Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Thể dục Skkn thực nghiệm các trò chơi vận động vào chương trình giảng dạy giáo dục thể c...

Tài liệu Skkn thực nghiệm các trò chơi vận động vào chương trình giảng dạy giáo dục thể chất cho học sinh trường thpt chuyên lương th

.DOC
39
1464
71

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị THPT chuyên Lương Thế Vinh Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM THỰC NGHIỆM CÁC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG VÀO CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH Người thực hiện: Trần Vũ Phong. Lĩnh vực nghiên cứu: Giáo Dục Thể Chất Phương pháp giảng dạy bộ môn: TDQP.AN Có dính kèm:  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh Năm học: 2012 – 2013  Hiện vật khác SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Trần Vũ Phong. 2. Ngày tháng năm sinh: 11/06/1985 3. Nam, nữ: Nam 4. Địa chỉ: Kí túc xá THPT chuyên Lương Thế Vinh. 5. Điện thoại: (CQ)/ (NR); ĐTDĐ: 0908796270. 6. Fax: E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: giáo viên 8. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ Giáo dục học - Năm nhận bằng: 2012 - Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục thể chất. III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Bóng chuyền Số năm có kinh nghiệm: 6 - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 6 năm gần đây: Nghiên cứu và lựa chọn một số trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh (2011 – 2012} THỰC NGHIỆM CÁC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG VÀO CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH I. II. III. IV. V. VI. VII. VIII. IX.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI GDTC là một mặt của giáo dục toàn diện trong trường phổ thông. Trong đó, môn Thể dục có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe của học sinh (HS) trong học tập cũng như phát triển thể lực, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, chuẩn bị cho người lao động trong tương lai đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc dạy học môn Thể dục trong trường phổ thông có nhiệm vụ trang bị cho HS những kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản để rèn luyện nâng cao sức khỏe, thể lực góp phần giáo dục đạo đức, ý chí, xây dựng lối sống lành mạnh, đồng thời giúp HS giải tỏa những căng thẳng do thiếu vận động tạo nên. Mục tiêu của môn Thể dục ở trường trung học phổ thông (THPT): - Có sự tăng tiến về thể lực, đặc biệt là sức mạnh và sức bền, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. - Có được một số kiến thức, kỹ năng cơ bản về thể dục thể thao (TDTT) để rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực. - Tiếp tục rèn luyện thói quen tập luyện TDTT thường xuyên, giữ gìn vệ sinh, tác phong nhanh nhẹn, nếp sống lành mạnh, kỉ luật….. - Góp phần phát hiện, bồi dưỡng những HS có năng khiếu, hướng nghiệp cho những HS có nguyện vọng vào trường TDTT. - Biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn đời sống [17]. 64 Để thực hiện mục tiêu trên, trong những năm gần đây BGD&ĐT không ngừng nghiên cứu cải tiến đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy ở tất cả các cấp học. Đồng thời tổ chức các khóa tập huấn nhằm nâng cao trình độ giảng dạy cho các giáo viên TDTT. Bên cạnh đó quá trình kiểm tra, đánh giá thể lực cho HS cũng phải được tổ chức thường xuyên để phát hiện các HS có thể lực tốt hay thể lực yếu khắc phục vươn lên, thông qua đó sẽ cải tiến điều chỉnh phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng nội dung cụ thể. Đặc điểm Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh là nơi đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho tương lai của tỉnh nhà. Vì thế, công tác tuyển sinh đầu vào của trường được đặc biệt chú trọng. Các em được vào học tại trường là những em ưu tú, xuất sắc nhất trong tỉnh. Hầu hết các em đã có nền tảng kiến thức chuyên môn vững vàng, có ý thức học tập rất cao, có sự nhạy bén trong khi học và tiếp thu bài do giáo viên truyền thụ. Mặt khác, Lương Thế Vinh là trường chuyên nên nhà trường và đa phần các em HS chỉ quan tâm đến chất lượng kiến thức văn hóa chính vì thế nhà trường và các em HS chưa thật sự quan tâm đúng mức đến môn Thể dục. Hơn nữa, qua thực trạng tỉ lệ học sinh yếu về thể lực, chưa đạt được tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, chưa hiểu được tầm quan trọng của môn Thể dục, ý thức rèn luyện thân thể, chưa đam mê… Mặt khác, là giáo viên giảng dạy môn Thể dục của trường nên biết được áp lực học văn hoá và học chuyên của các em là rất lớn, lịch học rất dày đặc nên các em không mấy quan tâm đến môn Thể dục. Chính vì vậy chúng tôi phải truyền thụ nội dung kiến thức thế nào để các em không phải tăng thêm áp lực học nhưng vẫn bảo đảm kiến thức chuyên môn đồng thời đạt được mục tiêu của môn Thể dục trong nhà trường THPT. Từ đó, muốn nâng cao chất lượng GDTC tại trường đòi hỏi phải có một đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này nhằm làm cơ sở cho việc cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy cụ thể cho từng đối tượng khác nhau, đặc biệt là đối với trường chuyên. Ở năm học 2011 – 2012 chúng tối đã lựa chọn được 8 Trò chơi vận động: Nhảy cừu, Lò cò tiếp sức, Chong chóng, Nhảy dây cá nhân, Chuyền bóng qua đầu, Tiếp sức chạy - nhảy, Thi phối hợp, Tôm nhảy. Với ý nghĩa, tầm quan trọng, hiện trạng trên, kết quả trên để góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và thực hiện được mục tiêu của BGD&ĐT đề ra chúng tôi tiếp tục nghiên cứu ứng dụng thực nghiệm và đánh giá hiệu quả, tác dụng của trò chơi vận động nên chúng tôi chọn đề tài: Thực nghiệm các trò chơi vận động vào chương 65 trình giảng dạy Giáo dục thể chất cho học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. X. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Quan điểm của đảng và nhà nước về công tác GDTC “Hỡi đồng bào toàn quốc! Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là làm cho cả nước mạnh khỏe. Vậy nên tập luyện thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Việc đó khộng tốn kém, khó khăn gì, gái trai, già trẻ, ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi người lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. Như vậy thì khỏe. Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong đồng bào ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào cũng tập”. Đó là lời kêu gọi tập thể dục của Hồ Chủ Tịch [1]. Các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, thứ VII và thứ VIII, IX và X của Đảng đã xác định những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn để chỉ đạo công tác TDTT trong sự nghiệp đổi mới: Một là, Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng cao sức khoẻ, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, an ninh và quốc phòng của đất nước. Hai là, Phát triển TDTT phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa học và nhân dân Ba là, Kết hợp phát triển phong trào TDTT quần chúng với xây dựng lực lượng vận động viên, nâng cao thành tích các môn thể thao là phương châm quan trọng đảm bảo cho TDTT phát triển nhanh và đúng hướng. Bốn là, Thực hiện xã hội hoá tổ chức, quản lý TDTT, kết hợp chặt chẽ sự quản lý của nhà nước, của các tổ chức xã hội. Năm là, Kết hợp phát triển TDTT trong nước với mở rộng các quan hệ quốc tế về TDTT . Văn kiện Đại Hội X đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển TDTT nhằm nâng cao sức khỏe, thể lực, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước [18]. 66 Trong mấy chục năm qua những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT và GDTC luôn được đề cập nhấn mạnh trong những văn kiện, chỉ thị, lời kêu gọi của Bác Hồ, Hiến pháp, thông tư, nghị quyết, thông tư của Đảng chính phủ, các bộ ngành, các đoàn thể chính trị xã hội có liên quan...Đó là quan điểm coi GDTC là một mặt quan trọng của giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, nhằm đào tạo con người Việt nam có thể lực cường tráng, trí tuệ phát triển cao, có đạo đức trong sáng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam. 1.2. Vị trí của công tác TDTT trong nhà trường phổ thông Bác hồ vĩ đại của chúng ta từ lòng yêu thương quý trọng con người, từ ý chí suốt đời vì nước, vì dân, đã hết sức quan tâm đến việc tập luyện thể dục, bồi bổ sức khỏe. Bác đã xác định đó là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Bác đã kêu gọi đồng bào ai cũng gắng tập thể dục. Để làm gương, ngày nào Bác cũng tập. Tuân theo di chúc của Bác:” Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho thế hệ sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Nhà nước chúng ta với mục tiêu đào tạo HS thành người công dân, lao động, cán bộ, chiến sĩ tốt có kiến thức toàn diện, có sức khỏe và đầy đủ phẩm chất năng lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, càng phải coi trọng thể dục. Vì thể dục là một mặt của giáo dục toàn diện không thể thiếu ở nhà trường phổ thông. Thể dục là biện pháp tích cực nhất nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho HS, cải tạo nòi giống, đẩy mạnh sự phát triển toàn diện, nhịp nhàng, cân đối của cơ thể, tăng cường tố chất, nâng cao khả năng vận động của các em. Thông qua GDTC, bồi dưỡng cho HS những đức tính dũng cảm, ngoan cường, ý thức tổ chức, kỉ luật, đoàn kết, tương trợ, xây dựng thói quen rèn luyện thân thể, gìn giữ vệ sinh, đồng thời làm cho không khí nhà trường thêm tươi vui, lành mạnh, trẻ trung. Việc nâng cao thể lực, nâng cao sự khéo léo, hành động chính xác, phản ứng nhanh, tập trung cao, nâng cao sự bền bỉ cho con người là những yêu cầu cấp thiết cho một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu này chỉ có thể giải quyết một phần lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe, tổ chức rèn luyện thể thao một cách hợp lý, thường xuyên, liên tục trước hết trong lứa tuổi trẻ nhà trường là nơi đào luyện người lao động mới cho đất nước [1]. 1.3. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS THPT Ở lứa tuổi của HS THPT hoạt động học tập là hoạt động cơ bản thu hút nhiều thời gian và công sức. Do nội dung các môn học có nội dung kiến thức ngày càng cao, phương pháp giảng dạy của thầy và trò có nhiều thay đổi, mỗi giáo viên đều có nét riêng về trình độ chuyên môn và cách xử thế, nên đòi hỏi các em phải nỗ lực tập trung nhiều công sức, thời gian và trí tuệ. Thời kì này là thời kì quá độ để trở thành người lớn, các em 67 rất thích tò mò, trí nhớ có nhiều biến đổi căn bản, năng lực ghi nhớ có chủ định tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu xuất ghi nhớ cũng tăng lên. Tính hệ thống trong việc thu lượm tri thức được tăng lên nhờ việc thiết lập những mối liên tưởng ngày càng sâu sắc và phức tạp. Sự phát triển của các em ở giai đoạn này rất phức tạp, đời sống tâm lý có nhiều mâu thẫu, nhiều thay đổi đột ngột khiến cho cha mẹ và thầy cô đôi lúc phải ngạc nhiên và cảm thấy khó xử, vì thế cần phải có thái độ tế nhị và khéo léo. Tình cảm của các em sâu sắc và phức tạp, dễ xúc động, dễ bị kích thích nhiều do bị ảnh hưởng của quá trình phát dục và thay đổi 1 số cơ quan nội tạng, nhiều khi còn do hoạt động thần kinh không cân bằng, các quá trình hưng phấn đã khiến các em không tự kiềm chế được. Các em rất nhạy cảm với đánh giá của những người xung quanh về bản thân các em. Vì vậy, đôi khi chỉ một thành công ngẫu nhiên mà được mọi người chú ý cũng có thể làm cho các em tự đánh giá cao về mình sinh ra tự kiêu, tự mãn, ngược lại cũng có thể gây cho các em có tính tự ti, nhút nhát ... Trong quá trình học tập cũng như trong quá trình tập luyện nếu thầy cô hay cha mẹ có những nhận xét đánh giá không đúng, không công bằng, các em dễ có những phản ứng mãnh liệt. Nói chung, sự phát triển của các em trong giai đoạn này có nhiều biến đổi về tâm sinh lý cần hướng dẫn giúp đỡ các em có những nhận xét đúng về bản thân, cần có những biện pháp thích hợp để động viên khuyến khích các em trong học tập cũng như tập luyện TDTT…[3]. 1.5. Đặc điểm phát triển tố chất cơ thể của học sinh THPT [1] Tố chất là năng lực hoạt động cơ bản của cơ thể con người như sức nhanh, sức bền và sự khéo léo linh hoạt... Sự phát triển các tố chất của cơ thể thay đổi tùy theo lứa tuổi. 1.5.1. Sức nhanh Khái niệm về sức nhanh tương đối rộng, như tốc độ phản ứng, tốc độ động tác, tốc độ động tác có chu kì (chạy)...Vì vậy trong giảng dạy không những nên phát triển tốc độ chạy, mà còn cần phát triển tốc độ phản ứng (các môn bóng), tốc độ của động tác ( các môn thể dục dụng cụ)... Sức nhanh phát triển tương đối sớm, chủ yếu ở lứa tuổi THCS (10-13 tuổi), nếu không được tập luyện tốt thì đến giai đoạn 16-18 tuổi sẽ rất khó nâng cao thêm. Ở lứa tuổi THPT cần tăng cường luyện tập sức nhanh để bổ sung và duy trì sự phát triển đó. 1.5.2. Sức mạnh 68 Sức mạnh lớn hay bé tùy thuộc vào tiết diện sinh lý của cơ và cơ năng chi phối của thần kinh. Ở tuổi THCS cơ thể chủ yếu phát triển theo chiều cao, cho nên các cơ dài, bé. Vỏ não chi phối sự hoạt động của cơ thường bị lan tỏa, không tập trung, cho nên các cơ co và cơ duỗi hoạt động không nhịp điệu, tốn sức chóng mệt. Cùng với sự phát triển cơ thể, đến lứa tuổi THPT, tiết diện sinh lý của cơ cũng tăng lên nhanh chóng, thần kinh chi phối các cơ tập trung hơn, cho nên sức mạnh của các cơ ở lứa tuổi này cũng tăng lên rõ rệt. Những luyện tập với các dụng cụ có khối lượng trung bình có tác dụng thúc đẩy sức mạnh phát triển nhanh chóng. Các động tác nhảy xa, nhảy cao, đẩy tạ, chạy tốc độ....cũng có tác dụng lớn trong việc phát triển sức mạnh cơ thể. Ở lứa tuổi 16-17 sức mạnh của nam tăng lên nhanh chóng vượt xa nữ cùng lứa tuổi. Nói chung sức mạnh của nữ chỉ bằng 65-70% nam. Trong giảng dạy và huấn luyện cần có yêu cầu riệng biệt cho nam và nữ. Nếu ở lứa tuổi THCS chú trọng phát triển sức nhanh thì ở lứa tuổi THPT cần chú trọng phát triển cả sức nhanh lẫn sức mạnh. 1.5.3. Sức bền Có hai loại sức bền, sức bền tĩnh và sức bền động. Sức bền tĩnh thể hiện ở một số động tác như duỗi tay, uốn cầu...trong thời gian lâu, sức bền động như chạy băng đồng, chạy trung bình, chạy dài... Sức bền tĩnh khoảng 14 tuổi đã phát triển mạnh, nếu không được tập luyện, tốc độ phát triển của nó bị giảm đi, về sau khó nâng cao. Các môn có nhiều luyện tập mang tính sức bền tĩnh như thể dục dụng cụ, cần phải đưa những động tác tĩnh dạy xen kẽ với các động tác động để phát triển sức bền một cách toàn diện. Sức bền động đối với lứa tuổi nhỏ rõ ràng là không thích hợp (dưới 15 tuổi). Những thí nghiệm cho kết quả là sau khi chạy dai sức, huyết áp của các em dưới 15 tuổi trong một thời gian dài không thể hồi phục lại trạng thái bình thường, phân tích điện tâm đồ cho thấy cơ tim ở trạng thái quá sức. Nhưng đối với tuổi HS THPT, cơ thể đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, nên có thể luyện tập phát triển sức bền, như chạy cự ly 800-1500m hoặc cự ly dài hơn. Tuy nhiên cần phải tiến hành từng bước, tùy đối tượng và phải thường xuyên quan sát theo dõi, nhất là đối với nữ sinh để chọn cự ly thích hợp và có yêu cầu riêng biệt. 1.5.4. Linh hoạt, khéo léo Là khả năng thực hiện và hoàn thành động tác một cách nhanh chóng chính xác và tiết kiệm sức của cơ thể. 69 Sự linh hoạt, khéo léo của con người không phải sinh ra đã có ngay, mà phải qua một quá trình rèn luyện, học tập mới có được. Tố chất này có quan hệ rất mật thiết với hoạt động của khớp xương, sự đàn hồi của dây chằng, với sức mạnh và tính linh hoạt của các cơ bắp dưới sự chi phối của hệ thống thần kinh. Ở lứa tuổi này nâng cao tố chất này tương đối dễ vì bắp thịt và các tổ chức xung quanh khớp xương có tính đàn hồi tốt, hoạt động dễ linh hoạt, khéo léo và mềm dẻo. Đến tuổi càng lớn, như tuổi HS THPT, các bộ phận đó cứng lại làm giảm tính khéo léo, linh hoạt khi hoạt động. Vì vậy chỉ có luyện tập TDTT mới mang lại cho các em tố chất linh hoạt, khéo léo. Trong khi huấn luyện phát triển các tố chất: nhanh, mạnh, bền không thể nào bỏ qua huấn luyện phát triển tố chất linh hoạt, khéo léo, đồng thời tố chất này được phát triển đều có ảnh hưởng đến việc hoàn thành chính xác và nhanh chóng các động tác TDTT cũng như các động tác khác trong đời sống. 1.6. Trò chơi vận động – một phương tiện, phương pháp GDTC [6], [20], [22], [26], [29], [31] Trong lịch sử loài người, có một thời kỳ dài con người phải sống bằng săn bắt và hái lượm. Để tồn tại và phát triển, con người còn phải chiến đấu chống lại sự tấn công của muông thú và đấu tranh với các hiện tượng tự nhiên như: bão tố, lũ lụt, nóng, rét, bệnh tật… Trong cuộc sống lao động và đấu tranh để sinh tồn ấy, có những lúc gay go, gian khổ, đôi khi rất khốc liệt mà con người phải trả giá bằng cả sinh mạng mình. Nhưng cũng chính trong cuộc sống đó, xã hội loài người đã tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Ngay từ những ngày sơ khai đó, có những lúc sau một ngày lao động vất vả, đôi khi khó khăn và nguy hiểm, con người đã có những thành công nhất định: hái lượm được nhiều rau quả, săn bắt được nhiều muông thú. Người ta tụ tập lại với nhau để bày tỏ sự vui mừng của mình. Trong những cuộc vui như vậy, những người lập nên chiến công thường kể lại, đôi khi diễn lại những thao tác quyết định để lập nên những chiến công đó. Mọi người lắng nghe và vui mừng đôi khi bắt chước lại thao tác có tính quyết định như: ném đá, phóng lao, đuổi bắt, nhờ đó bắt hoặc giết được con mồi. Cứ như vậy, sự bắt chước biến thành trò chơi, đôi khi được tổ chức bên lửa trại. Đó chính là sự ra đời của trò chơi một cách sơ khai, đơn giản nhất, đặc biệt là những trò chơi bắt chước lao động. Lúc đầu các trò chơi mang tính chân thực và đơn điệu, nhưng rồi trong quá trình vui chơi, những người tham gia có sự sáng tạo, thêm hoặc bớt đi một chút, nhất là khi tư duy ngôn ngữ, khả năng trừu tượng phát triển đến mức nhất định, thì những thao tác trong trò chơi dần dần được hình tượng hóa mang tính chất tượng trưng. 70 Cũng nhờ khả năng tư duy, ngôn ngữ phát triển mà con người bắt đầu biết tích lũy những kinh nghiệm trong cuộc sống. Nhờ vậy, người ta dần dần nhận thấy được tầm quan trọng của sự chuẩn bị trước về các công cụ lao động, sức khỏe và sự tập luyện những thao tác cơ bản, để nhờ đó mà hiệu quả lao động đạt được cao hơn. Lúc đầu, sự chuẩn bị các thao tác đó mang tính chất tự nhiên dưới hình thức vui chơi, giải trí. Sau đó, người ta dùng để dạy cho con cháu, dạy cho lớp trẻ để chuẩn bị cho họ tiếp bước cha anh, tham gia tích cực, có hiệu quả vào cuộc sống lao động, đấu tranh cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Như vậy, sau khi ra đời, trò chơi đã mang ý nghĩa giáo dục rất cao và có một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội loài người. Ngày nay, với xu hướng phát triển mạnh của các phương tiện lao động, học tập, trò chơi ngày càng trở thành một trong những nội dung, phương tiện, phương pháp giáo dục rèn luyện thế hệ trẻ nhanh nhất, có hiệu quả nhất 1.6.1. Một số đặc điểm của trò chơi - Hầu hết những trò chơi vận động (TCVĐ) được sử dụng trong GDTC đã mang sẵn tính mục đích một cách rõ ràng. - Tổ chức hoạt động trò chơi trên cơ sở chủ đề có hình ảnh hoặc là những quy ước nhất định để đạt mục đích nào đó, trong điều kiện và tình huống luôn thay đổi hoặc thay đổi đột ngột. - Để đạt mục đích (giành chiến thắng) thì có nhiều cách thức (phương pháp) khác nhau. - Trò chơi mang tính tư tưởng rất cao. Trong quá trình chơi HS tiếp xúc với nhau, cá nhân phải hoàn thành nhiệm vụ của mình trước tập thể ở mức độ cao, tập thể có trách nhiệm động viên, giúp đỡ cá nhân hoàn thành nhiệm vụ của mình, vì vậy tình bạn, lòng nhân ái, tinh thần tập thể v.v… được hình thành. Cũng trong quá trình chơi, đã xây dựng cho HS tác phong khẩn trương, nhanh nhẹn, tính kỷ luật, sự sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ với chất lượng cao v.v…góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho HS. - TCVĐ mang đặc tính thi đua rất cao: Trong quá trình tham gia vào trò chơi, các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng, như niềm vui khi thắng lợi và buồn khi thất bại, vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân thấy có lỗi khi không làm tốt phần việc của mình v.v… Vì tập thể mà các em phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho đội trong đó có bản thân mình. Mỗi trò chơi thường có những qui tắc, luật lệ nhất định, nhưng cách thức để đạt được mục đích lại rất đa dạng, trong khi đó bản thân trò chơi lại mang tính thi đua và sự tự 71 giác rất cao. Vì vậy, khi đã tham gia trò chơi, HS thường vận dụng hết khả năng sức lực, sự tập trung chú ý, trí thông minh và sự sáng tạo của mình. - Khả năng định mức và điều chỉnh lượng vận động khi thực hiện TCVĐ bị hạn chế. Những điều trên là rất tốt, nhưng cũng có một khía cạnh mà các nhà sư phạm phải quan tâm đó là tránh để các em ham chơi quá, chơi đến mức độ quên cả ăn, học, chơi đến mức quá sức dẫn đến mệt mỏi, trong trường hợp như vậy không những không có lợi về mặt sức khoẻ mà ngược lại còn có hại cho sức khoẻ. Đây là một đặc điểm quan trọng theo khía cạnh không hay, mà các nhà sư phạm phải rất chú ý khi tổ chức cho các em chơi. 1.6.2. Phân loại trò chơi Có thể chia trò chơi ra làm ba nhóm chính: Trò chơi sáng tạo, TCVĐ và trò chơi thể thao (các môn bóng). Dưới đây chỉ đi sâu vào nhóm thứ hai: TCVĐ. Riêng ở nhóm trò chơi này cũng rất phong phú đa dạng, vì vậy có nhiều cách phân loại khác nhau căn cứ trên những quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại:  Các loại trò chơi được phân loại theo căn cứ vào những động tác cơ bản của quá trình chơi Theo cách này, ta có: Trò chơi về chạy, trò chơi về nhảy, ném, leo trèo, mang vác… và những trò chơi phối hợp hai hay nhiều hoạt động trên với nhau. Mục đích của cách phân loại này là để cho người dạy dễ chọn lọc và sử dụng trong việc rèn luyện những kỹ năng vận động cơ bản cho HS.  Căn cứ vào sự phát triển các tố chất thể lực trong quá trình chơi  Các loại trò chơi được phân loại theo căn cứ vào khối lượng vận động · Trò chơi “tĩnh”: Các trò chơi có khối lượng vận động không đáng kể, ví dụ: Trò chơi : “Bịt mắt bắt dê”, “Bỏ khăn”.v.v… · Trò chơi “động”: Các trò chơi có khối lượng vận động ở mức trung bình và cao, ví dụ: Các trò chơi chạy tiếp sức “Tiếp sức chuyển khăn”, “Chạy đổi chỗ”, “Chạy thoi”.  Các loại trò chơi được phân loại theo căn cứ vào yêu cầu về công tác tổ chức thực hiện trò chơi Ta có: Trò chơi chia thành đội, không chia đội và trò chơi có một nhóm chuyển tiếp ở giữa. 1.6.3. Ý nghĩa và tác dụng của trò chơi vận động TCVĐ là một trong những phương tiện GDTC nó được sử dụng kết hợp với bài tập thể chất hoặc du lịch và rèn luyện trong tự nhiên góp phần củng cố và nâng cao sức khoẻ 72 của con người. Thông qua TCVĐ góp phần giáo dục khả năng nhanh nhẹn, khéo léo, thông minh, đức tính thật thà, tính tập thể nhằm giáo dục các mặt đức, trí, thể, mỹ v.v… đào tạo con người phát triển một cách toàn diện. TCVĐ còn là một phương tiện vui chơi giải trí, một hình thức nghỉ ngơi tích cực, một hoạt động có tính văn hoá góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho con người. Về phương diện sinh lý vận động: TCVĐ giải tỏa tâm lý tạo nên sự lạc quan yêu đời, vui tươi thoải mái góp phần giảm các căng thẳng thần kinh, giảm và chống đỡ được một số bệnh tật. Với tác dụng to lớn của TCVĐ nên đã được nhân dân ta sử dụng phục vụ trong những ngày hội, ngày tết, ngày lễ và đặc biệt trong các dịp trại hè của HS. Trong trường học, trò chơi được sử dụng kết hợp với bài tập thể chất, nó là một trong những nội dung của chương trình thể dục. Căn cứ vào đặc điểm của từng trò chơi được sử dụng vào các phần khởi động, cơ bản hay hồi tĩnh của mỗi tiết học thể dục, hoặc những giờ chính khoá chuyên về TCVĐ. Trò chơi có sức lôi cuốn người học, người tham gia chơi thực hiện một cách tự nguyện, tạo không khí vui tươi, lành mạnh, hào hứng có khi quên cả sự mệt nhọc. Tuy nhiên, do khối lượng và cường độ vận động khó định lượng một cách chính xác, nên TCVĐ cũng có những mặt hạn chế nhất định. 2.2. Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu: Thông qua phỏng vấn bằng phiếu các chuyên gia, huấn luyện viên, giảng viên, giáo viên, sinh viên chuyên ngành và những người có kinh nghiệm đang công tác trong lĩnh vực TDTT. 2.3. Phương pháp kiểm tra hình thái  Chiều cao đứng (cm)  Cân nặng (kg)  Chỉ số Quetelet (g/cm) Q= Chiều cao(g)/ Cân nặng(cm) 2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm Căn cứ vào quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT, Ban hành về việc đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên chúng tôi đưa ra các nội dung đánh giá sau:  Lực bóp tay thuận(kg)  Nằm ngửa co gối gập thân( lần/30 giây)  Chạy 30m xuất phát cao (giây) 73  Chạy con thoi 4 x 10m (giây)  Bật xa tại chỗ (cm)  Chạy tùy sức 5 phút (m) 2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Đề tài tổ chức thực nghiệm sư phạm theo hình thức so sánh song song trên đối tượng là nam học sinh khối 10 Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh gồm 2 nhóm: nhóm thực nghiệm gồm 50 HS nam; nhóm đối chứng gồm 50 HS nam. 2.6. Phương pháp toán thống kê Sử dụng các công thức - Giá trị trung bình n X  x i 1 i Trong đó : n n : tổng số đối tượng quan sát. Xi : giá trị từng đối tượng quan sát.  : là ký hiệu tổng cộng. - Độ lệch chuẩn (  ) =  ( Xi  X ) i 2 ( n  30 ) n - Hệ số biến sai: Cv  x .100% X Cách đánh giá: + Cv  10% các số liệu phân bố tập trung quanh số trung bình. + Cv > 10% các số liệu phân bố phân tán xung quanh số trung bình. - Sai số tương đối của giá trị trung bình (  ): dùng để kiểm tra tính đại diện của tập hợp mẫu với tổng thể qua giá trị số trung bình  t 05   x x Trong đó: + t05 là giá trị giới hạn chỉ số tstudent ứng với xác suất p = 0.05 và độ tự do n ( n  30 ). +  x : là sai số chuẩn của số trung bình :  x  74  n - Tiêu chuẩn t-student + So sánh 2 hai số trung bình quan sát t XA  XB  A2  B2 với ( nA  30, nB  30 )  n A nB Trong đó: XA : Giá trị trung bình của nhóm A X B : Giá trị trung bình của nhóm B  A 2 ,  B 2 : Phương sai của A, B nA, nB : Kích thước mẫu của A, B + So sánh hai số trung bình tự đối chiếu (n  30) t Trong đó : xd d n d  xB  x A : Hiệu số xd   2 d  d n   : Trung bình hiệu số d2 n  d      n  2 - Nhịp phát triển Brody W%  100(V2  V1 ) . 0.5(V1  V2 ) Trong đó: W%: Nhịp độ tăng trưởng (%) V1: Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm V2:: Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm - Chỉ số Quetelet= Cân nặng (g)/chiều cao (cm) 2.7. Thời gian nghiên cứu: Đề tài được tiến hành trong năm học 2011 -2012 * Giai đoạn 1: thu thập và tổng hợp tài liệu có liên quan, viết đề tài nghiên cứu, tiến hành phỏng vấn, lấy số liêu lần 1. * Giai đoạn 2: thu thập và tổng hợp tài liệu có liên quan, viết đề tài nghiên cứu, ứng dụng lồng ghép các trò chơi vận động, tiến hành lấy số liệu lần 2. * Giai đoạn 3: thu thập và tổng hợp tài liệu có liên quan, viết đề tài nghiên cứu, hoàn thành đề tài và nghiệm thu. 75 2.8. Tổ chức nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: Các Trò chơi vận động  Khách thể nghiên cứu: là nam HS khối 10 (100 học sinh) đang học tại Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh năm học 2011-2012.  Địa điểm tiến hành nghiên cứu: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh. 2.9. Lựa chọn một số nội dung ứng dụng vào chương trình GDTC để phát triển thể lực học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh * Bước 1: Sử dụng phương pháp tham khảo tài liệu Trên cơ sở các nội dung GDTC mà BGD&ĐT đã quy định cho khối trường THPT chúng tôi tiến hành phân tích và tổng hợp và các nguồn tài liệu tham khảo chuyên môn, đề tài đã xác định cơ sở lý luận của nội dung và yêu cầu đối với trường THPT. Qua đó chúng tôi tiến hành phỏng vấn để lựa chọn nội dung lồng ghép vào chương trình giảng dạy GDTC. Nội dung phải dễ thực hiện, phù hợp với lứa tuổi HS, kích thích hứng thú cho HS đặc biệt là trường chuyên, không tạo nên áp lực gánh nặng mà vẫn phát triển đầy đủ các tố chất vận động, nhằm phát triển thể lực cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. * Bước 2: Tổng hợp kết quả phỏng vấn để lựa chọn nội dung lồng ghép vào chương trình GDTC nhằm phát triển thể lực cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh Chúng tôi tiến hành phỏng vấn các huấn luyện viên ( 5 phiếu), giảng viên đại học ( 10 phiếu), giáo viên TDTT THPT ( 25 phiếu), sinh viên chuyên ngành (5 phiếu), tổng cộng là 45 phiếu. Dưới đây là tổng hợp kết quả: 76 Bảng 2.1. Kết quả phỏng vấn lựa chọn nội dung lồng ghép vào chương trình GDTC nhằm phát triển thể lực cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh (n=45) TT Nội dung phỏng vấn Kết quả Số phiếu Tỉ lệ % Ý nghĩa của việc phát triển thể lực cho học sinh THPT 1 Rất quan trọng Quan trọng Bình thường Không quan trọng Ngoài các nội dung của khung chương trình giảng dạy GDTC của BGD&ĐT (kèm theo chương trình khung) theo ý kiến Thầy, Cô nên ưu tiên phát triển thể lực chung cho HS THPT mà đặc biệt là trường chuyên khi các em xem môn thể dục là gánh nặng với các em? Các trò chơi vận động Các môn bóng Bài tập phát triển chung Thể dục nhịp điệu Điền kinh Ý kiến khác 2 3 37 8 0 0 82.22 17.78 43 38 10 15 36 0 95.55 84.44 22.22 33.33 80 0 Rất phù hợp Phù hợp 34 11 75.55 24.44 Chưa phù hợp 0 0 Theo quý Thầy cô ngoài các nội dung GDTC mà BGD&ĐT quy định cho khối trường THPT thì việc lồng ghép thêm nội dung TCVĐ vào chương trình giảng dạy hợp lý không? Từ bảng 2.1 chúng tôi nhận thấy: - Về ý nghĩa của việc phát triển thể lực cho HS THPT, kết quả thu được như sau: mức rất quan trọng có 37/45 ý kiến, chiếm tỉ lệ 82.22%, còn mức quan trọng có 8/45 ý kiến tán thành chiếm tỉ lệ 17.78%. Như vậy, các ý kiến đều cho rằng phát triển tố chất thể lực chung cho HS THPT có 1 vị trí, vai trò rất quan trọng. Không có ý kiến nào phủ nhận tầm quan trọng của việc phát triển tố chất thể lực chung cho HS THPT. 69 Từ bảng 2.1 chúng tôi nhận thấy: - Về ý nghĩa của việc phát triển thể lực cho HS THPT, kết quả thu được như sau: mức rất quan trọng có 37/45 ý kiến, chiếm tỉ lệ 82.22%, còn mức quan trọng có 8/45 ý kiến tán thành chiếm tỉ lệ 17.78%. Như vậy, các ý kiến đều cho rằng phát triển tố chất thể lực chung cho HS THPT có 1 vị trí, vai trò rất quan trọng. Không có ý kiến nào phủ nhận tầm quan trọng của việc phát triển tố chất thể lực chung cho HS THPT. - Về ý kiến Thầy, Cô nên ưu tiên phát triển thể lực chung cho HS THPT mà đặc biệt là trường chuyên ngoài các nội dung của khung chương trình giảng dạy GDTC của BGD&ĐT như sau: về các TCVĐ có 43/45 phiếu đồng tình chiếm tỉ lệ 95.55%; Các môn bóng có 38/45 phiếu đồng tình chiếm 84.44%; Bài tập phát triển chung có 10/45 phiếu đồng tình chiếm 22.22%, Thể dục nhịp điệu có 15/45 đồng tình chiếm 33.33%; Điền kinh có 36/45 phiếu đồng tình chiếm 80%. Như vậy, các TCVĐ có số người tán thành nhiều nhất để phát triển các tố chất thể lực cho HS THPT và điều này càng có ý nghĩa thiết thực khi áp dụng cho trường chuyên như trường THPT Lương Thế Vinh. - Về sự phù hợp khi lồng ghép thêm nội dung TCVĐ vào chương trình giảng dạy GDTC thì có 34/45 ý kiến cho là rất phù hợp chiếm 75.55%; phù hợp có 11/45 ý kiến chiếm 24.44%; chưa phù hợp không có ý kiến nào tán thành. * Từ những kết quả trên, chúng tôi nhận thấy việc lồng ghép thêm TCVĐ vào nội dung giảng dạy GDTC cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh là hoàn toàn hợp lý. * Bước 3: Tiếp tục tham khảo tài liệu để lựa chọn các TCVĐ Trên cơ sở kết quả phỏng vấn ở trên, kết hợp tham khảo tài liệu và thực tiễn giảng dạy, bước đầu tổng hợp và thống kê được 25 TCVĐ nhằm phát triển thể lực cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. * Bước 4: Tiến hành phỏng vấn các huấn luyện viên, giảng viên, giáo viên, sinh viên chuyên ngành TDTT về mức độ ưu tiên sử dụng các TCVĐ lồng ghép vào nội dung giảng dạy GDTC cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. Sau khi đã lựa chọn được 25 TCVĐ, đề tài tiến hành phỏng vấn các các huấn luyện viên ( 5 phiếu), giảng viên đại học ( 10 phiếu), giáo viên TDTT THPT ( 25 phiếu), sinh viên chuyên ngành ( 5 phiếu), tổng cộng là 45 phiếu về mức độ ưu tiên 66 sử dụng các TCVĐ kể trên để lồng ghép vào nội dung giảng dạy GDTC nhằm phát triển thể lực cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. Các TCVĐ được sử dụng phỏng vấn sẽ được lựa chọn khi có kết quả từ 80% điểm tối đa trở lên theo cách trả lời sau: - Thường xuyên: 1.5 điểm. - Có sử dụng : 1 điểm. - Ít sử dụng : 0.5 điểm. 67 Bản Kết TT Trò chơi vận động lần Kết quả phỏng vấn g 2.2. (n=45) quả Điểm Tỉ lệ % phỏng 1 Co kéo 62 2 Bóng chuyền sáu 63 mức 3 Lăn bóng tiếp sức 55.5 4 Người thừa thứ ba 56 tiên 5 Lò cò tiếp sức 57 dụng 6 Tình bạn keo sơn 55 7 Cướp cờ 61 8 Đội có người bật xa vô địch 64 lồng 9 Chim sồ lồng 31 10 Nhảy cừu 39 vào 11 Đội nào cò nhanh 36 dung 12 Đuổi bắt 51 13 Đứng quay người nhanh 28.5 dạy 14 Chuyền bóng qua đầu 30 15 Hoàng anh, hoàng yến 32.5 16 Kéo co 28 17 Đổi chỗ nhanh 40 18 Đàn vịt nào nhanh 43 19 Xuất phát nhanh 42 20 Chạy tiếp sức 52 21 Tạo sóng 25 22 Chọi gà 40 23 Chong chóng 22 24 Chọi cóc 20 25 Phá vây 2 GDTC cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh. vấn 70 91.85 93.33 82.22 82.96 84.44 81.48 90.37 94.81 45.92 57.78 53.33 75.56 42.22 44.44 48.14 41.48 59.25 63.70 62.22 77.03 37.04 59.25 32.59 29.63 2.96 về độ ưu sử các TCVĐ ghép nội giảng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan