Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Skkn vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình ngữ văn lớ...

Tài liệu Skkn vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình ngữ văn lớp 7

.DOC
32
1847
90

Mô tả:

 Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  MỤC LỤC TT NỘI DUNG Trang 1 Trang bìa 2 Mục lục 1 3 Phần thứ nhất: Mở đầu 2 4 Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề 4 5 I. Cơ sở lý luận 4 6 II. Thực trạng vấn đề 4 7 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 6 8 IV. Tính mới của giải pháp 22 9 V. Hiệu quả SKKN 22 10 III. Phần kết luận và kiến nghị 24 Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -1- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Có thể nói trong trường kì lịch sử loài người, môn Văn là một môn học có lịch sử lâu đời nhất trong các môn học. Trong bất kì giai đoạn nào, môn học này cũng hướng tới các nhiệm vụ chủ yếu sau đây : Thứ nhất, giúp người học biết đọc, biết viết (biết chữ) Thứ hai giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp và biết cảm nhận, thưởng thức cái hay, cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Thứ ba, thông qua hai nhiệm vụ trên mà mở mang tri thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm và rèn luyện nhân cách cho người học sinh. Ngày nay, khi đất nước bước sang một giai đoạn mới, mục tiêu của giáo dục nhà trường phổ thông đã xác định rõ trong luật giáo dục: “ Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thanh nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (Luật Giáo dục – Điều 23) Do yêu cầu gắn với cuộc sống hiện tại nên chương trình Ngữ văn trung học cơ sở có đưa vào một số văn bản nhật dụng. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác hại của các tệ nạn xã hội…Nhằm đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc gần gũi hằng ngày vừa có ý nghĩa lâu dài trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm đến, giúp các em “hòa nhập với xã hội”, thấy được vai trò và nhiệm vụ của mình đối với xã hội . Từ đó có tinh thần thái độ học tập đúng đắn hơn. Muốn chuyển tải một cách tốt nhất những kiến thức cơ bản đó đến người học. Người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, hiểu biết sâu rộng, vốn sống phong phú. Ai cũng hiểu nếu không nắm vững tri thức thì không thể dạy tốt được nên người giáo viên bao giờ cũng chú tâm vào việc đào sâu kiến thức, suy ngẫm, tìm tòi nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu các đối tượng học sinh. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -2- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  Xuất phát từ nhận thức đó, tôi cảm thấy rằng đúng là cần trăn trở về việc giảng dạy các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS. Đặc biệt là cụm văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7. Tôi mạo muội viết đề tài: “Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7”. Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giảng dạy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt của học sinh trong việc tiếp nhận thông tin, khám phá giá trị của các văn bản nhật dụng . Dẫu có niềm đam mê nhưng vốn kiến thức về chuyên môn còn hạn hẹp nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự góp ý của cấp trên và đồng nghiệp. II. Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu: Có thể nói: Chương trình Ngữ văn THCS được xây dựng theo tinh thần tích hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí Kiểu văn bản( Tập làm văn) và tương ứng với kiểu văn bản là Thể loại tác phẩm(văn học). Điều này có nghĩa là việc lựa chọn các văn bản căn cứ trước hết vào tính chất tiêu biểu của kiểu văn bản và thể loại tác phẩm. Song bên cạnh đó còn có một nội dung mà chương trình Ngữ văn quan tâm là sự cập nhật, gắn kết với đời sống, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc gần gũi hàng ngày, vừa có ý nghĩa lâu dài, trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm hướng tới … Đó chính là hệ thống các văn bản nhật dụng. Nhưng để truyền đạt những kiến thức cơ bản và đạt được mục đích đã xác định thì mỗi người hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình một con đường với những cách thức và các thao tác sư phạm của riêng mình. Con đường riêng ấy được hình thành từ những suy nghĩ của cá nhân về nội dung bài dạy cũng như đối tượng học sinh. Cho nên trong gần 20 năm giảng dạy ở trường THCS Buôn Trấp, bản thân tôi đã xác định mục đích nghiên cứu của mình là làm sao để học sinh khối 7 mà mình đã, đang và sẽ giảng dạy thông qua các bài học cụ thể của nhóm văn bản nhật dụng mà hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề về quyền trẻ em, nhà trường, phụ nữ (người mẹ) và vấn đề văn hóa giáo dục. Ngoài ra còn nhằm góp phần tạo thêm sự hứng thú và nâng cao hiệu quả của giờ lên lớp của mỗi giáo viên. Mục đích chính của đề tài là nhằm đưa ra hướng giải quyết một số thắc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, để từ đó bản thân có thêm kinh Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -3- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  nghiệm dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đồng thời cũng đáp ứng được nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn lớp 7 ở trường THCS hiện nay. Cũng có thể đề tài này chỉ là một tài liệu dùng để tham khảo để phục vụ cho việc giảng dạy văn bản nhật dụng ở khối 7 THCS Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -4- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề 1.1 “Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc chỉ kiểu văn bản. Nói đến văn bản nhật dụng là nói đến tính chất của nội dung văn bản. Đó là những bài viết có tính chất gần gũi, bức thiết đôí với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như : thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý và các tác hại của các tệ nạn xã hội… Bởi vậy, văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể tài cũng như các kiểu văn bản” ( Ngữ văn 6- tập hai) 1.2 Bởi vậy mà những văn bản đều được lựa chọn theo những đề tài với những vấn đề có tính thời sự rất cao và cập nhật với đời sống hiện đại. Chính vì vậy mà các văn bản nhật dụng có tính lâu dài cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loài. Chẳng hạn như vấn đề bảo vệ di sản văn hoá, chống chiến tranh hạt nhân, môi trường, dân số, vấn đề giáo dục trẻ em, chống hút thuốc lá....Tất cả đó đều là những vấn đề nóng bỏng của hôm nay nhưng không thể ngày một ngày hai mà giải quyết được. Giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng đó vẫn là một yêu cầu quan trọng. Các văn bản nhật dụng nó vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất định: kể chuyện, miêu tả, thuyết minh, nghị luận hay điều hành.... có nghĩa là văn bản nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại mọi kiểu văn bản. Hơn nữa đối với các em học sinh THCS các em mới lần đầu tiên làm quen với loại văn bản nhật dụng nên có phần còn bỡ ngỡ. Chưa nói đến một số ít giáo viên ở một số trường vẫn chưa thực sự quan tâm thích đáng đến phần văn bản này. Do đó mà việc vận dụng và đổi mới phương pháp trong tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói riêng có một vai trò vô cùng quan trọng. Với các em khi học văn bản nhật dụng không chỉ là để mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn nhằm tạo cho các em thực hiện nguyên tắc là để các em hoà nhập với cuộc sống xã hội và rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội. II. Thực trạng vấn đề: 1/ Thực trạng của vấn đề: Thực tế khi đứng trên lớp trực tiếp giảng dạy cùng với sự đóng góp ý kiến trao đổi với các đồng nghiệp bản thân tôi nhận thấy Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -5- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  khi khai thác giảng dạy văn bản nhật dụng giáo viên thường mắc phải một số hạn chế như sau: Giáo viên coi những văn bản này là một thể loại cụ thể giống như truyện, kí…. Trong khi đó bản thân nó lại không phải. Vì thế giáo viên chỉ chú ý dựa vào các điểm của thể loại như: cốt truyện, nhân vật, tình huống, sự việc ghi chép để phân tích nội dung. Giáo viên thường chú ý khai thác và bình giảng trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh. Ví dụ khi dạy văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê, GV chỉ chú ý truyền tải nội dung, cốt truyện mà chưa giúp học sinh liên hệ với chính bản thân mình nếu xãy ra vấn đề đó đối vói gia đình, bạn bè và những người xung quanh mình. Hơn nữa giáo viên quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà giáo viên chưa chú ý nhiều tới liên hệ thực tế dẫn đến khai thác kiển thức chưa đầy đủ. Một mặt vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự mở rộng. Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biên pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh. Trong tiết học thường khô khan, thiếu sinh động và chưa kích thích hứng thú và sự say mê yêu thích của các em khi học văn. Phương tiện dạy học cũng đóng một vai trò quan trọng quyết định chất lượng giờ dạy:ở đây giáo viên chỉ có thể dùng bảng phụ, phiếu học tập đó là do cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu. Trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem các tranh ảnh minh hoạ, đoạn băng ghi hình, sơ đồ tư duy thì sẽ làm cho tiết học sinh động hơn nhiều. Chẳng hạn khi dạy bài Ca Huế trên sông Hương thì hầu như giáo viên không chú ý đến vấn đề này. Giáo viên còn có một tâm lí là phân vân không biết có nên sử dụng phương pháp giảng bình khi dạy những văn bản này hay không và nếu có thì sử dụng ở mức độ nào? Giờ học tẻ nhạt không thực sự thu hút sự hứng thú của học sinh. Bản thân các em chưa biết liên hệ thực tế, chưa biết giải quyết vấn đề nêu ra trong văn bản nhật dụng. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -6- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  2/Nguyên nhân của thực trạng: + Số lượng văn bản nhật dụng chiếm số lượng không nhiều (khoảng 10% trong chương trình sgk THCS) nhưng trước đó lí luận dạy học chưa từng đặt vấn đề về phương pháp dạy học văn bản nhật dụng. Bởi vậy nên giáo viên ít có kinh nghiệm, giờ giảng dạy còn lung túng về phương pháp. + Việc sử dụng máy chiếu của giáo viên chưa thực sự nhuần nhuyễn, chưa được đều đặn nên việc mở rộng kiến thức cho các em bằng hình ảnh, đoạn phim, bài dân ca Bắc Bộ… còn rất hạn chế. + Giáo viên chưa xác định đúng mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng. + Giáo viên ít sưu tầm các tài liệu liên quan đến văn bản nhật dụng để bổ sung cho bài học thêm phong phú. + Một nguyên nhân có thể nói là khó có thể giải quyết ngay được là việc học của học sinh. Đa phần học sinh của trường chúng tôi là con nông dân, sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái chưa thực sự tốt nhiều gia đình đi làm ăn xa không có điều kiện quan tâm đến các em. Nhiều em không chăm học, về nhà không học bài, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp dẫn đến không hiểu bài. Điều đó đã làm cho giáo viên càng gặp khó khăn hơn. + Đồng thời hệ thống văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 7 lại tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể là truyện ngắn (Cuộc chia tay của những con búp bê), một bài bút kí(Ca Huế trên sông Hương)Cũng có thể là một bài báo biểu cảm(Cổng trường mở ra), Bức thư(Mẹ tôi). Năm học 2014-2015 bản thân tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7 từ thực trạng nêu trên nên kết quả của việc học văn bản nhật dụng của năm 2014- 2015 được thể hiện qua bài kiểm tra 15 phút như sau (cụ thể tôi dạy 3 lớp 7a4, 7a7, 7a8). Lớp Điểm 8-> 10 5-> 7 1->4 7a4, 7a7, 7a8 (TS: 98) 13 em 35 em 50 em Lưu ý: Điểm khá, Giỏi phần lớn đều nằm ở lớp 7a8. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 1 / Một số vấn đề cơ bản cần chú ý khi dạy các văn bản nhật dụng: Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -7- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  1.1) Dạy loại văn bản này là “ Tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hòa nhập với xã hội”. Nên các đề tài được chọn dĩ nhiên phải có tính chất thời sự, song đó cũng phải là những đề tài có liên quan đến “Những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài”. Do đó dạy văn bản nhật dụng, trước hết phải từ cái trước mắt, có tính cập nhật và thời sự, chỉ ra ý nghĩa lâu dài muôn thuở; từ cái của một nơi, chỉ ra điều của mọi nơi; từ một phương diện, chỉ ra mối liên quan của nhiều phương diện. Do chức năng, đề tài, tính chất của văn bản, GV có quyền và cần cho HS liên hệ tới một phạm vi rộng rãi mà không bị quá gò bó trong khuôn khổ văn chương. Hoàn toàn có thể cho HS liên hệ trực tiếp vấn đề đang học với tình hình địa phương và khi cần, có thể sử dụng một giờ dành cho chương trình địa phương để tiến hành các hoạt động điều tra, thống kê, khảo sát. 1.2) Ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, còn có những thông tin khác về lịch sở, xã hội, chính trị, … Cần lưu ý HS đọc kĩ cả những chú thích đó mới hiểu được một cách đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của văn bản. 1.3) Không nên quan niệm đây là những sáng tác tiêu biểu cho các tác phẩm văn học của một thời kì hay một tác giả nào đấy để đặt ra hay đòi hỏi qua cao yêu cầu về nghệ thuật của văn bản. Mặc dù các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS có cách viết trong sáng, chuẩn mực, nhưng có lẽ nhà biên soạn chủ yếu vẫn là chú ý đến nội dung chính đặt ra trong tác phẩm ấy. Vì vậy khi dạy học các văn bản nhật dụng , GV nên tập trung khai thác các vấn đề nội dung tư tưởng đặt ra ở mỗi văn bản; từ đó mà liên hệ , giáo dục tư tưởng, tình cảm và ý thức cho HS trước các vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm. 2) Những lưu ý về nội dung khi dạy các văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn 7: 2.1) Trong chương trình Ngữ văn 7 gồm 4 văn bản nhật dụng sâu đây: - Cổng trường mở ra Của Lí Lan. - Mẹ tôi của Et-môn-đô-đơ A-mi-xi trong Những tấm lòng cao cả. - Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài. - Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh. Hai văn bản Cổng trường mở ra Của Lí Lan và Mẹ tôi của Et-môn-đôđơ A-mi-xi nhằm khai thác nội dung người mẹ và nhà trường. Văn bản Cuộc Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -8- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài thuộc đề tài quyền trẻ em. Văn bản cuối là một bài báo giới thiệu một sản phẩm văn hóa nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh. 2.2. Nắm chắc đặc điểm và ý nghĩa của các nội dung đặt ra trong mỗi văn bản nhật dụng để hướng dẫn học sinh tự liên hệ, rút ra được bài học cho chính bản thân mình. Chẳng hạn: 2.2.1 Cổng trường mở ra là một bài kí được trích từ báo là một bài kí được trích từ báo Yêu trẻ – thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Lí Lan. Bài văn ghi lại tâm trạng của một người mẹ trong đêm chuẩn bị cho con trước ngày khai trường vào lớp một. Không có sự việc, không có cốt truyện, chủ yếu là tâm trạng hồi hộp, phấp phỏng đón chờ ngày khai trường. Người mẹ không ngủ, phần vì lo chuẩn bị cho con, nhưng phần vì cả tuổi thơ áo trắng đến trường của chính mình sống dậy. “Cứ nhắm mắt lại là mẹ dường như nghe tiếng đọc trầm bổng : “Hằng năm cứ vào cuối thu… Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp” Khi dạy bài này, GV chủ yếu hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích tâm trạng của người mẹ là chính. Qua tâm trạng này mà thấy được tình cản và tấm lòng của bà mẹ trước ngày con vào lớp một. Từ đó mà HS liên hệ với chính bản thân mình. 2.2.2 Mẹ tôi là một bài văn mang tính truyện nhưng lại dưới dạng một bức thư của nhà văn Ét-môn-đô-đơ A-mi-xi( Nhà văn I-ta-li-a). có chuyện xãy ra nhưng phần chính vẫn là tâm trạng và những suy nghĩ của người bố qua bức thư gửi cho con – người đã phạm lỗi. Qua bức thư, người đọc thấm thía công lao và tình cảm của người mẹ có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi người con. Do tập trung đề cao người mẹ và nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, có những chỗ tác giả diễn đạt khá cực đoan, ví dụ; “ Bố rất yêu con, con ạ, con là niềm hi vọng tha thiết nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”, trong quá trình phân tích nếu để nguyên như thế hoặc không khéo léo học sinh cảm thấy nặng nề và có thể hiểu nhầm tấm lòng của người cha rằng yêu vợ hơn con nên nười giáo viên phải phân tích, bình luận và chỉ rõ cho các em thấy tình cảm và sự nghiêm khắc của người cha trong việc giáo dục con. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương -9- - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  GV hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích văn bản, từ đó mà rút ra nội dung và ý nghĩa của bài học, tự liên hệ và kiểm điểm về những thái độ và tình cảm của chính bản thân đối với bố mẹ mình. 2.2.3 Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài tuy là một truyên ngắn, nhưng khi vào sách Ngữ văn, văn bản này vẫn chủ yếu được khai thác theo tinh thần của một văn bản nhật dụng. Đây là văn bản thể hiện vấn đề quyền trẻ em, một trong những nội dung chính của mảng văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 7. Trẻ em có rất nhiều quyền. Điều đó đã được ghi trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc 1989. Tuy vậy đề tài về quyền trẻ em thì không phải nhiều. Các tác giả thường khai thác ở một số vấn đề như: Nỗi khổ về cuộc sống vật chất và nỗi đau về tinh thần. Một trong những nỗi đau về tinh thần đó là nỗi đau sống thiếu cha, thiếu mẹ. Cha mẹ không may mất đi là một nỗi đau đã đành. Cha mẹ vẫn sống mà con cái vẫn bị chia lìa xa cách mới là điều đáng nói. Nỗi đau này do chính con người tạo nên cho bản thân và con cái mình. Truyện Cuộc chia tay của những con búp bê viết về vấn đề này nhưng qua câu chuyện người đọc còn thấy được những tình cảm anh em trong sáng, thân thiết, sự gắn bó máu thịt và tấm lòng nhân hậu, vị tha của những em bé chẳng may rơi vào cảch hạnh phúc gia đình tan vỡ. Truyện ngắn này đã được giải nhì trong cuộc thi thơ văn viết về quyền trẻ em do viện khoa học giáo dục và tổ chức cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển tổ chức năm 1992. Khi đọc văn bản này, bản thân tôi cũng hơi băn khoăn là liệu vấn đề khá tế nhị và phức tạp của người lớn (chuyện li hôn) mà cho HS lớp 7 biết như thế có quá sớm không? Sau khi trao đổi với đồng nghiệp tôi mới nhận thấy việc dạy văn bản này cho lứa tuổi này không có gì đáng lo lắng vì: - Thứ nhất, vấn đề hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, bố mẹ li hôn, con cái chịu nhiều đau đớn, thua thiệt,… là một sự thật không nên né tránh trong xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, phát thanh, truyền hình,…)cũng thường xuyên khai thác vấn đề này. Vì thế đây không còn là câu “chuyện kín” cần phải giữ gìn, “che đậy” với các em. - Thứ hai, nội dung chính của truyện Cuộc chia tay của những con búp bê không tập trung khai thác và miêu tả trực tiếp cảnh đổ vỡ giữa cha mẹ (như xô xát, mắng chửi, đập phá,…) mà chủ yếu tập trung khắc hoạ những tình cảm và tấm lòng vị tha, nhân hậu, trong sáng và cao đẹp của hai em bé. Chính điều này có ý nghĩa giáo dục không chỉ với các em mà cho cả những người đã là cha, là mẹ. Cũng chính điều này cùng với cách kể chuyện chân thật đã tạo cho truyện Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 10 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  một sức truyền cảm khá mạnh, khiến cả người dạy lẫn người học rất xúc động. Do đó khi dạy, GV cần tập trung khai thác nội dung này là chính. 2.2.4 Ca Huế trên sông Hương của Hà Anh Minh nhằm giới thiệu những sản phẩm văn hố truyền thống của dân tộc. Bài văn viết về một sản phẩm văn hố nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông Hương. Đây không phải là một truyện ngắn, một sáng tác có tính hư cấu mà chỉ là một bút kí, ghi chép một nét sinh hoạt văn hóa: Ca Huế trên sông Hương. Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những vẻ đẹp của cảnh và người xứ Huế; giới thiệu những hiểu biết của tác giả về nuồn gốc, về sự phong phú của cac làn điệu dân ca Huế. Bài văn vừa tả cảnh ca Huế trong một đêm trăng trên dòng sông Hương thơ mộng, vừa giới thiệu những làn điệu dân ca Huế, vì thế không thể chia bố cục một cách rõ ràng. Tuy vậy GV có thể tập trung khai thác mấy nội dung cơ bản sau: - Vẻ đẹp phong phú, đa dạng của các làn điệu dân ca Huế ( thể hiện qua tên gọi các làn điệu, qua nhạc cụ và cách chơi) - Vẻ đẹp của cảnh ca Huế trong đêm trăng thơ mộng trên dòng sông Hương. - Nguồn gốc của một số làn điệu ca Huế. Có thể do nội dung và tính chất của bài viết mà tác giả nhắc tới rất nhiều tên các làn điệu ca Huế, nhạc cụ và các “ngón đàn” của ca công. Khi học, GV không nên bắt các em phải nhớ, phải hiểu hết các chú thích. Nên chốt lại vấn đề bằng việc khái quát: Ca Huế đa dạng và phong phú đến nỗi chúng ta khó mà nhớ hết được tên các làn điệu, tên các nhạc cụ và các ngón đàn của ca công. Bài học này nằm gần với phần chương trình Ngữ văn địa phương(tuần 29) và hoạt động Ngữ văn (tuần 31) vì thế GV cần liên hệ nội dung bài học này với các nội dung sẽ học trong các tuần đó. Ví dụ: - Từ bài văn đề nghị các em liên hệ với các làn điệu dân ca nói riêng và các sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung của quê hương mình. - Thử sưu tầm và giới thiệu một băng, đĩa nhạc có ca Huế, hoặc các bài hát hiện đại phỏng theo những điệu ca Huế. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 11 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  - Thử tập hát một vài làn điệu ca Huế hoặc giới thiệu một làn điệu dân ca của quê hương mình. - Viết bài tập tìm hiểu về các vùng dân ca nổi tiếng của dân tộc như: dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca Nam bộ, dân ca Liên khu Năm,… 3 / Những lưu ý về phương pháp (phương pháp chủ động) khi dạy văn bản nhật dụng: Tinh thần chung của PPDH mới là: Tôn trọng HS, tránh áp đặt, linh hoạt, chủ động và sáng tạo. HS tự mình tiếp xúc vơíù các văn bản, tự mình suy nghĩ khám phá cái hay, cái độc đáo của tác phẩm dưới sự hướng dẫn của thầy. Do đó GV cần lưu ý: 3.1/ Xác định mục tiêu dạy học Đối với tác phẩm văn chương, hoạt động đọc- hiểu là việc đọc nghiền ngẫm, phân tích, cảm thụ những vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ, để từ đó hiểu được những khái quát về đời sống tác giả. Nghĩa là người đọc tự mình khám phá và rung động về ý nghĩa đời sống và giá trị thẫm mĩ của tác phẩm. Đó chính là mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nghệ thuật. Còn đối với văn bản nhật dụng thì mục tiêu kiến thức của bài học sẽ nhấn vào nội dung tư tưởng của văn bản, tức là nắm bắt vấn đề xã hội gần gũi, bức thiết, mang tính thời sự hơn là đi sâu vào khám phá giá trị hình thức của văn bản.Như vậy việc xác định mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nhật dụng phải bắt đầu từ sự rõ ràng trong việc phân loại văn bản. 3.2/ GV cần biết cách đặt những câu hỏi mở, khuyến khích HS suy nghĩ, nghe HS trả lời một cách tin cậy và thân ái. Cần huy động mọi HS ở các trình độ khác nhau tham gia vào việc trả lời câu hỏi và đóng góp ý kiến. Ví dụ: Khi dạy văn bản Cổng trường mở ra, GV đặt câu hỏi “ Kết thúc bài văn bà mẹ nói: “ Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Em đã trải qua thời lớp Một, bây giờ em hiểu thế giới kì diệu đó là những gì? Đây là câu hỏi mở, nhằm làm nổi bật lên vai trò và vị trí của nhà trường đối với cuộc đời mỗi con người. HS có thể trả lời theo cách riêng của mình. GV chỉ nên định hướng, gợi mở một vài điểm thật cần thiết như : Nhà trường đã mang lại cho em những gì về tri thức, về tình cảm, tư tưởng, đạo lí, về tình bạn, tình thầy trò,…? Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 12 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  3.2/ Sử dụng không gian nhà trường, lớp học, dụng cụ học tập như bảng phụ một cách sáng tạo để tổ chức cho HS thảo luận cũng như tiến hành các hoạt động khác theo nhóm. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Mẹ tôi”, GV đặt câu hỏi: Theo em, tại sao người bố không nói trực tiếp với En-ri-cô mà lại viết thư? Câu hỏi này đòi hỏi HS phải suy luận nhiều. Có thể có nhiều cách trả lời khác nhau nên các em cần bàn bạc và thống nhất ý kiến trong nhóm. Mỗi nhóm lại có thể có mỗi cách suy luận khác nhau, miễn là hợp lí. Tổng hợp ý của các nhóm sẽ là: Tình cảm sâu sắc thường tế nhị và kín đáo nhiều khi không nói trực tiếp được. Hơn nữa viết thư là chỉ nói riêng cho người mắc lỗi biết, vừa giữ được sự kín đáo, tế nhị, vừa không làm người mắc lỗi mất đi lòng tự trọng. Đây chính là bài học sâu sắc về cách ứng xử trong cuộc sống gia đình cũng như trong nhà trường và xã hội. 3.3/ Việc lớp học trở nên ồn ào hơn mỗi khi thảo luận cần được hiểu là dấu hiệu của hoạt động học tập tích cực chứ không có nghĩa là kỉ luật lớp học lỏng lẻo. Tránh kiểu “ im lặng nhà thờ”. 3.4/ Lên kế hoạch và chuẩn bị bài giảng sao cho có thể kết hợp các kiến thức của bài học với các ví dụ tương ứng, sử dụng những kiến thức liên quan đến tình hình địa phương nơi trường đang đóng cũng như liên hệ với thực tế cuộc sống hiện nay một cách linh hoạt có tác dụng giúp HS tự rút ra bài học cho bản thân. 3.5/ Lấy SGK làm chuẩn, cung cấp kiến thức không nên qua nặng nề, ôm đồm làm phức tạp hóa các vấn đề vốn đơn giản. Biết mười để dạy một là một tư tưởng đúng, nhất là dạy đúng cái “một” đó. Không nên biết mười rồi giới thiệu luôn cả mười, có gì thì các thầy cô đều muốn nói hết cho HS. Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên tình trạng “quá tải” không chỉ đối với HS mà cả đối với GV. Hãy để cho HS tự tìm tòi, phát hiện với lượng kiến thức vừa sức của các em. 3.6/ Chú ý tính phân hóa trong HS. Đưa ra các bài tập phải đa dạng, có bài tập mở rộng đối với HS khá và cũng có bài tập đặc biệt dành cho HS yếu kém. Ví dụ: Khi dạy bài Cuộc chia tay của những con búp bê, GV đặt câu hỏi : Lời nói và hành động của Thuỷ khi thấy anh chia hai con búp bê “Vệ Sĩ” và “Em Nhỏ” ra hai bên có gì mâu thuẩn? Theo em có cách nào để giải quyết mâu thuẩn ấy không? Kết thúc truyện Thuỷ đã lựa chọn cách giải quyết như thế nào? Chi tiết này gợi lên trong em những suy nghĩ và tình cảm như thế nào? Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 13 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  Câu hỏi này buộc HS đi sâu vào phân tích một sự việc (hành động) của nhân vật chính, từ đó thấy được nội dung sâu sắc của truyện. Đây là câu hỏi khó, GV có thể gợi ý và yêu cầu những HS khá giỏi trong lớp trình bày. Trước khi chỉ cho các em thấy được vấn đề: - Mâu thuẫn ở chỗ: một mặt Thuỷ rất giận dữ, không muốn chia rẽ hai con búp bê, nhưng mặt khác em lại rất thương Thành, sợ đêm đêm không có con vệ sĩ canh giấc ngủ cho anh, nên em rất bối rối sau khi đã “tru tréo lên giận dữ’. - Đưa ra tình huống này, nhằm gợi lên ở các em một suy nghĩ: Muốn giải quyết mâu thuẫn này, chỉ có cách gia đình Thuỷ và Thành phải đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay. - Cuối truyện, Thuỷ lựa chọn cách để lại con Em Nhỏ gợi lên trong lòng người đọc lòng thương cảm đối với Thuỷ, thương cảm một em gái giàu lòng vị tha, thương anh, thương cả những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, mình đành chịu thiệt thòi để anh luôn có con vệ sĩ gác cho ngủ đêm đêm. Chi tiết này cũng khiến người đọc thấy sự chia tay của hai con Em Nhỏ và Vệ Sĩ là rất vô lí, là không nên có. 3.7/ Cần tôn trọng những nhận xét, đánh giá của HS phần nào đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận rằng ý kiến của chúng ta không phải khi nào cũng đúng. Người GV khi dạy kiểu bài này chủ yếu là nêu vấn đề, gợi mở vấn đề để HS tìm tòi. Không áp đặt kết quả có sẵn và vì thế kết quả phân tích, hiểu và cảm thụ của HS có thể không trùng và không nhất thiết phải đúng với những gì thầy cô hiểu và cảm nhận về tác phẩm đó. Một ví dụ: Khi giảng văn bản này ở lớp 7A7, tôi đã nghĩ là chỉ rút ra bài học: Người lớn và xã hội hãy chăm lo và bảo vệ hạnh phúc của trẻ em. không thể để trẻ em rơi vào tình cảnh bất hạnh. Trong khi chính các em rút ra rất nhiều bài học tự nhiên, cảm động, không kém phần sâu sắc: - Anh em phải thương yêu nhau. - Cha mẹ không nên li hôn. - Không được chia rẽ tình cảm anh em, phải để cho anh em ruột thịt được sống bên nhau dù bất cứ lí do gì. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 14 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  - Người lớn phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của trẻ con trước khi quyết định li hôn. - Không được bắt trẻ em nghỉ học. Từ một câu chuyện cảm động đã gợi lên trong các em rất nhiều các suy nghĩ đáng được trân trọng. Chẳng lẽ chúng ta buộc các em chỉ được rút ra bài học mà cô đã ghi trên bảng. III. BÀI SOẠN MẪU: TIẾT 113- Văn bản: CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG A/ Mục tiêu cần đạt: Giúp hs 1. Kiến thức: Hiểu về ý nghĩa văn hoá, xã hội của ca Huế. Từ đó có thái độ và hành động tích cực góp phần bảo tồn, phát triển di sản văn hoá dân tộc đặc sắc và độc đáo này. - Khái niệm thể loại bút kí. Giá trị văn hoá, nghệ thuật của ca Huế. Vẻ đẹp của con người xứ Huế. 2. Kĩ năng: Đọc- hiểu văn bản nhật dụng viết về di sản văn hoá dân tộc, phân tích văn bản nhật dụng theo thể loại thuyết minh. Tích hợp: Kiến thức tập làm văn để viết bài thuyết minh. 3. Thái độ: Yêu quý, trân trọng tự hào về nét đẹp của xứ Huế, gợi lòng yêu quê hương đất nước. Yêu quý, trân trọng, tự hào về nét đẹp của xứ Huế. - Có ý thức gìn giữ di sản văn hoá dân tộc B/ Chuẩn bị: GV: SGK+ SGV+ Bài soạn, tranh ảnh+ máy chiếu( Ti vi kết nối máy tính) HS: Đọc, soạn bài theo hệ thống câu hỏi C/ Tiến trình lên lớp: 1. Ổn định lớp: Nề nếp+ sĩ số 2. Bài cũ: ?Qua truyện ngắn “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” em hiểu gì về hai nhân vật này? Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 15 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  - Va-ren: kẻ phản bội, tên chính khách làm trò chính trị, kẻ ruồng bỏ giai cấp, tên lừa dối trắng trợn, trơ tráo và vô liêm sĩ. - Phan Bội Châu: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xã thân được tôn sùng, con người đáng tôn kính, ngưỡng mộ. 3. Bài mới: * HOẠT ĐỘNG I: GV giới thiệu bài Ỏ lớp 6, các em đã được học một số văn bản nhật dụng với nhiều đề tài khác nhau. Nếu Động Phong Nha là một danh lam thắng cảnh, Cầu Long Biên là một di tích lịch sử thì ca Huế trên sông Hương lại giúp chúng ta hình dung một cách cụ thể một sinh hoạt văn hoá rất đặc trưng, nổi bật ở xứ Huế mộng mơ. Hôm nay chúng ta sẽ hiểu thêm vẻ đẹp của Huế qua một đên ca Huế trên sông Hương. * HOẠT ĐỘNG II: Nội dung bài học HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY- TRÒ NỘI DUNG * Hướng dẫn tìm hiểu chung I. Tìm hiểu chung GV: Gọi HS đọc chú thích * SGK 1. Tác giả- tác phẩm ? Văn bản do ai sáng tác. 2. Đọc- từ khó:(SGK) GV: Hướng dẫn hs đọc(Chậm rãi, rõ ràng, mạch lạc, lưu ý những câu đặc biệt) GV đọc mẫu một đoạn, gọi hs đọc tiếp sau đó sữa chữa, uốn nắn những chổ đọc sai, chưa chuẩn. HS đọc ? Em biết gì về cố đô Huế? Hãy nêu một vài đặc điểm tiêu biểu của xứ Huế mà em biết? Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 16 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  (Về vị trí địa lí: Huế thuộc miền trung Việt Nam, phía nam giáo Đà Nẵng, phía bắc giáp Quảng Trị. Về đặc điểm lịch sử: Huế (Phú Xuân)từng là kinh đô của nhà Nguyễn hơn trăm năm(1802- 1945) - Về danh lam thắng cảnh: Thiên nhiên có sông Hương, núi Ngự, có nhiều di tích lịch sử: thành nội, lăng tẩm của các triều vua nhà Nguyễn, đền đài, chùa chiền, trong đó có chùa Thiên Mụ nổi tiếng. Về sản phẩm vật chất và sản phẩm văn hoá- tinh thần: Nhiều món ăn, nhiều thứ bánh kẹo mang màu sắc Huế như mè xửng, kẹo cau... ó nón bài thơ, có nhiều điệu hò, làn điệu dân ca nổi tiếng. Nhắc đến Huế người ta thường nhắc đến sông Hương núi Ngự, đến chùa Thiên mụ, đến phú Văn Lâu và các điệu hò, ca Huế thể hiệ rõ nét tâm hồn của con người xứ Huế.) ? Dựa vào mục chú thích * nêu những hiểu biết về ca Huế? (Là một hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống của cố đô Huế. Người nghe và người hát cùng ngồi thuyền đi trên sông Hương một trong những di sản văn hoá đáng tự hào của người dân xứ Huế.) II/ Đọc- hiểu văn bản: ? Bài văn thuộc kiểu văn bản nào? 1/ Đọc-Tìm hiểu chung + Thể loại: Bút kí + Nhóm văn bản: Nhật dụng( Ca Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 17 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  ? Em hiểu bút kí là gì? Huế là một trong những di sản ? Nội dung của văn bản nhật dụng là những vấn đề văn hoá đáng tự hào của người thời sự, gần gũi đang diễn ra trong cuộc sống hôm dân xứ Huế. Cần được giữ gìn và nay. Vậy đâu là là nội dung của văn bản nhật dụng phát huy). này? (Phản ánh một nét đẹp của văn hoá truyền thống cố đô Huế, đó là ca Huế trên sông Hương) GV: Đây không phải là một truyện ngắn một sáng tác có tính hư cấu mà chỉ là một bút kí ghi chép lại một sinh hoạt văn hoá: Dân ca Huế trên sông Hương. + Phương thức biểu đạt: miêu tả, Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những vẻ đẹp biểu cảm. của ca cảnh Huế, giới thiệu những hiểu biết của tác giả về nguồn gốc, sự phong phú của các làn điệu dân +Bố cục: 2 phần ca Huế. P1: Từ đầu-> lí Hoài Nam: ? Văn bản có thể chia làm mấy phần? Nêu nội dung Giới thiệu một số điệu dân ca của từng phần? Huế HS: trả lời P2: Còn lại: Tả một đêm GV: Đây là văn bản nhật dụng kết hợp nhiều phương trăng nghe đàn trên sông Hương. thức như: Nghị luận, miêu tả, biểu cảm P1: Dùng phương thức nghị luận, chứng minh P2: kết hợp miêu tả với biểu cảm * Hướng dẫn tìm hiểu chi tiết HS theo dõi đoạn đầu ?Hãy thống kê các điệu ca Huế và đặc điểm của nó? HS dựa vào bài trả lời 2/ Tìm hiểu văn bản: a. Nghệ thuật ca Huế: * Các làn điệu ca Huế và đặc điểm của nó: - Chèo cạn, bài thai, hò đưa linh....(buồn bã) ? Quá trình miêu tả, tác giả sử dụng biện pháp nghệ - Hò giã gạo, ru em, giã vôi..., thuật gì điệp, bài chòi,...(náo nức, nồng hậu, tình người) HS: Liệt kê(GV tích hợp) ? Trong bài tác giả có nhắc đến những nhạc cụ nào? HS trả lời - Hò lơ, hò ô, xay lúa,...(gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh) - Nam ai, nam bình, tương tư Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 18 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  GV cho hs xem tranh về các nhạc cụ khúc...(buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn) - Tứ đại cảnh: không vui, không buồn * Một số nhạc cụ: - Đàn tì bà, đàn tranh, đàn nhị, đàn bầu, sáo, đàn thập lục, cập sanh, đàn nguyệt Đàn tì bà đàn bầu đàn tranh sáo đàn nhị đàn thập lục * Các bản đàn Cặp sanh đàn nguyệt - Lưu thuỷ, kim tiền, xuân phong, ? Trong văn bản có những bản đàn nào được nhắc long hổ, tứ đại cảnh. đến? HS trả lời – GV chốt ý b/ Những đặc sắc của ca Huế. GV yêu cầu hs đọc từ: Không gian yên tĩnh-> hồn * Nghệ thuật biễu diễn người. - Sử dụng động từ miêu tả động tác liệt kê, diễn tả sự điêu luyện trong nghệ thuật biễu diễn của các nhạc công. - Nghệ thuật ca Huế phong phú, đa dạng, điêu luyện, tài tình. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 19 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp  Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7  * Cách thưởng thức ca Huế ? Tìm những từ ngữ miêu tả nghệ thuật sử dụng nhạc cụ của các nhạc công? -> Nhân, mổ, vổ, vả, bấm, day, chớp, búng, phi, rãi. ? Phép nghệ thuật nào được sử dụng ở đây? -> Liệt kê - Không gian: ? Qua đoạn trích em có nhận xét gì về nghệ thuật biểu - Thời gian: diễn của họ? -> Cảnh thơ mộng, yên tĩnh, êm * HS quan sát tranh và cho biết bức tranh minh hoạ đềm cho nội dung nào? -> Con người háo hức, nồng hậu, ? Chi tiết nào miêu tả cảnh đêm trăng nghe ca Huế duyên dáng, lịch sự. trên sông Hương? => Trong không gian huyền ảo, thơ mộng cách thưởng thức ca Huế vừa dân dã, vừa sang trọng * Thảo luận nhóm bàn giữa một thiên nhiên đẹp và lòng ? Khung cảnh và sân khấu của buổi ca Huế hiện lên người trong sáng. độc đáo như thế nào về thời gian, không gian? Đêm thành phố-> hồn người - Thời gian: Đêm khi thành phố lên đèn như sao sa. Trăng lên, đến khi gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh - Không gian: Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu... màn sương dày dần lên... thơ mộng. GV: cho hs xem cảnh sân khấu buổi ca Huế. Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Sương 20 - - - - Trường: THCS Buôn Trấp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan