1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến “Phương pháp nâng cao kỹ
năng nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học”.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ ngày 5
tháng 9 năm 2020.
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1 Tính mới của sáng kiến.
Như chúng ta đã biết ngày nay tiếng Anh là ngôn ngữ được nhiều quốc gia sử
dụng nhất, và đã trơ thành mô ̣t trong những phương tiê ̣n giao tiếp quan trong
nhất trên toàn thế giơi. Chính vì sự cần thiết, hữu dụng của ngôn ngữ này mà
vấn đề nânng cao chất lượng dạy và hoc môn tiếng Anh ngày càng trơ nên quan
trong hơn. Băng cách nào đê hoc sinh co thê hoc tiếng Anh mô ̣t cách chủ đô ̣ng,
và sử dụng no mô ̣t cách thành thạo đang là vấn đề mà nền giáo dục Viê ̣t Nam
quan tânm.
Đầu tiên phải công nhận răng, đa phần các thế hệ hoc sinh ơ nươc ta tiếp thu
môn ngoại ngữ này rất tốt ơ những kỹ năng: nghe, đoc, viết, băng chứng là các
em co thê làm tốt các dạng bài tập trong môn tiếng Anh như là bài tập về kỹ
năng đoc, kỹ năng nghe, kỹ năng viết nhưng khi muốn các em “nói” hay còn goi
là “giao tiếp” thì đa phần các em còn chưa làm được, không phải các em chưa
giỏi, hay là chưa hoc đủ kiến thức mà đơn giản là các em chưa quan tânm đúng
mức kỹ năng noi trong môn hoc này cộng thêm tânm lý rụt rè, sợ sai, chưa tự tin.
Mà muốn sử dụng thành thạo mô ̣t ngôn ngữ thì ngừi hoc phải rèn luyê ̣n cả bốn
kỹ năng cơ bản là: nghe, noi, đoc, viết.
Vì vân ̣y tôi đã lập kế hoạch và áp dụng sáng kiến “Phương pháp nâng cao kỹ
năng nói tiếng Anh cho học sinh Tiểu học” giúp các em luyê ̣n noi và tích luy
vốn từ vựng trợ giúp cho quá trình hoc tiếng Anh của mình trơ nên dễ dàng hơn.
Một điều quan trong hơn đê tôi quyết định nghiên cứu đề tài này là, viê ̣c luyện
kỹ năng noi cung co ảnh hương tích cực đến quá trình hình thành và phát triên
2
tính cách của hoc sinh, no giúp hoc sinh tự tin hơn là điều đầu tiên và rõ nhất
mà ta co thê thấy.
5.2 Nội dung sáng kiến.
5.2.1 Nguyên nhân
Qua 5 năm giảng dạy môn tiếng Anh ơ trừng Tiêu hoc Nguyễn Bá Ngoc xã Thanh Lương - thị Xã BìnhLong - tỉnh Bình Phươc, cung như quá trình tìm
tòi hoc hỏi kinh nghiệm trên các phương tiện báo đài, cung như các đồng nghiệp
của mình tôi nhận thấy một số điêm kho khăn khi luyện kỹ năng noi trong môn
tiếng Anh như sau:
Đa phần các thế hệ giáo viên về trươc thừng giảng dạy theo phương thức:
đoc, dịch và chép, đặc biệt rất chú trong vào ngữ pháp, dẫn đến tình trạng hoc
sinh làm bài kiêm tra rất “đỉnh”, nhưng yêu cầu hoc sinh noi thì chỉ số ít “dám
nói” chứ chưa noi đến “nói hay, nói chuẩn”.
Đa số hoc sinh chưa nhân ̣n thức được tầm quan trong của viê ̣c hoc tiếng Anh
trong th̀i kì hô ̣i nhân ̣p. Các em còn suy nghĩ đâny chỉ là môn hoc tự chon nên còn
chưa hoc tập nghiêm túc đúng mực so vơi tầm quan trong của môn hoc này.
Nhiều hoc sinh chưa quan tânm đúng mức đến kỹ năng noi do suy nghĩ hoc
tiếng Anh chỉ cần viết được, làm được bài tập là đủ.
Khối lượng từ vựng tích luy của hoc sinh còn ít, kiến thức nền tảng và sự hiêu
biết còn nhiều hạn chế, ảnh hương nhiều đến khả năng phán đoán và phản ứng
của hoc sinh khi đối thoại vơi thầy/cô hay bạn bè.
Hoc sinh thừng rụt rè và sợ các gì luyện noi do không tự tin, do sợ đoc sai
và ít các hoạt đô ̣ng giao tiếp như các môn khác.
Do đâny không phải tiếng mẹ đẻ, nên hoc sinh thừng phát ânm tiếng Anh theo
xu hương Việt hoa, một số em còn chưa sửa được giong địa phương khi phát
ânm, thêm nữa là các em hoc sinh ơ những lơp nhỏ giong còn ngong nên việc
phát ânm đúng là điều kho khăn.
Không phải em hoc sinh nào cung co đủ điều kiện vật chất tinh thần đê phục
vụ nhu cầu hoc tiếng Anh. Nhất là các em sinh sống ơ miền núi, miền quê điều
kiện kinh tế kho khăn.
3
5.2.2. Thực trạng tại trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc
Về phía học sinh
Trừng Tiêu hoc Nguyễn Bá Ngoc là trừng ơ vùng nông thôn, nên các em
hoc sinh ít co cơ hội được tiếp xúc vơi tiếng Anh, và môn hoc này cung là môn
hoc mơi triên khai vừa tròn 5 năm.
Hầu hết các em chưa thê tự chuẩn bị trươc bài ơ nhà vì đặc thù của môn hoc
là ngôn ngữ mơi không phải tiếng Việt, và không phải phụ huynh nào cung co
thê tự kèm cho con em ơ nhà được.
Các em rất ngại noi, hay noi đúng hơn là sợ noi, vì ngại vì xấu hổ nên vì vậy
mà gì luyện noi co rất ít hoc sinh tham gia năng nổ.
Về phía giáo viên
Bản thânn tôi luôn được các cấp lãnh đạo, đồng nghiệp, phụ huynh quan tânm
hỗ trợ trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên do đa phần giáo viên dạy Tiêu hoc
hiện nay đều được đào tạo từ trình độ Cao đẳng hoặc Đại hoc, nên vẫn còn một
số kho khăn khi tiếp cận đối tượng hoc sinh cấp tiêu hoc.
Môn tiếng Anh còn ít th̀i lượng giảng dạy, đồ dùng thiết bị dạy hoc còn hạn
chế nên dẫn đến chất lượng môn hoc chưa cao.
5.2.3. Biêṇ pháp sử dụng để giải uyết vấn đề
Từ những kho khăn thực tế nêu trên trong quá trình giảng dạy, tôi đã tìm ra
những giải pháp khác nhau nhăm khăc phục tình trạng này, các biện pháp được
dùng đê minh hoa co nội dung liên quan đến bài hoc sẽ giúp hoc sinh nhơ lại
phần kiến thức đã được hoc, các em sẽ tiếp thu kiến thức một cách chủ động,
nhẹ nhàng và sẽ nhơ rất lânu.
Những biện pháp này tôi triên khai trươc vơi 2 lơp: 1.1 và 5.2 ơ trừng Tiêu
hoc Nguyễn Bá Ngoc. Đâny là 2 lơp đa số các em ngoan, năng động co ý thức
hoc tập tốt. Dươi đâny là bảng phânn loại hoc sinh trươc khi tiến hành áp dụng các
biện pháp:
Lớp Tổng
số
HS phát
Tỉ lệ
HS biết sử
Tỉ lệ
HS phát
Tỉ lệ
âm chính
%
dụngngữ
%
âm chưa
%
4
HS
23
37
5.2
1.1
xác
14
24
60,8
65
điệu
9
18
39
48,6
chính xác
9
13
39
35
Biện pháp 1: Sử dụng những bài hát tiếng Anh có nội dung ngắn gọn, dễ
nhớ dễ thuộc.
Đối tượng tôi áp dụng chính của biện pháp này là hoc sinh khối lơp 1, vì
chương trình tiếng Anh lơp 1 là chương trình mơi nên các em còn bỡ ngỡ nên
tôi chon những bài hát cho các em dễ tiếp thu. Tôi soạn ra những bài hát
ngăn co giong điệu vui tươi, rộn ràng, giai điệu quen thuộc, dễ nghe và hát
theo đê dạy cho các em, đặc biệt là nội dung co liên quan đến bài hoc.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Unit 4: My body co các từ vựng như: head, leg, arm
tôi sẽ cho các em nghe và hát theo bài: Head, shouders, knees and toes. So
vơi việc nghe và noi theo đĩa CD kèm theo của sách, việc lồng ghép nhạc vào
sẽ làm các em hứng thú hơn nhiều từ đo noi tốt hơn, song song đo khả năng
nghe cung cải thiện hơn. Tôi thừng dùng biện pháp này ơ đầu tiết hoc vừa
khuấy động hoc sinh mà vừa dẫn dăt vào bài một cách nhẹ nhàng không khô
khan.
(Hình ảnh bài Unit 4: My body, trang 26, 27 SGK tiếng Anh 1- nguồn
Youtube)
5
(Hình ảnh bài hát Head, shouders, knees and toes - nguồn Youtube)
Thêm vào đo tôi cung lồng ghép đê mơ rộng thêm vốn từ theo chủ điêm
Body (cơ thê) cho hoc sinh: shoulders (vai), knees (đầu gối), toes (ngon
chânn), eyes (măt), ears (tai), nose (mui)……………
Ví dụ 2: Khi dạy bài bảng chữ cái (The alphabet) cho hoc sinh, tôi sẽ cho
các em nghe bài ABC song, một bài hát rất quen thuộc nên là các em rất dễ
dàng noi được các chữ cái trong tiếng Anh một cách dễ dàng, so vơi việc dạy
“chay” cô noi trươc – trò noi sau, các em phải tập đoc, tập nhơ rất máy moc
thuần thục sau đo mơi “nói” được các chữ cái trên thì hoc qua bài hát rất
hiệu quả.
(Hình ảnh bài hát ABC song- nguồn Youtube)
Một điêm mà tôi luôn lưu ý khi áp dụng các bài hát trong quá trình giảng dạy
kỹ năng noi tiếng Anh của mình đo là, tôi luôn sử dụng các bài hát quen thuộc
6
hay như bâny gì moi ngừi vẫn hay noi vui là ‘những bài hát uốc dân’, goi
vậy là do những bài hát này hết sức quen thuộc nên hầu như hoc sinh nào cung
từng nghe qua cả, ngay từ khi các em còn chưa biết noi, viết hay đoc.
Biện pháp 2: Sử dụng truyêṇ tranh song ngữ cho các mm học sinh luyêṇ nói.
Đối tượng được áp dụng thử nghiê ̣m ban đầu là hoc sinh khối lơp 5. Vì
chương trình tiếng Anh lơp 5 co rất nhiều từ vựng , nên các em cần biết càng
nhiều thì no càng giúp các e m hoc tốt hơn. Tôi lựa chon một vài quyên truyê ̣n
tranh giao cho các nhom, đo chủ yếu cung là truyê ̣n dânn gian Viê ̣t Nam nên các
em cung co thêm kiến thức về nền văn hoc dânn gian của nươc nhà. Trong khi
phânn nhom tôi cung đă ̣t tên cho các nhom tương ứng vơi tên của các loại động
vật đáng yêu, điều này giúp các em ghi nhơ được vốn từ về chủ đề động vật.
Biện pháp này tương đối phức tạp và cần rất nhiều th̀i gian nên tôi chia ra từng
bươc nhỏ như sau:
Bước 1: Chia lơp làm 4 nhom nhỏ (Mỗi nhom 5-6 em) và đă ̣t tên cho các nhom
theo tên các loại động vật dễ thương:
+ Nhom 1: Little Bear ( Gấu nhỏ)
+ Nhom 2: Little Rabbit ( Thỏ con)
+ Nhom 3: Little Turtle ( Rùa Con)
+ Nhom 4: Little Monkey ( Khỉ Con)
Bước 2: Giao cho mỗi nhom 1 quyên truyê ̣n tranh và yêu cầu nhom về cùng
nhau đoc và hiêu sơ lược được các cânu trong quyên truyê ̣n. Tôi lựa chon 4
quyên cho 4 nhom:
Nhom 1: Dê trăng và dê đen
Nhom 2: Thỏ và rùa
Nhom 3: Chú bé chăn cừu
Nhom 4: Coc kiê ̣n tr̀i
7
(Hình ảnh trang bìa quyên truyện tranh song ngữ Chú bé chăn cừu – nguồn
trang web tiki.vn)
Bước 3: Tổ chức các buổi hoc nhom ơ trên lơp dươi sự hương dẫn của giáo
viên, hương dẫn hoc sinh đoc những cânu kho, từ kho, cách luyến láy cho hoc
sinh tự tin hơn khi kê truyện (noi trươc lơp).
Bước 4: Tổ chức cho mỗi nhom kê lại băng tiếng Anh những cânu truyê ̣n giáo
viên đã giao cho nhom theo hình thức song ngữ ANH -VIỆT (một hoc sinh noi
tiếng Anh - một hoc sinh noi tiếng Việt, và ngược lại đổi vai cho nhau). Vơi
những hoc sinh yếu cho phép các em cầm sách và kê được các cânu tiếng Anh
ngăn, phát ânm đúng các từ trong các cânu đo là được.
Cung như việc dùng các bài hát đê rèn kỹ năng noi, thì đoc truyện tranh song
ngữ còn giúp hoc sinh rèn được kỹ năng đoc là điều đầu tiên bơi vì phải đoc
được đã thì mơi noi – kê truyện được. Như mục tiêu ban đầu rèn kỹ năng noi đê
giúp các em tự tin hơn nên tôi mạnh dạn nghĩ ra phương pháp này đê các em
thêm tự tin và tập thoi quen đứng trươc đám đông co thê noi được tiếng Anh.
Biện pháp 3: Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh bằng những
mẫu câu có sẵn.
8
Vì hoc sinh của tôi ơ vùng nông thôn nên các em chưa co nhiều vốn từ vựng,
nếu co thì rất hạn chế dù vậy tôi vẫn tăng cừng noi tiếng Anh trên lơp, thừng
là các cânu mệnh lệnh đơn giản, hoặc những cânu hỏi theo bài hoc kết hợp vơi
động tác, điệu bộ.
Ví dụ 1: Khi vào lơp sẽ là những đoạn hội thoại nhỏ, co thê đối vơi hoc sinh
khá giỏi hay ơ thành thị, những mẫu cânu này thật quá quen thuộc và nhàm chán,
nhưng chính những mẫu cânu này đã giúp cho hoc sinh của tôi noi tiếng Anh
ngày một tự nhiên và nhiều hơn.Từ ban đầu bỡ ngỡ, sau dần các em hầu như đã
quen thuộc và không còn đê giáo viên chủ động mà qua một th̀i gian các em
dần năm quyền chủ động, biết chào hỏi băng nhiều cách khác nhau: Good
morning/afternoon Ms Ninh chẳng hạn.
Cô: Good morning class! -Trò: Good morning teacher!
Cô: How are you today? - Trò: I’m fine, thank you - And you?
(Mẫu câu umn thuộc dùng để chào hỏi khi vào lớp)
Ví dụ 2: Trong tiết hoc tôi luôn cố găng dùng những cânu hỏi ngăn đê giúp
khả năng phản xạ của các em tăng lên. Chẳng hạn như khi giơi thiệu bài mơi tôi
hay hỏi những mẫu cânu sau đâny, những cânu hỏi này tuy ngăn nhưng lânu dần làm
cho các em phản xạ rất tốt mà không khô khan, vì mỗi bài lại là một nội dung
khác nhau không lặp lại chẳng hạn:
Can you guess the content of the dialogue?
(Em co thê dự đoán nội dung của đoạn hội thoại không?)
How many people are there in this picture?
(Co bao nhiêu ngừi trong bức tranh này?)
Who are they? (Ho là những ai vậy?)
What are they talking about?
(Ho đang noi chuyện gì vậy?)
Nhìn chung, lúc đầu hoc sinh còn bỡ ngỡ nhưng dần dần qua các tiết các em
cung đều hiêu và phản xạ ngày một nhanh. Biện pháp này không chỉ khối 1 và 5
mà hầu như khối lơp nào cung áp dụng được.
9
(Hình ảnh bài Unit 2: lesson 1 SGK tiếng Anh 5 tập 1 – nguồn google)
Biện pháp 4: Sử dụng trò chơi trong giờ học để khuyến khích học sinh chủ
động nói tiếng Anh nhiều hơn.
Vì đâny là phương pháp gâny hứng thú bậc nhất nên tôi đã áp dụng cho toàn bộ
hoc sinh khối 1 đến khối 5. Tôi thừng sử dụng các trò chơi (games) đầu gì
hoặc cuối gì đê củng cố bài hoc. Tôi thừng chon những trò chơi quen thuộc dễ
chơi, kết hợp vơi giáo cụ là các đồ dùng nhiều hình thù ngộ nghĩnh băt măt,
tranh ảnh đê hoc sinh hứng thú và phát huy được kỹ năng noi.
Ví dụ 1: Khi dạy khối 3, Unit 8: This is my pen – lesson 2, đê ôn lại lesson 1
của bài này, tôi sẽ cho hoc sinh chơi trò chơi “ chatting” – trò chơi hỏi đáp, các
từ vựng và mẫu cânu sẽ được chiếu lên, giáo viên sẽ hỏi – hoc sinh trả l̀i hoặc
hoc sinh sẽ hỏi và trả l̀i tương tác cùng nhau. Nội dung cânu hỏi thì dĩ nhiên là
liên quan bài hoc, như vậy thay vì goi học sinh lên kiểm tra bài cũ máy
móc, tôi tổ chức trò chơi để giúp học sinh luyện kỹ năng nói.
(thường áp dụng vào đầu giờ học )
10
(Hình ảnh bài Unit 8: lesson 1 SGK tiếng Anh 5 tập 1 – nguồn google)
Giáo viên: What’s this?
Hoc sinh: This’s my pencil.
Hoặc:
Hoc sinh 1: What’s that?
Hoc sinh 2: That’s my notebook.
Ví dụ 2: Tôi tổ chức trò chơi “gumssing gamm?” – trò chơi đoán chữ, tôi sẽ
cho các em vẽ một vài bức tranh bất kì hoặc cung co thê là một vài kí tự liên
quan tơi bài hoc ngày hôm đo, em nào noi nhanh và đúng nhất từ khoa đo thì sẽ
được điêm (thừng áp dụng vào cuối gì hoc). Thay vì cô trò ôn lại theo cách
truyền thống (cô hỏi-trò đáp) thì tôi sẽ tổ chức trò chơi cho các em hứng thú
hơn, và không nhàm chán.
Một điêm tôi đặc biệt tânm đăc khi sử dụng biện pháp này đo là các giáo cụ đi
kèm, sẽ không chỉ là bảng đen phấn trăng quen thuộc tôi chủ động đầu tư cho
các em hoc sinh nhiều hơn, và quả thật là cung là trò chơi đo nhưng khi hỗ trợ
thêm giáo cụ các em hăng say noi rất nhiều, kê cả các em trầm nhất cung hăng
hái “muốn được nói” đê được cô khen.
11
(Hình ảnh các kí tự chữ cái băng nhựa plastic, tranh hoc sinh tự vẽ đê phục vụ
việc tổ chức chơi trò chơi – nguồn google)
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Đề tài co thê triên khai và áp dụng được trong tất cả các trừng Tiêu hoc trên
địa bàn tỉnh Bình Phươc.
6. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Điều đầu tiên và quan trong nhất là giáo viên phải luôn luôn động viên,
khuyến khích các em hoc sinh noi thật nhiều, luôn cổ động cho các em đê các
em thôi rụt rè, đê tự tin bươc vào kỹ năng noi.
Ngay từ đầu năm hoc, giáo viên phải co kế hoạch phânn loại chất lượng hoc
kỹ năng noi của hoc sinh trong lơp đê từ đo co biện pháp giảng dạy phù hợp vơi
từng đối tượng hoc sinh.
Giáo viên cần co thái độ tích cực đối vơi lỗi ngôn ngữ của hoc sinh. Chấp
nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình hoc ngoại ngữ, giúp hoc sinh hoc
tập được từ chính lỗi của bản thânn và bạn bè.
Luôn đi từ dễ đến kho: Từ cách noi cânu đơn giản đến những cânu dài, phức tạp
hơn và dần tiến đến noi cả đoạn.
Khuyến khích hoc sinh tham khảo thêm tài liệu co trên In-tơ-net: xem phim,
nghe nhạc, đê giúp các em vững vàng kiến thức hơn.
12
Nên chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng trực quan (nếu cần thiết) đê kích thích sự
hứng thú của hoc sinh: các đồ dùng băt măt, dễ dàng chơi trò chơi cho các em
hứng thú.
Luôn coi hoc sinh là nhânn vật trung tânm của moi hoạt động, giáo viên chỉ là
ngừi điều khiên, tổ chức, hương dẫn hoc sinh phát hiện ra kiến thức mơi..
Mỗi ngừi giáo viên không ngừng hoc tập, xem thêm các video giảng dạy
của giáo viên nươc ngoài, đoc thêm tài liệu, sách báo, sưu tầm thêm tư liệu, trao
đổi thừng xuyên vơi đồng nghiệp.
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến thmo ý kiến của tác giả:
8.1. Kết uả đạt được.
Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào dạy môn Tiếng Anh ơ lơp 5.2 và
1.1 tại Trừng TH Nguyễn Bá Ngoc, kỹ năng noi của hoc sinh co sự tiến bộ rõ
rệt và thu được kết quả như sau:
Kiểm tra sau 03 tháng
Lớp
5.2
1.1
Tổng
HS phát
Tỉ lệ
HS biết sử
số
âm chính
%
HS
23
37
xác
16
27
Tỉ lệ %
HS phát
Tỉ lệ
dụng ngữ
âm chưa
%
69,5
72,9
điệu
11
20
chính xác
7
10
30,4
27
Tổng HS phát
Tỉ lệ
HS biết sử
Tỉ lệ
HS phát
Tỉ lệ
số
%
dụng ngữ
%
âm chưa
%
47,8
54
Kiểm tra sau 05 tháng
Lớp
âm chính
HS
xác
điệu
chính xác
5.2
23
19
82,6
15
65,2
4
17,4
1.1
37
30
81
24
64,8
7
19
Dựa vào bảng kiêm tra ta thấy lần đầu tiên số hoc sinh tiến bộ khá ít, nhưng
kiên trì luyện tập thêm thì số lượng hoc sinh tiến bộ đã tăng lên rõ rệt. Thái độ
hoc tập của các em sôi nổi hơn, vui vẻ hơn trong mỗi gì luyện noi, kê cả những
em rụt rè nhất nay cung xung phong phát biêu.
13
Còn về phía giáo viên là tôi cung co sự thay đổi rõ rệt, thay vì chỉ đủ th̀i
gian chỉnh sửa phát ânm đê hoc sinh phát ânm đúng, nay tôi đã co thêm th̀i gian
hương dẫn các em cách nhấn nhá khi noi, cả cô và trò đều vui vẻ nhẹ nhàng hơn
nhiều trong gì hoc tiếng Anh.
8.2. Bài học kinh nghiệm.
Đê hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục giáo viên phải đổi mơi tư duy từ phương
pháp giảng dạy đến cách thức tổ chức gì dạy cho co hiệu quả, đồng th̀i phải
đáp ứng đúng mục tiêu giảng dạy theo phương pháp giao tiếp.
Giáo viên không nên hạn chế về ý tương cung như ngôn ngữ, nên đê hoc sinh
noi tự do đê phát huy khả năng sáng tạo của các em.
Đê rèn kỹ năng noi tiếng Anh cho hoc sinh co hiệu quả thì mỗi giáo viên
trươc khi lên lơp nên đầu tư chuẩn bị bài dạy thật kỹ, bên cạnh đo cung phải chú
trong vào đồ dùng dạy hoc đê cho hoc sinh hứng thú, tránh tư tương dạy cho qua
loa, dạy cho xong là được, nhận định này đã co từ lânu nhưng vẫn luôn luôn đúng
cho đến hiện tại.
- Xem thêm -