Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Tạo hứng thú học tập qua phương pháp tích hợp liên môn trong giờ đọc hiểu ngữ vă...

Tài liệu Tạo hứng thú học tập qua phương pháp tích hợp liên môn trong giờ đọc hiểu ngữ văn 12

.DOCX
60
12
137

Mô tả:

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN. 1. LỜI GIỚI THIỆU Từ năm 2002, chương trình trung học phổ thông môn Ngữ văn, Bộ Giáo dục đã hướng dẫn: Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ môn học từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu trong quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong sách giáo khoa; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và trong quá trình học tập của học sinh. Nội dung tích hợp liên môn cũng nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Năm học mới 2014-2015, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục khuyến khích giáo viên dạy học theo hướng “tích hợp liên môn”. Hiện nay, do sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển nhanh của khoa học, một mặt xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển. Vì thế học sinh có điều kện để tìm hiểu tường tận để thỏa mãn hứng thú và nguyện vọng của mình thông qua mạng internet, sách tham khảo, học thêm, các lớp đào tạo kỹ năng sống, các lớp hướng nghiệp….Do đó đòi hỏi ở người thầy phải có tầm hiểu biết rộng, người thầy phải thường xuyên theo dõi những xu hướng, những định hướng của môn mình phụ trách. Đồng thời phải tự học, tự bồi dưỡng để cung cấp cho học sinh những kiến thức chuẩn xác và liên hệ được nhiều kiến thức cũ và mới, giữa bộ môn khoa học này với bộ môn khoa học khác. Dạy học liên môn trong môn Ngữ văn học là giúp người học nhận thức được tác phẩm văn học trong môi trường văn hóa - lịch sử sản sinh ra nó hay trong môi trường diễn xướng của nó; thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và lịch sử phát sinh; văn học với các hình thái ý thức xã hội khác đồng thời khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức văn hóa của học sinh. Thực tế cho thấy, những khác biệt về kinh nghiệm sống, văn hóa, giáo dục, cách dùng ngôn ngữ, thể loại… khiến cho tầm đón nhận của học sinh so với tầm đón nhận tác phẩm yêu cầu có độ vênh khá lớn. 1 Học sinh không hiểu do đó không thể yêu thích những tác phẩm văn học dù các em vẫn biết đó là những tác phẩm đỉnh cao của văn học dân tộc.Vì vậy, việc đưa học sinh về môi trường văn hóa của thời đại, kéo tầm đón nhận của các em về trùng khít với yêu cầu tầm đón nhận của tác phẩm là việc cần thiết cả về mặt khoa học lẫn giáo dục. Vì thế, trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu từ các lĩnh vực khác có vai trò quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ tài liệu tham khảo giúp người học xây dựng được tầm“đón nhận phù hợp với văn bản” Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu liên môn còn giúp người học có thêm cơ sở để hiểu rõ quy luật phát triển của văn học, hình thành củng cố nhiều phương pháp nghiên cứu văn học. Tài liệu tham khảo về lịch sử văn hóa là phương tiện có hiệu quả để giúp giáo viên làm rõ nội dung sách giáo khoa kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông, tôi luôn trăn trở với câu hỏi: Phải làm thế nào để học sinh phải hiểu rõ ràng, cụ thể những giá trị nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của một tác phẩm văn học? Phải tích hợp như thế nào cho phù hợp, để học sinh vừa có hứng thú với bài học vừa phải hiểu được tư tưởng nội dung vừa phải nắm được những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm văn học? Tôi đã thử nhiều giải pháp, mỗi giải pháp đem lại thành công nhất định. Vì thế qua mỗi lần thử nghiệm, tôi đã tự điều chỉnh và tự hoàn thiện dần phương pháp dạy học. Tôi nhận thấy sử dụng phương pháp tích hợp kiến thức của các môn mà học sinh đã và đang được học như môn Lịch sử, môn Giáo dục công dân, phân môn Làm văn, Tiếng Việt… vào trong bài giảng đã đạt hiệu quả nhất định. Xuất phát từ những lý do trên, tôi xin đưa ra một số Phương pháp tích hợp liên môn trong giờ đọc hiểu Ngữ văn. 2. TÊN SÁNG KIẾN: Tạo hứng thú học tập qua phương pháp tích hợp liên môn trong giờ đọc hiểu Ngữ văn 12 3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Họ và tên: Nguyễn Hằng Nga Địa chỉ tác giả sáng kiến: GV Trường THPT Tam Dương 2 Số điện thoại: 0367124737 2 4. - E_mail: [email protected] CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN Tác giả cùng với sự hỗ trợ của Trường THPT Tam Dương 2 về kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật trong quá trình viết sáng kiến và dạy thực nghiệm sáng kiến. 5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Sáng kiến được áp dụng cho việc đọc - hiểu các văn bản văn học trong nhà trường và ngoài xã hội. Việc áp dụng tích hợp liên môn trong các giờ đọc hiểu tác phẩm văn học nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh, đồng thời cải tạo thực trạng để nâng cao chất lượng dạy và học, giúp người học có năng lực vận dụng kiến thức liên môn trong việc giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống. 6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU Sáng kiến này chính thức được áp dụng lần đầu vào 10/9/2017. 7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 7.1 NỘI DUNG SÁNG KIẾN 3 PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Khái niệm tích hợp và tích hợp liên môn a. Khái niệm tích hợp Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Trong Chương trình Trunghọc phổ thông, môn Ngữ văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.” Trên thế giới, tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại, nó góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính những hoạt động tích hợp, trong đó học sinh học cách sử dụng phối hợp kiến thức, kỹ năng; có khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của trình vào giải quyết các tình huống cụ thể. Những năm gần đây, nhiều phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường Trunghọc phổ thông như: dạy học tích cực, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp tạo ô chữ, phương pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học…Tất cả đêu nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh và phát triển tư duy sáng tạo chủ động cho học sinh. 4 Như vậy dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... b. Khái niệm tích hợp liên môn. Tích hợp liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan. Tích hợp liên môn trong dạy học các môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng thực sự là phương pháp hữu hiệu, tạo ra môi trường giáo dục mang tính phát huy tối đa năng lực tri thức của học sinh đêm đến hứng thú mới cho việc dạy học ở trường phổ thông. c. Sự khác nhau giữa chủ đề "đơn môn" và chủ đề "liên môn"? Chủ đề đơn môn đề cập đến kiến thức thuộc về một môn học nào đó còn chủ đề liên môn đề cập đến kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thì không có gì khác biệt. Đối với một chủ đề, dù đơn môn hay liên môn, thì vẫn phải chú trọng việc ứng dụng kiến thức của chủ đề ấy, bao gồm ứng dụng vào thực tiễn cũng như ứng dụng trong các môn học khác. Do vậy, về mặt phương pháp dạy học thì không có phân biệt giữa dạy học một chủ đề đơn môn hay dạy học một chủ đề liên môn, tích hợp. Điều quan trọng là dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, mà các hoạt động ấy phải được tổ chức ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường, ở nhà và cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. d. Ưu điểm của dạy học tích hợp liên môn. - Ưu điểm với học sinh 5 + Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. + Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. Ưu điểm với giáo viên: Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do: + Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó; + Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. 2. Quan điểm vận dụng tích hợp và tích hợp liên môn vào dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông. - Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả 6 tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn. Việc dạy học tích hợp liên môn trong môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc nội bộ phân môn Tích hợp kiến thức Địa lý, Lịch sử, Giáo dục công dân, Tiếng Việt, Làm văn, kĩ năng sống… trong giờ đọc hiểu văn bản thực sự đã khơi dậy cho học sinh niềm đam mê, ham hiểu biết đối với tác phẩm văn học. 7 PHẦN II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ - Thực trạng của việc dạy và học môn Ngữ văn trong trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung bài học chưa thực sự hứng thú đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời rạc, hời hợt về kiến thức Ngữ văn, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thực thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, kiến thức liên môn. - Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và trong dạy học môn Ngữ văn nói riêng. Đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp liên môn giúp cho học sinh nhận thức được sự phát triển của xã hội một cách liên tục thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn, rời rạc trong kiến thức. - Dạy học tích hợp liên môn trong môn Ngữ văn sẽ liên kết được những kiến thức giao thoa với môn Ngữ văn như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, rèn luyện kĩ năng sống, giáo dục ý thức gìn giữ và bảo vệ di sản văn hóa của địa phương…. Để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng vào đời sống và ngược lại từ đời sống đề giải quyết các vấn đề liên quan đến Văn học. - Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học ta thấy rằng trong một thời gian dài, người thầy được trang bị phương pháp để truyền thụ tri thức cho học sinh theo quan hệ một chiều. Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận. Ở một phương diện nào đó khi sử dụng phương pháp này thì học sinh- một chủ thể của giờ dạy đã bị bỏ rơi, giáo viên là người sốt sắng và nỗ lực đi tìm chiếc chìa khóa để mở cửa cái kho đựng kiến thức là cái đầu của học sinh, và người thầy đem bất kì một điều tốt đẹp của khoa học để chất đầy cái kho theo phạm vi và khả năng của mình. Còn người học sinh là kẻ thụ động, ngoan ngoãn, cố gắng và thiếu tính độc lập. Ngoan ngoãn, thụ động nhớ được nhiều điều thầy đã truyền đạt. Để có được vị trí số một trong lớp, người học sinh phải có được không phải một tính ham hiểu biết khôn cùng của một trí tuệ sắc sảo, mà phải là một người có trí nhớ tốt, thật cố gắng để đạt được điểm số cao nhất trong các môn học. Ngoài ra phải chăm lo sao cho quan điểm của chính mình phải phù hợp với quan điểm của các thầy cô giáo nữa. - Trong phương pháp dạy học truyền thống chú ý đến người giáo viên và ít quan tâm đến học sinh. Học sinh như cái lọ mà người thầy phải nhét đầy lọ này như thế nào? Tính thụ động của học sinh được bộc lộ rõ ràng. Học sinh chỉ 8 cần nhớ những tri thức ở trạng thái đã hoàn thành. Trong phương pháp dạy học cũ, tính thụ động biểu hiện ở hình ảnh người giáo viên đứng riêng biệt trên bục cao trong lớp và cung cấp những cái mẫu, còn ở dười là những em học sinh ngồi thành hàng trên ghế cùng làm một việc giống nhau là sao lại cái mẫu mà thầy đang cung cấp. Nếu quan niệm nghệ thuật dạy học là nghệ thuật thức tỉnh tâm hồn các em thanh thiếu niên tính ham hiểu biết, dạy các em biết suy nghĩ và hành động tính cực. Mà tính ham hiểu biết đúng đắn và sinh động chỉ có trong đầu óc thật sảng khoái. Nếu nhồi nhét kiến thức một cách cưỡng bức thì hiệu quả giáo dục khó có thể như mong muốn, bởi để tiêu hóa được kiến thức thì phải “thưởng thức chung” một cách ngon lành. Để học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập thì tất yếu phải đổi mới phương pháp giảng dạy, mà dạy học theo hướng tích hợp liên môn là một phương pháp tiêu biểu nhằm tạo ra hứng thú cho giờ học nhất là giờ học môn Ngữ văn. Bảng điều tra mức độ hứng thú học tập của học sinh về môn Ngữ văn so với các môn khoa học tự nhiên ở lớp 12A2, 12A5 năm học 2015-2016 khi giáo viên chưa dạy tích hợp liên môn. Lớp 12A2 12A5 Bảng chất lượng bài kiểm tra 15 phút khi chưa sử dụng phương pháp tích hợp liên môn S ĩ Lớp s ố 12A 3 2 12A 7 3 5 8 9 Khi được hỏi tại sao các em không húng thú học tập và kết quả kiểm tra nội dung kiến thức không cao, thì câu trả lời chủ yếu tập trung vào các lý do sau: Do nội dung bài học môn Ngữ văn dài dòng, không muốn học thuộc lòng Không có hứng thú học Do chưa thấy được giá tri tư tưởng thực sự của tác phẩm; Do học sinh ít quan tâm đến nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử; Do phương pháp giảng dạy của giáo viên. Như vậy, trong số các nguyên nhân khiến cho học sinh không hứng thú học và kết quả kiểm tra thấp có liên quan đến giáo viên, đó chính là phương pháp giảng dạy. Nếu không thay đổi phương pháp dạy học, học sinh sẽ cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt, không hiểu được giá trị và ý nghĩa to lớn của các tác phẩm văn học. PHẦN III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 10 1. Điều kiện để thực hiện. a. Chuẩn bị của Giáo viên. Xác định đúng nội dung kiến thức nào trong bài cần tích hợp, tích hợp với kiến thức thuộc môn học hay lĩnh vực nào, tích hợp ở mức độ nào; chọn hình thức tích hợp: giáo viên diễn giảng bằng lời, cung cấp trên giáo cụ trực quan hay đưa ra nhiệm vụ học sinh thu thập, tìm hiểu ở nhà trước hoặc sau bài học; Xây dựng thiết kế bài giảng: phải bám sát kiến thức bài học, mục tiêu thời lượng dành cho mỗi đơn vị kiến thức trong bài học để đưa ra phương pháp và cách tổ chức dạy học phù hợp; cần đa dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo để phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh; dự kiến được các tình huống phát sinh trước hoạt động tích hợp liên môn; Chuẩn bị phương tiện dạy học sách giáo khoa, sách giáo viên, bài soạn, phiếu học tập, hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá và các tiêu chí kiểm tra, đánh giá xếp loại học sinh; -Chuẩn bị điều kiện học tập của học sinh. b. Chuẩn bị của học sinh: -Ôn tập bài cũ, chuẩn bị bài mới; - Chuẩn bị thái độ, tâm thế. 2. Tích hợp kiến thức các môn học Với định hướng dạy học tích hợp, theo tôi giáo viên cần dựa vào chuẩn kiến thức, kỹ năng và định hướng phát triển năng lực của học của học sinh để lựa chọn kiến thức tích hợp một cách phù hợp. Tránh tích hợp tùy tiện, vụn vặt, khiên cưỡng, lan man xa chủ đề mượn cái này để nói cái kia… Đối với môn Ngữ văn, theo kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân, tôi đề xuất một số hướng tích hợp sau: a. Tích hợp Ngữ văn – Lịch sử: Quan niệm “Văn Sử bất phân” không phải là thiếu căn cứ. Một tác phẩm văn học bao giờ cũng ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và để hiểu được tác phẩm một cách sâu sắc và cặn kẽ rất cần thiết huy động những kiến thức lịch sử có liên quan. Giáo viên cần tìm hiểu những kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa lịch sử hay tài liệu tham khảo môn Lịch sử để có những kiến thức chính xác, chặt chẽ. Sử dụng phương pháp này, học sinh sẽ tiếp cận kiến thức Văn học qua tư liệu lịch sử, đặt tác giả, tác phẩm vào môi trường ra đời của nó để học sinh đánh 11 giá được những đóng góp cũng như hạn chế của tác giả về nội dung tư tưởng hay nghệ thuật thể hiện. Trong các bài học ở sách giáo khoa, các nhà biên soạn đã có phần tiểu dẫn trình bày về tác giả hoàn cảnh ra đời tác phẩm để giáo viên khai thác tuy nhiên vẫn cần có sự tham khảo thêm sử liệu để làm rõ yếu tố thời đại. Ví dụ: Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời bản Tuyên ngôn độc lập. Giáo viên cần gợi dẫn Ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Người soạn thảo bản “Tuyên ngôn độc lập” tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang. Ngày 02/09/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”. Lúc này cũng là thời điểm bọn đế quốc, thực dân nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật, đang âm mưu chiếm lại nước ta. Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương phải thuộc quyền của Pháp. b. Tích hợp Ngữ văn – Địa lý: Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các địa danh để lý giải rõ một số chi tiết hình ảnh nghệ thuật trong tác phẩm là hướng đi có hiệu quả. Với những hiểu biết về điều kiện tự nhiên, khí hậu địa hình của một khu vực đóng vai trò vô cùng quan trọng để học sinh hiểu thêm không gian nghệ thuật trong tác phẩm. Hay khi dạy văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Hoàng Phủ Ngọc Tường … thì kiến thức địa lí về sông Hương sẽ giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách hào hứng và toàn diện hơn. c. Tích hợp Ngữ văn với các ngành nghệ thuật khác Hội họa, kiến trúc, sân khấu, điêu khắc, ca nhạc, phim ảnh…là kết quả sáng tạo của xã hội loài người. Một hình ảnh nghệ thuật giúp người học sử dụng trí tưởng tượng của mình tập trung vào những điểm quan trọng. Giáo viên bổ sung hình ảnh tư liệu thuộc các lĩnh vực nói trên vào bài giảng để học sinh có vốn văn hóa rộng khi tiếp nhận. 12 Bản thân văn học có mối quan hệ mật thiết với các loại hình nghệ thuật khác. Học sinh tiếp nhận kiến thức văn học qua tranh ảnh đồ dùng trực quan kết hợp với bài viết sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn. Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần nghiên cứu kỹ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu trong bài học tư liệu thuyết minh hình ảnh. Ngày nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, giáo viên trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì học sinh được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn. Ví dụ 1: Khi dạy phần mở đầu văn bản “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm giáo viên trình chiếu học sinh xem một số phong tục tập quán, cảnh sắc thiên nhiên, đất nước con người Việt Nam; nghe khúc ngâm về bài đất nước…. d. Tích hợp Ngữ văn – Giáo dục công dân: Với đặc trưng môn học, môn Ngữ văn có rất nhiều lợi thế trong việc giáo dục cho học sinh những phẩm chất cao đẹp như tình yêu tổ quốc, quê hương, gia đình; tấm lòng nhân đạo yêu thương con người, đức hy sinh, lòng dũng cảm; lý tưởng sống cao đẹp nhân văn… Giáo dục qua môn văn là giáo dục bằng hình tượng nghệ thuật nên không gò bó, khô khan mà mềm mại, tự nhiên và thấm thía. Hình thức này có thể thực hiện trong hầu hết các giờ dạy văn và đem lại hiệu quả rất lớn. e. Tích hợp Ngữ văn – Mỹ thuật: Khi dạy học một tác phẩm văn chương giáo viên có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa một cảnh hay một nhân vật mà học sinh yêu thích, sau đó các em đặt tiêu đề cho bức tranh và nêu lý do vì sao lại chọn nội dung ấy để tái hiện bằng tranh vẽ. Cũng có thể cho học sinh nhận xét bức tranh trong sách giáo khoa, so sánh với bức tranh của mình… Hình thức này có thể vận dụng khi dạy “Vợ chồng A Phủ”- Tô Hoài. g. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống: Hình thức này có thể vận dụng trong hầu hết các giờ đọc văn như giáo dục về khát vọng ước mơ, niềm tin, khát vọng sống của con người trong “Vợ nhặt” Kim Lân; 3. Cách tích hợp liên môn trong giờ đọc hiểu Ngữ văn. a. Tích hợp ở đâu? 13 *. Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ: *Ví dụ 1: Khi dạy phần mở đầu văn bản “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm giáo viên trình chiếu học sinh xem một số phong tục tập quán, cảnh sắc thiên nhiên, đất nước con người Việt Nam; nghe khúc ngâm về bài đất nước…. hông qua việc giới thiệu bài mới *. Tích hợp thông qua câu hỏi tìm hiểu bài. Trong hoạt động dạy học Ngữ văn, hình thức hỏi – đáp đóng vai trò hết sức quan trọng, thể hiện tính tích cực, chủ động của người học cũng như vai trò chủ động của giáo viên. Hình thức này được thực hiện trong hầu hết các bước, các hoạt động dạy – học. Nếu giáo viên biết lồng ghép tích hợp thông qua hệ thống câu hỏi này thì hình thức tích hợp sẽ rất phong phú: Văn – Văn; Văn – Tiếng Việt; Văn – Tập làm văn, thì hiệu quả tích hợp sẽ được nâng cao rất nhiều. Ví dụ khi dạy bài “Người lái đò sông Đà” (Ngữ văn 12) có thể cho học sinh đóng vai nhà văn Nguyễn Tuân để trả lời những câu hỏi về tác giả và tác phẩm mà học sinh quan tâm. *. Tích hợp thông qua phương tiện dạy học như bảng phụ tranh ảnh . . . Khi dạy những văn bản có tranh minh họa trong sách giáo khoa Ngữ văn, giáo viên có thể sử dụng kênh hình để tích hợp, giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn. Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Ví dụ: Khi dạy các tác phẩm đã chuyển thể điện ảnh như “Vợ chồng A phủ”, (Ngữ văn 12 có thể cho học sinh xem các bộ phim điện ảnh và sau đó viết bài so sánh giữa tác phẩm văn học và điện ảnh để tăng thêm hiểu biết toàn diện cho học sinh. *. Tích hợp thông qua nội từng phần và tổng kết giờ học. Đây là hình thức tích hợp thông qua lời thuyết giảng của giáo viên, vừa có ý nghĩa khái quát lại vấn đề, vừa có ý nghĩa chuyển tiếp.Giáo viên có thể tích hợp dưới dạng liên hệ, so sánh đối chiếu. Ví dụ khi dạy đến âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình trong Vợ chồng A phủ giáo viên có thể liên hệ đến âm thanh tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá trong Chí Phèo. *. Tích hợp thông qua hệ thống bài tập ( ở lớp cũng như ở nhà ) Đây là điều kiện thuận lợi nhất để giáo viên tiến hành phương pháp tích hợp sau khi học xong một tiết học hoặc học xong một bài học, giúp học sinh nắm chắc kiến thức ấy để tích hợp trong việc rèn luyện kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết . 14 *. Tích hợp thông qua hình thức kiểm tra. Khi xây dựng ma trận đề kiểm tra cần chú ý đến yêu cầu tích hợp để học sinh có thể vận dụng kiến thức của nhiều môn, phân môn để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. - Phần đọc hiểu tích hợp kiến thức Tiếng Việt, Làm văn và Đọc văn. - Phần làm văn tích hợp kiến thức Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân và kiến thức xã hội. Đó cũng chính là xu hướng ra đề kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực mà Bộ đang tiến hành và đã thu được những kết quả ban đầu đáng khích lệ b. Tích hợp như thế nào? b1. Tác phẩm chính luận: * Để giúp học sinh nắm được tác phẩm chính luận, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu những nội dung sau: - Nội dung 1: Tìm hiểu tác giả, xuất xứ , hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm + Tìm hiểu vài nét về tác giả + Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung này, giáo viên cần tìm hiểu những kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa lịch sử hay tài liệu tham khảo môn Lịch sử để có những kiến thức chính xác, chặt chẽ. Trong các bài học ở sách giáo khoa, các nhà biên soạn đã có phần tiểu dẫn trình bày về tác giả hoàn cảnh ra đời tác phẩm để giáo viên khai thác tuy nhiên vẫn cần có sự tham khảo thêm sử liệu để làm rõ yếu tố thời đại. Ví dụ: Khi dạy văn bản“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh, giáo viên có thể chuẩn bị những kiến thức sau: Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm (trong nước và hoàn cảnh thế giới ) - Nội dung 2: Tìm hiểu giá trị nội dung của tác phẩm Để làm được phần này, giáo viên cần chú trọng vào các câu hỏi sau để khai thác và chuẩn bị kiến thức: + Tác phẩm có mấy luận điểm + Luận điểm đó được triển khai bằng các dẫn chứng, lý lẽ nào? Nhận xét cách sử dụng dẫn chứng, lý lẽ của tác giả? + Qua hệ thống tư tưởng luận điểm đó, văn bản hướng tới vấn đề (chủ đề) gì? - Nội dung 3: Tìm hiểu giá trị tư tưởng của tác phẩm 15 Qua nội dung của các phần, của cả văn bản, người đọc cảm nhận được quan điểm lập trường của tác giả về vấn đề chính trị, xã hội. Giáo viên cần có kiến thức về lịch sử để hướng dẫn học sinh đánh giá đúng đắn, khách quan vai trò đóng góp của tác giả vào tư tưởng chính trị trong hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm. Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”, giáo viên phải hướng dẫn học sinh khám phá vẻ đẹp tầm vóc tư tưởng, tâm hồn, tình cảm của người viết được thể hiện qua từng câu chữ. Ngay phần mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai tuyên ngôn nổi tiếng của nước Mĩ và nước Pháp. Từ quyền bình đẳng tự do của con người mà tác giả đã suy ra quyền bình đẳng, tự do của các dân tộc trên thế giới. Đây là cách vận dụng khéo léo và đầy sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ trong lập luận. Đây là một đóng góp riêng của tác giả cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại thế kỉ XX. - Nội dung 4: Tim hiểu giá trị nghệ thuật Giáo viên phải gợi ý căn cứ vào những lý thuyết môn Làm văn, Tiếng Việt để học sinh phát hiện các thao tác lập luận và các biện pháp nghệ thuật để tăng tính truyền cảm, thuyết phục của bài văn chính luận, phần nào hiểu được phong cách chính luận của tác giả. Ví dụ 1: Khi giáo viên dạy bài “Tuyên ngôn Độc lập”, hướng dẫn học sinh tập trung vào đoạn văn sau: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” + Thao tác sử dựng là chứng minh, giải thích với dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, lý lẽ chắc nịch về tình hình của bọn thực dân phong kiến ở nước ta và vị thế của nhân dân ta. + Biện pháp nghệ thuật: sử dụng câu văn ngắn, nhịp ngắn, liệt kê, điệp cú pháp…đã thể hiện không khí bừng bừng, phấn chấn xông lên giành quyền sống, quyền tự do của dân tôc; quá trình nổi dậy của dân tộc ta thật nhanh chóng, biết tận dụng thời cơ, tạo nên sức mạnh to lớn, chiến thắng mọi kẻ thù. Điều đó thể hiện phong cách chính luận ngắn gọn, sắc bén đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh. - Nội dung 5: Tìm hiểu ý nghĩa thời sự 16 Tác phẩm chính luận xuất sắc đồng thời cũng là những áng văn hùng biện có giá trị lâu bền. Vì thế những quan điểm, lập trường của tác giả luôn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội hiện nay. Để gợi mở cho học sinh thấy được điều này, giáo viên cần sử dụng kiến thức của môn Giáo dục công dân để giáo dục tư tưởng, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh hôm nay vì mục đích của văn bản chính luận là hướng người đọc đến nhận thức đúng, hành động đúng. *Ví dụ minh họa Tiết 7,8 TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (Hô Chí Minh) I. Mục tiêu bài học: Giúp học sinh 1. Kiến thức: Thấy được giá trị nhiều mặt và ý nghĩa to lớn của Tuyên Ngôn Độc lập cũng như vẻ đẹp của tư tưởng và tâm hồn tác giả. 2. Kĩ năng: Đọc- hiểu văn bản chính luận theo đặc trưng thể loại. 3. Thái độ: Bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, ý thức về giá trị to lớn của nền độc lập 4. Năng lực: Đọc - hiểu văn bản chính luận, giải quyết vấn đề, thưởng thức văn học và cảm thụ thẩm mỹ II. Chuẩn bị của GV - HS 1. Giáo viên: Sách giáo khoa, sách giáo viên, Sách chuẩn kiến thức kĩ năng, thiết kế bài học… 2. Học sinh: Chủ động tìm hiểu bài học qua các câu hỏi sách giáo khoa và những định hướng của giáo viên ở tiết trước. Nắm vững yêu cầu bài học. III. Phương pháp: - Tổ chức học sinh đọc diễn cảm văn bản - Định hướng học sinh phân tích cắt nghĩa và khái quát bằng đàm thoại, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận, thuyết giảng... - Tích hợp liên môn: Tiếng Việt, Làm văn, kiến thức môn Địa lí, Lịch sử, Giáo dục công dân.. IV. Tiến trình giờ dạy 1. Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ 17 3. Bài mới Hoạt GV và HS Hoạt động động Hướng dẫn HS tìm hiểu chung về tác phẩm -Yêu theo tiểu dẫn trả lời ngắn gọn. cầu dõi ? TNĐL ra đời Mĩ. Quân đội Anh tiến vào trong hoàn cảnh từ phía Nam, đằng sau là nào - GV trình chiếu 1 số hình địa danh hoa ( Quảng trường Ba Đình Ba 18 ? Tác phẩm hướng đến đối tượng ? Tác giả viết nhằm mục đích gì - HS theo dõi SGK trả lời ngắn gọn nhận xét, bổ sung. - GV nhận xét, bổ sung, chốt KT - Thuyết giảng, lấy VD chứng minh để khắc sâu KT cho HS ? Bố cục văn 2. Đối tượng và mục đích viết: Đối tượng Nhân dân ta ND thế giới Các lực địch cơ quốc đang tâm nô đất nước ta, biệt thực Pháp với mùa thu: Mùa thu Cách mạng tháng Tám năm 1945, mùa thu trở về Hà Nội năm 1954; và mùa thu năm 1969, tại Hội trường Ba Đình, Việt Nam và bạn bè quốc tế đã thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ba Đình trở thành đất mảnh đất thiêng cùng những dấu ấn lịch sử không bao giờ phai mờ, cùng những kiến trúc tâm linh hiện hữu: Lăng Bác, Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ. Gv trình chiếu đoạn phim tài liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc TNĐL 19 bản? Mạch lập luận của tác phẩm? - GV hướng dẫn HS tìm hiểu sâu bố cục để chỉ ra mạch lập luận. - HS phát biểu, chỉ ra giá trị của mạch lập luận. đế quốc Mĩ 3. Bố cục : 3 phần (3 luận điểm) - Đoạn 1: Từ đầu đến không ai chối cãi được) Nêu nguyên lí chung của bản TNĐL. - Đoạn 2: Tiếp theo đến ...cộng hòa : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh giành chính quyền, lập nên nước VN Dân Chủ Cộng hoà. - Đoạn 3: đoạn còn lại : Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc VN. → Mạch lập luận lôgic chẽ: cơ sở lập luận đối chiếu vào thực tiễn, rút ra kết luận phù hợp. II. Đọc- hiểu văn bản 1. Phần mở đầu: Nêu nguyên lí chung làm cơ sở pháp lí cho bản TNĐL (Cơ sở lí luận) - Nêu nguyên lí chung (lẽ phải – chân lí): quyền bình đẳng, tự do, sung sướng, hạnh phúc của con người và các dân tộc trên thế giới: Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 bản Hoạt động 2: Hướng dẫn HS 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan