài học, để mở rộng và khắc sâu thêm kiến thức Văn học. Ví dụ: vận dụng kiến thức lịch sử để hiểu rõ về các tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; vận dụng kiến thức địa lý để nắm được vị trí địa lý cũng như những thuận lợi và khó khăn của cố đô Hoa Lư và thành Đại La; vận dụng kiến thức GDCD để giáo dục tình yêu Tổ Quốc, truyền thống đền ơn đáp nghĩa, ý thức học tập để bảo vệ và xây dựng đất nước…. -Sử dụng kênh hình để hiểu được không khí thời đại (khi tác phẩm ra đời) và đối chiếu với tình hình hiện tại của đất nước, từ đó khắc sâu ý nghĩa của các văn bản được học. - So với giải pháp cũ, sáng kiến lần này của tôi chú trọng vận dụng kiến thức Văn học gắn với đời sống qua việc sử dụng kiến thức liên môn để hướng dẫn học sinh tiếp nhận và khắc sâu kiến thức. *Hạn chế: -Một số học sinh học đến phần văn học trung đại có chiều hướng lơ là, không thích thú, điều này có nhiều lí do như không dành thời gian tìm hiểu tác phẩm, khó hiểu, khó thuộc, khó phân tích và phải nắm vững điều kiện, hoàn cảnh lịch sử… -Do thời lượng các tiết dạy không nhiều nên việc cung cấp kiến thức để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài còn hạn chế về thời gian. Giáo viên dạy cần tự điều chỉnh thời gian các tiết dạy trong tuần cho hợp lý. c.Mô tả bản chất của giải pháp Trên thực tế giảng dạy, tôi đã nhiều lần tìm tòi để đổi mới phương pháp. có thể đúc kết lại những thao tác cụ thể đã từng làm sau đây: 1. Chuẩn bị về kiến thức: 1.1 Nắm vững thể loại và các đặc trưng của thể loại: * Về thể loại - Chiếu: Là thể loại văn cổ, do vua ( chúa hay thủ lĩnh) dùng để ban bố mệnh lệnh - Hịch: Là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hay thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ vũ động viên, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. - Cáo: Là một thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa, hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết. - Tấu: là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị. * Về đặc trưng - Thuyết phục bằng lí trí và tình cảm: nghệ thuật nghị luận chặt chẽ, sắc bén, từ ngữ và hình ảnh cô đọng, gợi ấn tượng sâu sắc. Ví dụ: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…( Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn) - Dùng lối văn biền ngẫu biến hoá linh hoạt, nhịp nhàng. Khi thì là văn xuôi, khi là văn vần. - Văn - sử - triết bất phân - In đậm thế giới quan con người trung đại : Tư tưởng mệnh trời , thần, chủ tâm lí sùng cổ, sùng bái tổ tiên… 1.2 Phân biệt sự khác nhau của 4 thể loại nghị luận: - Khác nhau về mục đích: + Chiếu: Trình bày một chủ trương, đường lối để mọi người chấp thuận bằng cách dùng lí lẽ để lập luận hướng tới mục đích. + Hịch: Kêu gọi, cổ vũ động viên bằng cách dùng tình cảm và lập luận để tác động vào tinh thần. + Cáo: Công bố kết quả của một sự nghiệp bằng cách nêu quan điểm lập trường của sự nghiệp đó. + Tấu: Nêu ý kiến, đưa ra đề nghị, yêu cầu bằng cách lập luận xác đáng và thuyết phục. - Khác nhau về đối tượng viết và nhận: + Chiếu, hịch, cáo: do vua, chúa hoặc thủ lĩnh viết và thần dân, binh lính…tiếp nhận. + Tấu ( biểu, sớ): do thần tử, bề tôi, quan tướng viết dâng lên vua chúa. 1.3 Nắm vững kiến thức về văn học sử: Một trong những hạn chế của chương trình sgk mới là phá vỡ tính hệ thống của văn học sử, do việc chọn Tập làm văn làm tiêu chí lựa chọn văn bản giảng dạy. Do hạn chế này nên học sinh không được tiếp xúc với những bài dạy về văn học sử. Mà cả 4 văn bản trung đại được học đều có mối liên quan mật thiết đến lịch sử. Giáo viên cần nắm chắc kiến thức lịch sử để có cái nhìn bao quát, từ đó có thể lựa chọn phương pháp phù hợp khi hướng dẫn các em hiểu văn bản từ góc độ lịch sử. Có như vậy thì giá trị của tác phẩm văn học mới được hiểu một cách cặn kẽ . 1.4 Chuẩn bị vốn từ Hán Việt,nắm chắc các điển tích, điển cố văn học. - Do đặc điểm viết bằng chữ Hán nên khi dịch sang tiếng Việt, các văn bản không tránh khỏi việc phải sử dụng nguyên vẹn các từ Hán. Bên cạnh đó, còn có một khối lượng điển tích, điển cố rất hay. Việc dùng các điển tích điển cố có tác dụng giúp cho sự diễn đạt trở nên ngắn gọn mà vẫn giàu ý nghĩa và thuyết phục người đọc, người nghe một cách ấn tượng. Ngoài những chú thích được giải nghĩa trong sgk, giáo viên cần tìm hiểu để nắm kĩ hơn nội dung của chúng. Khi cần thiết, để tăng sự hứng thú cho các em dễ hình dung và nắm bắt kiến thức, giáo viên có thể kể ngắn gọn. -Việc dạy điển tích, điển cố Khi dạy điển tích, điển cố, giáo viên cần phải hiểu rõ ràng đến nơi đến chốn. Giáo viên biết để giảng cho học sinh hiểu chứ không phải là giảng hết. Khi không hiểu hoặc chưa hiểu thấu đáo thì không nên giảng. Ví dụ 1: Dạy bài “Hịch tướng sĩ” (Lớp 8 ) của Trần Quốc Tuấn có rất nhiều điển tích, điển cố: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh ... Tất cả những điển tích này sách giáo khoa đã chú thích rất rõ. Giáo viên chỉ cần phân tích ý nghĩa của các điển cố này ở chỗ chúng nêu gương trung quân ái quốc, những điển hình của lí tưởng phong kiến. Đây là những người xả thân cho lí tưởng: trung với vua, với chủ... Cũng cần hiểu rằng thời đại của Trần Quốc Tuấn là thời đại của điền trang, thái ấp, thời đại của nhà nước phong kiến và chủ nô đang gắn bó với quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Trần Hưng Đạo đã nêu những gương xả thân vì lí tưởng phong kiến như vậy nhằm kích thích tinh thần chiến đấu vì lí tưởng của các nghĩa sĩ. Ví dụ 2: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi giảng dạy đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, (Lớp 9 tiết 28) cần giảng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”, tác giả lấy ý tứ từ điển cố “nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc” (một lần quay lại, tướng giữ thành bị mất thành, quay lại lần nữa, nhà vua mất nước). Câu thơ của Nguyễn Du tạo sự súc tích, có sức gợi lớn, nó còn gợi cho ta liên tưởng tới nụ cười của Bao Tự, cái liếc mắt của Điêu Thuyền, một chút nũng nịu của Dương Quý Phi, cái nhăn mặt của Tây Thi, hay một nét sầu não của Chiêu Quân – những người đã từng làm xiêu đổ bao thành trì và triều đại phong kiến Trung Quốc. Tác giả ngầm so sánh Kiều cũng có sắc đẹp như các mĩ nhân ấy. 1.5 Một vài kinh nghiệm giảng dạy từ ngữ trong từng loại thể của văn học trung đại: Văn chương trung đại có nhiều loại thể. Mỗi loại thể có một đặc điểm, phong cách ngôn ngữ riêng. Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm đó mới có nội dung phân tích từ ngữ thích hợp với từng loại thể. Trong chương trình Văn học trung đại ở trương THCS có những loại thể sau: - Thơ Đương luật, - Truyện thơ Nôm, - Văn cổ (truyện, hịch, cáo, chiếu, tấu), - Ngoài ra còn có thể thơ song thất lục bát, thơ lục bát. a. Dạy thơ Đường luật Ta thường gặp trong chương trình Trung học cơ sở các bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt của: Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến ..... ở thơ Đường luật, các từ ngữ được đặt trong hệ thống niêm luật chặt chẽ. Thơ thất ngôn bát cú chỉ gói gọn trong tám câu, bảy chữ, năm mươi sáu tiếng. Các tiếng đó được cấu trúc thành tám câu theo trật tự sóng đôi hai câu một. Chính đặc điểm này bắt buộc nhà thơ phải lựa chọn từ ngữ và sử dụng từ ngữ giàu sức gợi cảm, những từ mang tính nhiều nghĩa. Đặc biệt thơ thất ngôn tứ tuyệt thì số chữ chỉ còn bằng một nửa thơ thất ngôn bát cú. Cho nên, các từ ngữ ấy thường có nhiều lớp nghĩa. Trong một bài thơ thường có nhiều từ ngữ ta gọi là từ “đắt”, từ ngữ “thần”. Trong thơ Đường luật có những bài các từ ngữ thường mang tính hình ảnh ước lệ, đó là do tâm lý thời đại phản ánh vào ngôn ngữ. Tiếng chuông buổi chiều, tiếng mõ, mục đồng, ngư, tiều, canh, mục, tùng, cúc, trúc, mai... đều là những hình ảnh mang tính chất ước lệ. Tuy nhiên, khi phân tích các từ ngữ ấy cần đặt chúng vào đúng thực tế của xã hội Việt Nam để học sinh có thể hiểu rõ nội dung. Đặc biệt, Khi phân tích từ ngữ trong thơ Đường luật cũng cần làm sáng tỏ các lớp nghĩa của từ. Ví dụ: Trong bài “Nam quốc sơn hà” (lớp 7 tiết 17) từ “thiên thư” tức “sách trời” cần cho học sinh hiểu “trời” trong quan niệm của ta và người đương thời là lực lượng siêu nhiên, trùm lên tất cả, sinh ra tất cả. Đến vua, hoàng đế trị vì muôn dân cũng chỉ là con trời. ở đây, trời đã công nhận, đã ghi vào bộ sách của mình quyền làm chủ đất nước của vua Nam thì tức là chân lý đã công nhận điều đó. Thơ Đường luật ở Việt Nam có những bài đã được Việt hóa có những điểm khác. Chúng ta thường gặp nhiều tính từ có nhiều lớp nghĩa, các tính từ có nhiều sức gợi tả như từ tượng hình, từ tượng thanh: Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Hoặc các tính từ mang hình ảnh tượng trưng có sức tạo liên tưởng lớn: Rắn nát mặc dầu tay kể nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Vì vậy, khi phân tích cần chú ý đến các tính từ và phân tích các lớp nghĩa của chúng. Khi chọn từ phải đọc kỹ toàn bài. ở thơ Đường luật được Việt hóa nhiều khi không tuân thủ mọi quy tắc niêm luật, giáo viên cần lưu ý để giảng giải cho học sinh. Ví dụ: Khi phân tích bài “Qua Đèo Ngang” (lớp 7 tiết 29) ta cần giảng giải đảo ngữ trong hai câu thực: Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà. Từ láy “lom khom”, “lác đác” được đảo ra đầu câu đã làm nổi bật được hình ảnh cúi người cong lưng xuống của mấy chú tiều và hình ảnh thưa thớt của mấy nhà chợ bên sông. Điều này làm tăng thêm vẻ hoang vắng ở Đèo Ngang, có con người đấy nhưng vừa ít ỏi, vừa nhỏ bé, họ như bị chìm lút đi dưới bóng núi và ở bên kia sông còn có vài túp lều tranh rời rạc cách xa nhau gợi cho người đọc một cảm giác buồn tẻ, mênh mang, vắng lặng. Trong thơ Đường luật còn sử dụng phép đối. Phép đối không chỉ làm cho câu thơ có vẻ của sự cân đối mà còn có tác dụng tạo nghĩa mới mà các từ ngữ đó nếu nằm riêng rẽ, không đối nhau sẽ không tạo ra được. Khi phân tích từ ngữ cần làm sáng rõ hơn tín hiệu đó. Ví dụ: Trong bài “Qua Đèo Ngang” (Lớp 7 tiết 29), hai câu luận sử dụng phép đối rất chỉnh: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Phép đối làm cho giọng thơ có âm điệu du dương, trầm bổng của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Nghệ thuật đối kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ, lối chơi chữ, phép nhân hóa và cách dùng điển cố một cách điêu luyện, tài tình thể hiện được cái vắng lặng trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn đồng thời còn thể hiện được nỗi nhớ kinh kì Thăng Long thân thuộc của nữ sĩ. Cũng như phép đảo ngữ, phép đối không có trong chương trình Ngữ văn THCS nhưng khi dạy, giáo viên cũng nên mở rộng kiến thức cho học sinh để các em hiểu bài tốt hơn. b. Dạy truyện thơ Nôm: Ngôn ngữ của truyện thơ Nôm vừa là ngôn ngữ truyện vừa là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ truyện là ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ đối thoại. Nói đến ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ cô đúc, giàu hình tượng và nhạc tính. Đa số truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát, thể thơ nhịp nhàng, uyển chuyển duyên dáng. Vì vậy, khi giảng dạy từ ngữ trong truyện thơ Nôm cần lưu ý những điểm sau. *Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ, ngôn ngữ truyện Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ, ngôn ngữ truyện tức là phân tích ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại trong truyện thơ Nôm. - Về ngôn ngữ miêu tả: Ví dụ: Khi phân tích văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Lớp 9 tiết 32,33) đoạn“Buồn trông cửa bể chiều hôm... ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”, tác giả sử dụng những từ ngữ miêu tả cảnh vật: cửa bể chiều hôm, thuyền ai thấp thoáng, ngọn nước mới sa, hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu, mặt đất một màu xanh xanh, gió cuốn ầm ầm tiếng sóng ... Cần chú ý phân tích các từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, xa xa, ầm ầm. Tất cả đã tạo nên bức tranh thiên nhiên có màu sắc đượm buồn cũng chính là cảnh trong lòng người. Với gam màu lạnh, nhà thơ Nguyễn Du, nhà họa sĩ đã vẽ và treo lên bốn bức tranh liên hoàn tâm trạng từ mong đợi đến băn khoăn, day dứt tiếp tới là buồn chán, thất vọng và cuối cùng là bàng hoàng, lo sợ hãi hùng. - Về ngôn ngữ kể chuyện: Ví dụ: “Vân Tiên ghé lại bên đàng Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô... Vân Tiên tả đột hữu xông Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương” Đây là đoạn trích trong bài “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” (Lớp 9 tiết 38 - 39). Tác giả sử dụng các từ ngữ: ghé lại, bẻ cây, xông vô, tả đột hữu xông miêu tả trận giao chiến không cân sức giữa Lục Vân Tiên và bọn cướp. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu không miêu tả tỉ mỉ trận đánh mà chỉ dùng ngôn ngữ kể chuyện, kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một câu so sánh và dăm ba từ đặc sắc nêu trên để kể việc Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân trừ ác xuất phát từ lòng nhân. Giản dị vô tư mà đẹp đẽ biết bao! Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ của thơ, ngôn ngữ của thơ tức là phân tích biện pháp tu từ, từ láy, từ có tính biểu cảm và từ nhiều nghĩa ... Phân tích từ ngữ gắn với phân tích hình ảnh thơ thể hiện tâm trạng cùng cảm xúc của tác giả c. Dạy văn cổ (truyện, hịch, cáo, chiếu...): *Đối với việc dạy truyện: ở lớp 6 có hai truyện trung đại được học đó là truyện “Con hổ có nghĩa” và truyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng”. ở chương trình lớp 9 có truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”. Trong truyện trung đại, trình độ xây dựng cốt truyện còn đơn giản. Cần phân tích tính cách nhân vật chủ yếu qua lời kể của người dẫn truyện và qua hành động, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng có nghĩa là giáo viên nên chú ý phân tích các từ ngữ kể chuyện của tác giả, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Ví dụ: Dạy bài “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” (lớp 6 tiết 65). Đây là loại truyện có cách viết gần với cách ghi chép sự việc (ký). Ghi chép truyện thật lịch sử thường mang tính chất giáo huấn. Khi phân tích truyện này cần chú ý đến ngôn ngữ nhân vật. Cách diễn đạt lời nói của nhân vật có khả năng chứa đựng nhiều ý nghĩa tư tưởng buộc người đọc phải suy nghĩ. Trong truyện, khối lượng lời văn dành cho việc kể lại hành động của nhân vật chiếm nhiều nhất. Tác giả tập trung vào việc kể những hành động của nhân vật trong tình huống có tính chất gay cấn, từ đó làm nổi bật phẩm chất, tính cách, bản lĩnh của nhân vật. Cần chú ý phân tích cách xây dựng tình huống: Đưa ra lời nói đầy tức giận của quan trung sứ “Phận làm tôi, sao được như vậy? ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính mạng mình chăng?”. Đây là tình huống bất ngờ đặt ra cho vị Thái y một sự khó xử. Nếu không tuân lệnh nhà vua sẽ tự hại mình bởi phận làm tôi trái lời vua là có tội. Đây là một tình huống gay cấn đặt vị thái y trước những mâu thuẫn quyết liệt (chọn việc cứu người dân thường hay là cứu tính mạng mình trước uy quyền của nhà vua?). Trong tình huống đó, giải pháp của vị thái y như thế nào? Giáo viên chú ý phân tích lời nói của vị thái y: “Tôi mắc tội, tôi cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng, may ra thoát. Tội tôi xin chịu”. Câu nói ấy đã bộc lộ rõ nhân cách của một vị lương y: cứu người là trên hết. Câu nói thể hiện đạo đức của một người thầy thuốc giỏi có tấm lòng nhân hậu đồng thời thể hiện rõ bản lĩnh, khả năng trí tuệ trong cách ứng xử của vị Thái y. Cũng cần chú ý đến lời của vua Trần Anh Vương: “Người là bậc danh y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức...” lời nói của vua chứng tỏ ông là vị vua có lòng nhân đức, trọng người tài, trọng người có đức, một vị vua nhân từ, hiểu lẽ phải. *Đối với việc dạy thể hịch: ở lớp 8 tiết 93 - 94 có bài “Hịch tướng si” của Trần Quốc Tuấn. Yêu cầu về hịch là phải có nội dung, cấu trúc ngôn ngữ khích lệ, động viên được người đọc để kích thích ý chí chiến đấu và niềm tin chiến thắng, thấy được phải trái, thấy được sức mạnh của chính nghĩa. Vì vậy, người dạy phải phân tích sự phản ánh tâm lý trong ngôn ngữ và tác dụng của ngôn ngữ đối với tâm lý trong bài hịch. Ví dụ: Khi phân tích đoạn nói về tội ác của bọn giặc cần chú ý đến các từ ngữ “đi lại nghênh ngang”, “sỉ mắng triều đình”, “bắt nạt tể phụ”, “đòi ngọc lụa”, “thu bạc vàng”, “vét của kho”, tác giả liệt kê rất cụ thể hành vi ngạo mạn vi phạm chủ quyền quốc gia dân tộc Đại Việt của bọn sứ giả phương Bắc. Các hình ảnh ẩn dụ “cú diều”, “dê chó”, “hổ đói” tác giả đã cho người đọc thấy rõ chúng không phải là con người đại diện cho một quốc gia, một dân tộc nữa mà chỉ là loài ác thú gian manh. Các từ ngữ ấy thể hiện rõ thái độ căm thù của Trần Quốc Tuấn với bọ giặc xâm lược. Hình ảnh đẹp nhất trong bài hịch là đoạn: “Ta thường tới bữa quên ăn.... ta cũng vui lòng”. Lòng căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn không chỉ dừng lại ở thái độ u uất, đau xót, trăn trở mà còn dâng lên đến mức cao hơn, quyết liệt hơn: “chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”. Các động từ “xả, lột, nuốt, uống” rồi những điển tích “trăm thân, nghìn xác” gây xúc động lòng người, tạo được sự đồng cảm của các tướng sĩ. Bài văn thuộc thể loại văn thư quân sự nhưng lời lẽ không chỉ đanh thép mà còn mềm mại, thắt buộc, kích động, đằng sau lý lẽ đanh thép ấy, mệnh lệnh dứt khoát ấy ẩn chứa một tấm lòng ưu ái và tin tưởng của một vị chủ tướng. * Đối với việc dạy thể cáo: Trong chương trình lớp 8 tiết 97 có học bài “Bình Ngô đại Cáo”. Với thể loại này cần phân tích ngôn ngữ chính luận và ngôn ngữ đặc tả vì đặc trưng của thể loại cáo như chúng ta đã biết là sử dụng ngôn ngữ chính luận. ở lớp 8 chỉ học phần đầu có tên là “Nước Đại Việt ta”. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản, giáo viên cho học sinh tìm hiểu từ “nhân nghĩa” (như đã nêu ở trên). Suy rộng câu văn của Nguyễn Trãi và tìm hiểu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ta hiểu hai chữ “nhân nghĩa” này mang một triết lý sâu sắc. Vì thương người mà chiến đấu, vì ý nghĩ thương dân mà đánh giặc. Qua đó, ta hiểu tư tưởng nhân nghĩa vô cùng cao đẹp, là nguồn gốc của sức mạnh dân tộc. Nguyễn Trãi đã đứng trên tầm cao của thời đại, phát ngôn cho triết lý nhân nghĩa Đại Việt. Ngoài ra cũng cần nhấn mạnh cho học sinh hiểu việc tác giả dùng từ “văn hiến”. Cần hỏi học sinh tại sao tác giả lại đặt từ “văn hiến” lên vị trí hàng đầu so với các yếu tố khác để xác định độc lập, chủ quyền dân tộc. Ta có thể hiểu, đặt trong bất cứ hoàn cảnh nào thì yếu tố “văn hiến” cũng là yếu tố cơ bản nhất để xác định tư cách tồn tại của một dân tộc. Thời đại đó bọn phong kiến phương Bắc rất coi thường dân ta, gọi dân ta là man di, mọi rợ. Với lời lẽ này, Nguyễn Trãi đã đập thẳng vào luận điệu coi thường đó của chúng, khẳng định chủ quyền của dân tộc, khẳng định nền văn hóa cổ truyền của dân tộc ta. Cái khung bờ cõi của dân tộc Đại Việt không thể là cái mà bọn phong kiến phương Bắc có thể tùy tiện kéo về mình. Nước Việt, cái nội dung mà người Việt làm chủ, là phong tục tập quán, là một nền văn hiến đã có từ lâu đời. Một đất nước như thế thì triều đại của nó kém gì các triều đại ở phương Bắc, hai vương triều, hai nước song song tồn tại, phát triển như hai lực lượng đối diện: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập. Cung Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”. Chỉ một đoạn cáo ngắn gọn nhưng đã đề cập đến nhiều nội dung. Đoạn mở đầu như một bản tuyên ngôn độc lập, kế thừa và phát huy những tư tưởng thời phong kiến phồn vinh. Và khi Nguyễn Trãi viết những dòng chính luận này trong một văn bản chính cần nhấn mạnh cho học sinh thấy rõ lời văn trang nghiêm, trịnh trọng, đanh thép, đĩnh đạc, uy nghi trong bài cáo. Hình như Nguyễn Trãi cân nhắc từng chữ, từng lời, từng ý. Mỗi chữ dùng đều có chọn lọc sao cho có sức biểu cảm âm vang, tất cả đều hợp lý, không một câu lép ý, không một chữ nhẹ lời. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Bình Ngô đại cáo hạ một chữ như đổ một trái núi” đúng là một áng thiên cổ hùng văn bất hủ, ông đã khẳng định tính độc lập của nền văn hóa dân tộc. *Đối với việc dạy thể chiếu: ở lớp 8, tuần 23, tiết 90 có bài “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn. Chiếu là thể văn cổ mang chức năng hành chính do vua dùng để ban bố mệnh lệnh. Một số bài chiếu thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến cả triều đại, đất nước. “Chiếu dời đô” gắn với sự kiện lịch sử - chính trị hết sức quan trọng của năm 1010 đưa đến một bước ngoặt vĩ đại cho sự phát triển của dân tộc Đại Việt. Ngoài việc thể hiện những chức năng của thể chiếu, văn bản này còn có những đặc điểm riêng mà giáo viên cần lưu ý cho học sinh đó là tính chất tâm tình bên cạnh tính chất mệnh lệnh, bên cạnh ngôn ngữ đơn thoại, một chiều của một vị vua ban bố mệnh lệnh còn có ngôn từ mang tính chất đối thoại, trao đổi. Đó chính là yếu tố trữ tình thể hiện trong bài chiếu. Bộc bạch trực tiếp tâm tư, mong muốn của mình với tâm hồn cởi mở, người ban chiếu đã tìm đến sự giao cảm, đồng lòng của thần dân trong nước. Những câu: “Trẫm rất đau xót về việc đó”, “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” cho thấy thái độ của Lý Công Uẩn là rất đau xót cho muôn dân phải sống nơi chật hẹp, vạn vật không thích nghi, triều đại ngắn ngủi, đất nước không phát triển thịnh vượng. Từ đó, tác giả bày tỏ thái độ dứt khoát về việc phải dời đô. Ngôn ngữ đối thoại có tính chất trao đổi ấy đã tạo sự đồng cảm giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Nhờ đó mà bài chiếu có sức thuyết phục. Nói tóm lại, mỗi thể văn cổ đều có những đặc trưng riêng, khi giảng dạy các từ ngữ trong từng thể loại, giáo viên cần chú ý đến những đặc trưng cơ bản đó để giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn. 2. Chuẩn bị về phương pháp: Trong mỗi bài dạy giáo viên cần chuẩn bị tốt về việc lựa chọn phương pháp thích hợp. Nguyên tắc dạy học theo hướng tích hợp cần được tận dụng triệt để. Những hướng tích hợp nên tận dụng thuộc một số lĩnh vực sau đây: 2.1 Tích hợp ngang: Là tích hợp với các đơn vị kiến thức cùng môn học như Tiếng Việt và Tập làm văn. - Tích hợp với Tiếng Việt: Giáo viên luôn xác định dùng kiến thức của Tiếng Việt là để giúp học sinh cảm nhận nội dung văn bản một cách sâu sắc .Nhất thiết không được biến một phần bài học thành giờ học tiếng Việt. Cũng không nên quá cứng nhắc trong tích hợp với tiếng Việt, khi những đơn vị kiến thức tích hợp không mấy liên quan đến bài học. Giáo viên chỉ nên tập trung vào những đơn vị kiến thức Tiếng Việt có tác dụng trực tiếp đến sự cảm thụ của học sinh. 2.2. Tích hợp dọc: Là tích hợp với các kiến thức thuộc các môn học khác hoặc kiến thức đời sống xã hội… Như trên đã trình bày, các văn bản nghị luận này đều có chung đặc trưng là tính văn học sử rất rõ ràng. Vì thế, cần sử dụng kiến thức lịch sử để tích hợp. Tất cả các bài dạy đều liên quan đến những sự kiện lịch sử nổi tiếng của đất nước. Giáo viên cần tìm hiểu, lựa chọn kiến thức sẽ đưa vào tích hợp để tránh được việc giờ học Ngữ văn biến thành một bài giảng lịch sử thuần tuý. 3. Sử dụng hệ thống câu hỏi 3.1 Loại câu hỏi tái hiện: Với loại câu hỏi này, học sinh sẽ được yêu cầu phát biểu, trình bày lại vấn đề. Câu hỏi này chỉ là để chuyển tiếp tới nội dung phức tạp hơn. Các câu hỏi này không cần thời gian suy nghĩ mà chỉ cần sự phát hiện của học sinh. Ví dụ 1: Bài Nước Đại Việt ta ( Trích Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi) ? Em hiểu nội dung của hai câu văn: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; Quân điếu phạt trước lo trừ bạo như thế nào? 3.2 Loại câu hỏi rèn năng lực tư duy và sử dụng ngôn ngữ: Trên cơ ở học sinh đã hiểu nội dung, giáo viên sử dụng loại câu hỏi này để yêu cầu học sinh phát hiện và trình bày lại về nội dung tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của tác phẩm. Loại câu hỏi này không thể dựa vào kết quả có sẵn đã biết. Học sinh cần vận dụng năng lực tư duy của mình để sắp xếp lại các sự kiện, chi tiết, lựa chọn ngôn từ, cách lập luận….để diễn đạt một cách chính xác, rõ ràng vấn đề. Dạng câu hỏi này dùng để kiêm tra kiến thức, ôn tập, củng cố Ví dụ: Bài Nước Đại Việt ta ? Ý thức về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước được Nguyễn Trãi khẳng định rất rõ trong văn bản. Em hãy chứng minh điều đó? Với câu hỏi này, học sinh phải biết sắp xếp các dữ liệu để làm dẫn chứng khi chứng minh ( nền văn hiến, núi sông, phong tục, các triều đại, biên giới phân chia….). Đồng thời học sinh phải biết dùng lí lẽ khi lập luận: Đại Việt có đủ căn cứ để khẳng định chân lý về sự tồn tại độc lập và có chủ quyền) 2.3.Khả năng ứng dụng của giải pháp. Đề tài” Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn học trung đại Việt Nam cấp THCS” áp dụng đối với bộ môn ngữ văn cấp THCS giáo viên vận dụng trong các tiết dạy văn học trung đại Việt Nam các khối lớp 6, 7,8 ,9. 2.4. Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp Qua việc áp dụng thử nghiệm sáng kiến này, tôi nhận thấy học sinh đã có định hướng rõ rệt trong việc học văn bản nghị luận trung đại. Các em có hứng thú tđối với bài học,tỉ lệ học sinh phát biểu ý kiến xây dựng bài nhiều hơn, giờ học cũng vì thế mà đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, tỉ lệ học sinh làm bài kiểm tra phần Văn học trung đại đạt kết quả từ trung bình khá trở lên. Kĩ năng ứng xử và lối sống của học sinh cũng thay đổi nhiều nhờ việc tích lũy kiến thức xã hội và vận dụng vào chính bản thân mình. - Với giáo viên: sáng kiến đã tháo gỡ cho giáo viên một số khó khăn cơ bản khi dạy kiểu bài này cho đối tượng học sinh THCS. Việc soạn giảng có những căn cứ và cơ sở nhất định nên thuận tiện trong việc cung cấp kiến thức và cuốn hút học sinh say mê học tập. Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức phù hợp nói trên tôi đã đạt kết quả qua bảng thống kê sau: Sau khi áp dụng sáng kiến - Năm học 2016 - 2017 Lớp Số học Số học Tỉ lệ sinh 81 36 Bài khảo sát trên sinh trung bình phát Số biểu lượng 8-9 Điểm 8-10 22.2- Tỉ lệ Số Tỉ lệ lượng 33 91.6% 6 16.7% 34 91.8% 8 21.6% 32 84.2% 7 18.4% 25% 82 37 9-11 24.329.7% 83 38 7-10 18.426.3% Sau khi áp dụng sáng kiến - Năm học 2017 - 2018 Lớp Số học Số học Tỉ lệ sinh 83 36 Bài khảo sát trên sinh trung bình phát Số biểu lượng 8-9 Điểm 8-10 22.2- Tỉ lệ Số lượng 33 91.6% 6 34 91.8% 8 32 84.2% 7 25% 84 37 9-11 24.329.7% 85 38 7-10 18.4- 26.3% 2.5.Tài liệu đính kèm(không có) D. Kiểm nghiệm: Có thể nói, dạy từ ngữ rất quan trọng đối với việc dạy Văn học trung đại Việt Nam. Để dạy học sinh hiểu sâu sắc một bài văn, một bài thơ trung đại thì giáo viên phải phân tích các hình tượng nghệ thuật nói chung đồng thời phải có phương pháp phân tích ngôn ngữ thích hợp, thích đáng. Vì tất cả những gì ở tác giả, hoàn cảnh lịch sử, cá tính, thực tế cuộc sống, quan điểm chính trị, nghệ thuật... tạo nên một tác phẩm phải thông qua ngôn ngữ mới thể hiện được. Đề tài này chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy tôi tích lũy được. Trong mức độ hạn hẹp tôi chỉ xin đưa ra một tiết giáo thực tế để minh họa kiểm nghiệm.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan