lOMoARcPSD|16911414
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Khoa Văn hóa học
---o0o---
TẬP BÀI GIẢNG
Môn ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA HỌC
TS. Nguyễn Ngọc Thơ
Năm 20…
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
MỤC LỤC
Chương 1: VĂN HÓA
1. Lịch sử văn hóa và văn minh
2. Khái niệm văn hóa
3. Đặc trưng của văn hóa
4. Chức năng của văn hóa
5. Bản sắc văn hóa
6. Cấu trúc văn hóa
7. Loại hình văn hóa
8. Toàn cầu hóa và văn hóa
Chương 2: VĂN HÓA HỌC
1. Tổng quan Văn hóa học
2. Qúa trình hình thành và phát triển văn hóa học ở phương Tây
3. Lý luận Văn hóa học ở Trung Quốc
4. Văn hóa học và Nghiên cứu văn hóa
5. Một số lý thuyết Văn hóa học tiêu biểu
a. Tiến hóa luận cổ điển
b. Tân tiến hóa luận
c. Chức năng luận
d. Chủ nghĩa vật chất văn hóa
e. Cấu trúc luận
f. Lý thuyết chọn lọc văn hóa
g. Chủ nghĩa nữ quyền
h. Chủ nghĩa hậu hiện đại
Bổ sung:
Chủ nghĩa Hậu cấu trúc
Chủ nghĩa Hậu Nhân văn
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
CHƯƠNG I
VĂN HÓA
1. NHẬN DIỆN VĂN HOÁ
GS.VS.TSKH. Trần Ngọc Thêm
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. HCM
Ngày nay, không còn ai nghi ngờ gì về sự tồn tại của văn hóa học như mô ̣t khoa học đô ̣c lâ ̣p. Tuy
nhiên, nền tảng lý luâ ̣n của nó thì vẫn đang trên đường hoàn thiê ̣n.
Nền tảng lý luâ ̣n của văn hóa học có thể được xây dựng từ nhiều hướng, nhưng trong bất kỳ trường
hợp nào thì nó cũng phải giúp giải quyết được những vấn đề rất cụ thể do thực tiễn đă ̣t ra. Trước hết, nó
phải cho phép trả lời ba câu hỏi: Thứ nhất, làm sao để xác định được mô ̣t sự vâ ̣t, hiê ̣n tượng... có thuô ̣c về
văn hóa hay không. Thứ hai, làm sao để xác định được mô ̣t đối tượng có phải là mô ̣t nền văn hóa hay
không. Và thứ ba, làm sao để nhâ ̣n diê ̣n được mô ̣t nghiên cứu có phải là thuô ̣c lĩnh vực văn hóa học hay
không.
Bài viết này nằm trong mô ̣t hướng tiếp câ ̣n xây dựng nền tảng lý luâ ̣n của văn hóa học và giới hạn ở cố
́
gắng trả lời mô ̣t cách ngắn gọn ba câu hỏi vừa nêu.
Để nhâ ̣n diê ̣n mô ̣t đối tượng, không gì tốt hơn là dựa vào định nghĩa của nó. Như vâ ̣y, trước khi đi vào
viê ̣c nhâ ̣n diê ̣n đối tượng, cần phải có định nghĩa đối tượng.
Yêu cầu đă ̣t ra đối với mô ̣t định nghĩa là nó phải chứa đựng được những đă ̣c trưng CẦN và ĐỦ để bao
quát vừa hết phạm vi của đối tượng, không thiếu, không thừa. Đáng tiếc là trong các ngành khoa học xã
hội và nhân văn người ta thường đưa ra định nghĩa mô ̣t cách khá tuỳ hứng, mà không để ý đến yêu cầu
này.
I- Định nghĩa văn hoá
a) Văn hoá như một hệ giá tri
Không thoả mãn với những định nghĩa đã có, trong bản in đầu tiên (lưu hành nô ̣i bô ̣) của cuốn Cơ sở
văn hóa Việt Nam do Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội ấn hành năm 1991 [Trần Ngọc Thêm 1991],
chúng tôi đã đề xuất định nghĩa coi "văn hoá là mô ̣t hê ̣ thống hữu cơ của các giá trị vâ ̣t chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt đô ̣ng thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự
nhiên và xã hô ̣i của mình". Định nghĩa này vẫn được giữ nguyên trong các bản in chính thức sau này của
cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam cũng như cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của cùng tác giả.
Định nghĩa này xem văn hóa như mô ̣t hê ̣ giá trị. Trong lý luâ ̣n văn hóa học, những định nghĩa như vâ ̣y
thường được xếp vào "cách tiếp câ ̣n giá trị học" (axiological approach, t. Hy Lạp axios = giá trị), bên cạnh
những cách tiếp câ ̣n khác như miêu tả, chức năng, nhân loại học, tâm lý học, xã hội học, ký hiê ̣u học...
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Có ý kiến cho rằng chỉ giới hạn văn hóa ở các giá trị là thu hẹp pham vi của nó và đối lâ ̣p cách tiếp câ ̣n
giá trị học với cách tiếp câ ̣n nhân loại học coi văn hóa là tổng thể các sản phẩm hoạt đô ̣ng của con người,
họ cho rằng chỉ có như vâ ̣y mới bao quát được toàn bô ̣ khái niệm văn hóa.
Thực ra, nói như vâ ̣y là chưa hiểu hết khái niệm giá trị.
"Giá trị" là khái niê ̣m có đô ̣ bao quát rất lớn. Không chỉ các đồ vâ ̣t, sách vở, tác phẩm nghê ̣ thuâ ̣t mới
có thể là giá trị, mà cả truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã hô ̣i, biểu trưng, thông
tin... đều có thể là giá trị. Không chỉ các sản phẩm mới là giá trị, mà cả các hoạt đô ̣ng, công nghê ̣, quy
trình, phương thức, quan hê ̣... đều có thể xác định như các giá trị. Giá trị có thể hữu hình hoă ̣c vô hình, có
thể tĩnh hoă ̣c đô ̣ng. Và điều quan trọng là giá trị phụ thuô ̣c vào người đánh giá, nơi đánh giá, thời điểm
đánh giá, tiêu chí đánh giá, v.v. Vì vâ ̣y, mọi sản phẩm hoạt đô ̣ng của con người đều có thể là giá trị.
Ngoài ra, văn hóa không chỉ là những giá trị, mà còn là những biểu tượng.
b) Văn hoá như một hệ biểu tượng
Hoạt động sáng tạo ra các giá trị văn hóa có thể xuất phát từ những tư tưởng, ý nghĩa mà tạo ra những
sự vật, khái niệm thể hiê ̣n các tư tưởng, ý nghĩa đó; hoă ̣c cũng có thể ngược lại, xuất phát từ những sự vật
có sẵn để tìm mô ̣t tư tưởng, ý nghĩa thích hợp để gán vào. Bất luâ ̣n trong trường hợp nào, hoạt động "gắn
mô ̣t sự vật, khái niệm với mô ̣t ý nghĩa, tư tưởng" là hoạt đô ̣ng biểu trưng.
Sản phẩm của hoạt động biểu trưng là biểu tượng (symbol). Biểu tượng là tổng thể của hình ảnh được
trưng ra (cái biểu hiên)
̣ cùng mối quan hê ̣ của nó với sự vật, khái niệm, tư tưởng mà nó thay thế (cái được
biểu hiê ̣n, ý nghĩa).
Thực vâ ̣t là sản phẩm tự nhiên. Thực vâ ̣t ăn được / không ăn được cũng là phẩm chất của tự nhiên.
Nhưng cùng mô ̣t loại thực vâ ̣t, tô ̣c người này ăn, tô ̣c người kia có thể không ăn. Cùng ăn, nhưng tô ̣c người
này đánh giá là ngon, tô ̣c người kia cho là không ngon. Viê ̣c gắn quan niê ̣m "ăn / không ăn", "ngon /
không ngon" vào mô ̣t loại thực vâ ̣t là hoạt động biểu trưng, xuất phát từ cùng mô ̣t chất liê ̣u tự nhiên mà
tạo nên những biểu tượng khác nhau: "thực vâ ̣t ăn / không ăn", "thực vâ ̣t ngon / không ngon". Những biểu
tượng đó thuô ̣c về văn hóa.
Nhờ có mối quan hê ̣ với cái được biểu hiê ̣n và cùng với nó (quan hê ̣) mà cái biểu hiê ̣n trở thành biểu
tượng văn hóa. Nhờ có mối liên hê ̣ với ý nghĩa và cùng với nó mà mô ̣t sự vâ ̣t trở thành giá trị văn hóa.
"Biểu tượng" và "giá trị" thực chất là hai khái niệm tương đồng, chúng thể hiê ̣n cùng mô ̣t đối tượng từ hai
góc đô ̣ khác nhau.
Như vâ ̣y, định nghĩa văn hóa đã nêu sẽ có cách trình bày thứ hai như sau: Văn hóa là mô ̣t hệ thống
biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình.
Khi dùng khái niệm "biểu tượng" là ta muốn chỉ ra phương thức cấu tạo của đơn vị văn hóa; còn khi
dùng khái niệm "giá trị" là ta muốn nói đến tính sản phẩm của đơn vị văn hóa đó.
Ta cũng có thể kết hợp cả hai cách trình bày thành mô ̣t định nghĩa tổng quát: Văn hóa là mô ̣t hệ
thống giá trị mang tính biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
c) Văn hoá trong một hệ toạ độ và như một chùm đặc trưng
Ý nghĩa của định nghĩa này là ở chỗ nó cung cấp cho ta hai bô ̣ công cụ quan trọng cho viê ̣c tìm hiểu và
nghiên cứu văn hóa.
Bô ̣ công cụ thứ nhất mà định nghĩa văn hóa cung cấp là mô ̣t hê ̣ toạ đô ̣ ba chiều mà trong đó văn hoá
tồn tại: Định nghĩa nói đến Con người - đó là Chủ thể văn hoá. Định nghĩa nói đến Môi trường tự nhiên
và xã hô ̣i - đó là Không gian văn hoá. Định nghĩa nói đến Quá trình hoạt đô ̣ng - đó là Thời gian văn
hoá. Viê ̣c cụ thể hoá ba thông số của hê ̣ toạ đô ̣ này sẽ cho ta những nền văn hoá, những tiểu văn hóa, và
những biến thể văn hoá khác nhau.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Bô ̣ công cụ thứ hai mà định nghĩa văn hóa cung cấp là mô ̣t chùm bốn đă ̣c trưng cho phép nhâ ̣n diê ̣n
văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị (hoă ̣c tính biểu trưng), tính nhân sinh và tính lịch sử. Đó là bốn đă ̣c
trưng cần và đủ, có thể dùng làm công cụ để phân biê ̣t văn hóa với những khái niê ̣m, hiê ̣n tượng có liên
quan.
II- Nhâ ̣n diêṇ văn hoá
Dựa vào bô ̣ công cụ thứ hai của định nghĩa văn hoá là chùm bốn đă ̣c trưng, ta có thể nhâ ̣n diê ̣n đối
tượng có thuô ̣c về văn hóa hay không bằng cách xem xét nó trên hai bình diê ̣n: bình diê ̣n yếu tố và bình
diê ̣n quan hê.̣
Bình diê ̣n yếu tố cho phép nhâ ̣n diê ̣n văn hóa mô ̣t cách đô ̣c lâ ̣p: mô ̣t đối tượng sẽ là văn hóa hoă ̣c
không phải là văn hóa.
Bình diê ̣n quan hê ̣ cho phép nhâ ̣n diê ̣n văn hóa mô ̣t cách tương đối: mô ̣t đối tượng đă ̣t trong những
mối quan hê ̣ này thì là văn hóa nhưng đă ̣t trong những mối quan hê ̣ khác thì lại có thể không phải là văn
hóa.
1. Bình diê ̣n yếu tố: khu biê ̣t Văn hoá với Tự nhiên và Văn minh
Trên bình diê ̣n yếu tố, văn hóa được phân biê ̣t với tự nhiên và văn minh. Văn hóa phân biê ̣t với tự
nhiên là nhờ tính nhân sinh. Văn hóa phân biê ̣t với văn minh là nhờ tính lịch sử.
a) Văn hoá với Tự nhiên: Tính nhân sinh
Tính nhân sinh cho phép phân biê ̣t văn hoá với tự nhiên. Văn hóa là sản phẩm trực tiếp của con người
và gián tiếp của tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, là mô ̣t "tự nhiên thứ hai".
Tính nhân sinh, thông qua tính biểu trưng, là mô ̣t đă ̣c trưng định tính cho phép nhâ ̣n biết giá trị văn hoá
của mô ̣t sự vâ ̣t (hiê ̣n tượng) có nguồn gốc tự nhiên.
Tuy nhiên, do mọi đối lâ ̣p đều chỉ là tương đối cho nên, trên thực tế, không phải cứ có tính nhân sinh
là đã đủ để xếp mô ̣t sự vâ ̣t (hiê ̣n tượng) vào văn hoá. Vịnh Hạ Long, hòn Vọng Phu,... đều có bàn tay và
khối óc của con người, chúng đều có tính nhân sinh. Nhưng để khu biê ̣t và quyết định xếp đối tượng này
vào tự nhiên, đối tượng kia vào văn hóa, cần so sánh mức đô ̣ tỷ lê ̣ giữa "chất con người" và "chất tự nhiên"
trong mỗi đối tượng. Như vâ ̣y, định tính vẫn phải kết hợp với định lượng mới đủ để giải bài toán khu biê ̣t.
b) Văn hoá với văn minh: Tính lich sư
Tự nhiên được biến thành văn hóa là nhờ có hoạt đô ̣ng xã hô ̣i - sáng tạo của con người. Bản thân các
hoạt đô ̣ng này cũng chính là những giá trị văn hoá. Hoạt đô ̣ng sáng tạo và tích lũy các giá trị diễn ra trong
thời gian tạo nên tính lịch sử.
Tính lịch sử đảm bảo sự ổn định của văn hoá và cho phép phân biê ̣t văn hóa như cái được tích lũy lâu
đời với văn minh như cái chỉ trình đô ̣ phát triển ở mô ̣t thời điểm nhất định. Những sản phẩm vừa ra lò
hàng loạt của văn minh mang đâ ̣m đă ̣c chất nhân sinh, nhưng thiếu hẳn tính lịch sử. Khi được sử dụng,
chúng bắt đầu có cuô ̣c sống riêng của mình, chúng được cá thể hoá, lịch sử hoá, và phần nào tự nhiên hoá.
Tự
VĂN
Văn hóa1
nhiên1
MINH
Văn
hóa2
Tự
nhiên2
Hình 1: Cuô ̣c đời mô ̣t sản phẩm văn minh
Cuô ̣c đời của mô ̣t sản phẩm văn minh có thể hình dung như mô ̣t quá trình gồm hai giai đoạn, mỗi
giai đoạn gồm 3 bước (x. hình 1). Ở giai đoạn mô ̣t, xuất phát từ chất liê ̣u tự nhiên, sử dụng các thành tựu
văn hóa đã tích luỹ được và nâng cao lên để tạo ra sản phẩm văn minh. Ở giai đoạn hai, sản phẩm văn
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
minh đi vào cuô ̣c sống, được lịch sử hoá và trở thành sản phẩm văn hóa; mô ̣t sản phẩm văn hóa thiếu sự
chăm sóc của con người sẽ được tự nhiên hoá, trở về với tự nhiên (chẳng hạn quá trình từ mô ̣t kiến trúc
hiê ̣n đại trở thành phế tích).
Bảng 1: Quan hê ̣ giữa văn hóa với tự nhiên và văn minh
Khu biê ̣t:
TỰ NHIÊN
VĂN HOÁ
VĂN MINH
Bản chất chủ đạo:
Âm
Dương
Hoạt đô ̣ng chủ đạo:
Bảo tồn
Phát triển
Như vâ ̣y, văn hoá đứng giữa tự nhiên và văn minh. Khi mô ̣t đối tượng chưa có hoă ̣c có quá ít tính
nhân sinh thì nó thuô ̣c về tự nhiên. Còn khi mô ̣t sản phẩm của con người tạo ra mà chưa có hoă ̣c có quá ít
tính lịch sử thì nó thuô ̣c về văn minh. Khi tự nhiên không lấn át con người và con người không lấn át tự
nhiên thì trước mă ̣t ta là văn hoá. Tự nhiên thiên về âm tính và có năng lực bảo tồn rất cao; văn minh
thiên về dương tính và, ngược lại, có năng lực phát triển rất cao. Văn hóa đứng giữa hai cực ấy (x. bảng
1). Chính nhờ sự hài hoà ấy mà chỉ có văn hóa mới có thể vừa là nền tảng, vừa là đô ̣ng lực cho sự phát
triển của xã hội.
2. Bình diê ̣n quan hê ̣: khu biê ̣t Văn hoá với Phi văn hoá và Tâ ̣p hợp giá trị
Trên bình diê ̣n quan hê ̣, văn hóa được phân biê ̣t với phi văn hoá và tâ ̣p hợp giá trị. Văn hóa phân biê ̣t
với phi văn hoá là nhờ tính giá trị. Văn hóa phân biê ̣t với tâ ̣p hợp giá trị là nhờ tính hê ̣ thống.
a) Văn hóa với Phi văn hoá: tính giá tri
Mô ̣t đối tượng đã có tính nhân sinh (do con người tạo ra), tính lịch sử (tồn tại trong mô ̣t khoảng thời
gian nhất định), còn phải có tính giá trị và tính hê ̣ thống nữa mới trở thành văn hóa. Nếu thiếu tính giá trị
thì nó là phi văn hóa.
Nhưng mă ̣t khác, cuô ̣c sống của con người là mô ̣t quá trình tìm kiếm các giá trị để thoả mãn các nhu
cầu. Do vâ ̣y, không có cái gì mà con người tạo ra lại không có giá trị và không thuô ̣c về văn hóa (nếu có
đủ ba đă ̣c trưng còn lại). Mà nếu vâ ̣y thì phi văn hoá do con người tạo ra thực chất cũng là mô ̣t loại văn
hóa!
Sở dĩ có nghịch lý này là vì vạn vâ ̣t đều có tính hai mă ̣t, đồng thời chứa cả giá trị và phi giá trị. Giá
trị chỉ là kết quả thẩm định dương tính của chủ thể đối với đối tượng theo mô ̣t hoă ̣c mô ̣t số thang đô ̣ nhất
định. Do vâ ̣y, giá trị là khái niệm có tính tương đối. Nó phụ thuô ̣c vào chủ thể, không gian và thời gian.
Giá trị phụ thuô ̣c vào không gian: cùng mô ̣t đối tượng - chẳng hạn như mắm tôm - có giá trị ở Viê ̣t
Nam nhưng không có giá trị ở phương Tây. Nó phụ thuô ̣c vào thời gian: mắm tôm có giá trị vào bữa ăn
nhưng không có giá trị vào lúc đang họp hô ̣i nghị. Nó còn phụ thuô ̣c vào chủ thể định giá: mắm tôm chỉ
có giá trị đối với người biết ăn. Phong trào "phản văn hóa" ( anti-culture) trong trào lưu hâ ̣u hiê ̣n đại chủ
trương coi mọi thứ là vô nghĩa, vô giá trị chính là mô ̣t loại văn hóa của những người thuô ̣c phái "tự yêu
mình" (narcissism) [Cahoone L.E. 1988: 209].
Vì vâ ̣y, muốn xác định được giá trị của mô ̣t sự vâ ̣t (khái niệm) thì phải xem xét nó trong hê ̣ toạ đô ̣
"không gian - thời gian - chủ thể" cụ thể, trong mối tương quan giữa mức đô ̣ "giá trị" và "phi giá trị" mà
nó có. Mô ̣t sự vâ ̣t, hiê ̣n tượng có thể có giá trị trong hê ̣ toạ đô ̣ này, nhưng lại là phi giá trị, và do vâ ̣y là phi
văn hoá, trong mô ̣t hê ̣ toạ đô ̣ khác.
Nhờ vâ ̣y, tính giá trị cho phép phân biê ̣t văn hóa với những hiê ̣n tượng vô văn hóa, phi văn hóa, phản
văn hóa; nhưng đồng thời vẫn không loại bỏ bất kỳ mô ̣t sản phẩm nào, mô ̣t hoạt đô ̣ng nào của con
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
người[1]. Nhờ tính giá trị, ta có được cái nhìn biê ̣n chứng và khách quan trong viê ̣c đánh giá sự vâ ̣t, hiê ̣n
tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhâ ̣n sạch trơn hoă ̣c tán dương hết lời.
b) Văn hóa với Tâp
̣ hợp giá tri: tính hệ thống
Mô ̣t tâ ̣p hợp giá trị có tính nhân sinh, tính lịch sử và tính giá trị thì đã thuô ̣c văn hoá rồi, nhưng do
rời rạc nên nó không phải là mô ̣t đối tượng văn hoá riêng biê ̣t mà thôi.
Tâ ̣p hợp có thể bao gồm những giá trị riêng biê ̣t thuô ̣c mô ̣t nền văn hóa, trong trường hợp này, viê ̣c
hê ̣ thống hoá, sắp xếp, liên kết chúng lại với nhau sẽ cho ta hình ảnh trọn vẹn của nền văn hoá đó.
Nhưng tâ ̣p hợp cũng có thể bao gồm những giá trị riêng biê ̣t ngẫu nhiên thuô ̣c nhiều nền văn hóa
khác nhau. Trong trường hợp này thì tâ ̣p hợp vẫn chỉ dừng lại ở mức đô ̣ mô ̣t tâ ̣p hợp rời rạc mà thôi.
Như vâ ̣y, TÍNH HỆ THỐNG là mô ̣t yêu cầu quan trọng, nó đòi hỏi phải xem xét mọi giá trị văn hóa
trong mối quan hê ̣ mâ ̣t thiết với nhau. Nó giúp khắc phục nhược điểm lớn nhất của nhiều định nghĩa văn
hóa lâu nay là coi văn hóa như mô ̣t phép cô ̣ng đơn thuần của những tri thức rời rạc từ nhiều lĩnh vực. Định
nghĩa văn hóa của E.B. Taylor coi văn hóa như mô ̣t "phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghê ̣ thuâ ̣t,
đạo đức, luâ ̣t pháp, phong tục, cũng như mọi khả năng và thói quen khác..." [1871: 13] thuô ̣c loại như thế.
Viê ̣c nhâ ̣n diê ̣n "chất văn hóa" và khu biê ̣t nó với bốn hiê ̣n tượng có liên quan có thể được tổng kết
như sau (hình 2 & bảng 2).
Bảng 2: Nhâ ̣n diêṇ "chất văn hóa"
Bình diê ̣n Tự Nhiên
yếu tố
Văn Minh
+ yếu tố con người
+ yếu tố thời gian
Bình diê ̣n Phản Văn hóa + quan hê ̣ với toạ đô ̣ gốc
quan hê ̣
Tâ ̣p hợp Giá trị + quan hê ̣ với nhau
=
VĂN
HÓA
III- Nhâ ̣n diêṇ các loại văn hoá
1. Văn hóa xét theo chủ thê
Trong định nghĩa văn hóa, chúng tôi dùng khái niệm "con người" để chỉ chủ thể văn hóa. Đây là mô ̣t
phạm trù có đô ̣ bao quát khá rô ̣ng. CON NGƯỜI tạo nên văn hoá có thể là mô ̣t cá nhân, mô ̣t tổ chức, mô ̣t
tô ̣c người, mô ̣t dân tô ̣c, cư dân của mô ̣t quốc gia, mô ̣t khu vực hoă ̣c toàn nhân loại.Mọi loại chủ thể vừa
nêu (trừ những em bé tử vong trong vòng mô ̣t tuổi, những tổ chức sớm nở tối tàn) đều "có văn hóa",
nhưng không phải loại nào cũng "có văn hóa riêng".
"Có văn hóa" là khái niệm rô ̣ng hơn, văn hóa đó có thể do mình tạo ra, mang nét đă ̣c thù riêng của
mình, nhưng cũng có thể chỉ là văn hóa tiếp nhâ ̣n được, do nhiều đối tượng cùng sở hữu. Để "có văn hóa"
chỉ cần đòi hỏi mô ̣t sự ổn định tương đối.
"Văn hóa" nói đến trong định nghĩa là văn hóa được chủ thể sáng tạo ra, tức là văn hóa riêng. Để " có
văn hóa riêng", đòi hỏi chủ thể phải có bản lĩnh mạnh.
Cá nhân, nhất là cá nhân trong các nền văn hóa phương Đông, có khuynh hướng hoà mình vào cô ̣ng
đồng, nên phần đông đều không có văn hóa riêng. Văn hóa riêng chỉ có ở các vĩ nhân.
Phần nhiều các làng trong mô ̣t tô ̣c người, các công ty, các đô thị trong mô ̣t quốc gia có khuôn mă ̣t
giống nhau, cách tổ chức na ná như nhau... cũng không có văn hóa riêng. Có văn hóa riêng, phải là những
làng rất đă ̣c thù, những công ty rất mạnh và có mô ̣t truyền thống ổn định.
Chỉ có tôc̣ người (ethnic group) là chủ thể văn hóa điển hình nhất. Mọi tô ̣c người đều có cùng nguồn
gốc, có cùng thời gian tồn tại trên cùng mô ̣t lãnh thổ cư trú, có ngôn ngữ riêng tạo thành mô ̣t lối ứng xử,
lối tư duy đă ̣c thù, do vâ ̣y mọi tô ̣c người đều có văn hóa riêng.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Dân tôc̣ - quốc gia (nation-etat) cũng có văn hóa riêng. Đó là quốc gia đơn tô ̣c người hoă ̣c đa tô ̣c
người, mà những tô ̣c người này có cùng nguồn gốc hoă ̣c tuy có khác về nguồn gốc nhưng đã có thời gian
cùng chung sống khá dài, đủ tạo nên mô ̣t cái nền chung về ngôn ngữ, phong tục, tư duy... Tuy nhiên, văn
hóa của dân tộc - quốc gia dẫu sao cũng kém điển hình hơn so với văn hóa của tô ̣c người.
Không phải quốc gia nào cũng có văn hóa riêng. Những quốc gia đa tô ̣c người, mà những tô ̣c người
này có nguồn gốc rất khác nhau, thời gian cùng chung sống trên mô ̣t lãnh thổ lại quá ít thì chưa thể có văn
hóa riêng được (như Australia).
Khả năng có văn hóa riêng của khu vực lại càng thấp nữa. Chỉ có những khu vực có bản sắc mạnh do
cư dân là những tô ̣c người có cùng nguồn gốc, hoă ̣c sử dụng cùng mô ̣t ngôn ngữ, chữ viết, theo cùng mô ̣t
tôn giáo... thì mới có khả năng tạo dựng nên mô ̣t văn hóa đă ̣c thù (như văn hóa Đông Nam Á, văn hóa
Đông Bắc Á, văn hóa Nga-Slavơ, văn hóa Hồi giáo...).
Nhân loại thì quá đa dạng để mà có mô ̣t văn hóa riêng. Cái mà ta vẫn gọi là "văn hóa nhân loại" thực
ra chỉ là mô ̣t cách nói tu từ để chỉ tổng thể các thành tựu, các giá trị của các nền, các vùng văn hóa, hoă ̣c
những phần chung nhất của chúng.
Như vâ ̣y, chủ thể văn hóa điển hình là những nhóm người có số lượng vừa phải (không quá ít, nhưng
cũng không quá nhiều), tâ ̣p hợp theo mô ̣t chùm tiêu chí thống nhất về chủ thể, không gian, thời gian, ngôn
ngữ... Khả năng có văn hóa riêng của các loại chủ thể khác nhau có thể hình dung bằng biểu đồ ở hình 3.
Tuy mô ̣t số loại chủ thể có thể có văn hóa riêng, nhưng tính chất của chúng không như nhau. Văn hóa
tô ̣c người và văn hóa dân tộc - quốc gia nhờ có ngôn ngữ chung nên có tính điển hình cao nhất, chúng là
những NỀN văn hóa. Văn hóa của cá nhân, của tổ chức chỉ khu biê ̣t về mô ̣t số mă ̣t, về những mă ̣t khác thì
đồng nhất với văn hóa của chủ thể lớn hơn mà chúng lê ̣ thuô ̣c, nên chúng là những TIỂU văn hóa. Văn
hóa của khu vực bao gồm nhiều nền văn hóa bô ̣ phâ ̣n - đó là VÙNG văn hóa.
2. Văn hóa xét theo không gian, thời gian, đối tượng
Cùng mô ̣t nền/vùng/tiểu văn hóa, nhưng đă ̣t trong những Không gian khác nhau sẽ tạo nên các biến
thể không gian của văn hóa, vd: văn hóa Việt Nam hải ngoại, văn hóa Honda Việt Nam.
Cùng mô ̣t nền/vùng/tiểu văn hóa, nhưng đă ̣t trong những Thời gian khác nhau sẽ tạo nên các biến
thể thời gian của văn hóa, vd: văn hóa trung đại, văn hóa hiê ̣n đại.
Xét theo đối tượng khảo sát, có thể phân biê ̣t văn hóa của từng bô ̣ phâ ̣n - đó là các thành tố văn hóa,
như văn hóa nghệ thuật, văn hóa chính trị, văn hóa tôn giáo...
Tài liêụ trích dẫn
1.
Cahoone Lawrence E. 1988: The Dilemma of Modernity: Philosophy, Culture, and Anti-Culture. N.Y.: State University of New York Press, 325 p.
2.
Trần Ngọc Thêm 1991: Cơ sở văn hóa Việt Nam, tâ ̣p 1+2 (lưu hành nô ̣i bô ̣). - H.: Trường Đại học
Ngoại ngữ Hà Nội.
3.
Tylor E.B. 1871: Primitive Culture. Bản dịch tiếng Viê ̣t: Văn hóa nguyên thuỷ. - H.: Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, 2000, 1046 tr.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
[1] Ngay cả những hiê ̣n tượng tưởng như xấu xa tồi tê ̣ nhất như ma tuý, mại dâm, chiến tranh, chửi nhau...
cũng có những mă ̣t giá trị của nó. Và ngay cả những hiê ̣n tượng tưởng như tốt đẹp nhất như thành tựu y
học, thuỷ điê ̣n... cũng có những mă ̣t phi giá trị của nó.
B – BÀI ĐỌC
1. RỒNG TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
Nguyễn Ngọc Thơ
(Đã đăng trên Đặc san Khoa học Xã hội số 42, tháng 1 năm 2012)
Rồng là một biểu tượng văn hóa có độ phổ biến vào loại cao nhất thế giới. Xét theo hình thức cấu
tạo, rồng là linh vật tổng hợp từ nhiều loài vật khác nhau, song luôn có hình dáng gần nhất với một
loài vật chính. Dân gian phương Đông dùng thuyết “tam đình cửu tự” (thân 3 khúc: đầu, thân, đuôi,
kết hợp từ 9 nét khác nhau của 9 loài vật có thật gồm “cửu tự” là chín nét giống, gồm: sừng giống nai,
đầu giống đà, mắt giống thỏ, thân giống rắn, bụng giống trai, vảy giống cá, ngón chân giống chim,
chân giống hổ, tai giống bò) để nói lên đặc trưng tổng hợp ấy, và để lý giải vị trí bá chủ vạn vật của
rồng.
1. Nguồn gốc Bách Việt của rồng
Nghiên cứu cho thấy rồng Đông Á mang nguồn gốc Bách Việt cổ (cộng đồng cư dân cổ thuộc ngữ hệ
Austro-asiatic cư trú từ hạ lưu Dương Tử đến Bắc Đông Dương, trong đó có tổ tiên Lạc Việt) trên cơ sở
của sự kết hợp rắn, cá sấu và nhiều loại vật khác. Rồng mang một số đặc trưng quan trọng liên quan đến
văn hóa Bách Việt như (1) nguyên mẫu chính từ rắn hoặc cá sấu, tức các loài động vật phổ biến của
phương Nam(1), (2) tính cách thích nước và sinh sống ở môi trường sông nước; và (3) rồng là sản phẩm
tổng hợp của tư duy âm dương phương Nam. Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn (2000), tên gọi
Rồng vốn xuất hiện trong tiếng Viê ̣t và mô ̣t số ngôn ngữ thuô ̣c tiểu chi Proto Viê ̣t-Chứt; từ Thìn trong thập
nhị địa chi là tên gọi do người Hán vay mượn từ ngôn ngữ Bách Việt cổ. Người Bách Viê ̣t, mà cụ thể
là Lạc Viê ̣t, với truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, tự xem mình là “con Rồng cháu Tiên”.
Nhiều nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng đồng nhất quan điểm này. Tác giả Văn Nhất Đa trong chuyên
khảo “Đoan ngọ khảo” (1993) gắn nguồn gốc xuất hiện của rồng với tết Đoan ngọ và tục đua thuyền rồng
của cư dân Ngô Việt vùng hạ lưu Dương Tử. Ngày nay, các vùng đất Nam Trung Hoa, Việt Nam, Đài
Loan, Okinawa vẫn còn tục đua thuyền rồng trong các dịp đón năm mới, tết Đoan ngọ hay lễ hội truyền
thống (Trịnh Tiểu Lô 1997). Tác giả Trung Hoa Nghê Nông Thủy (2010) chứng minh nguồn gốc Bách
Việt của tết Đoan ngọ cùng tục đua thuyền rồng, sau được người Trung Hoa tiếp nhận và gắn thêm chức
năng cứu Khuất Nguyên để giáo dục cội nguồn.
Nhà dân tộc học người Nga D.V. Deopik (1993) từng viết “Rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả
các dân tộc Việt và chính từ đây nó đã đi vào văn hóa Trung Hoa”. Còn nhà Việt Nam học người Nga N. I.
Niculin cũng nhận xét: “Trong văn hoá truyền thống của người Việt, hình tượng con Rồng – một con vật
tưởng tượng – trở thành biểu tượng quan trọng nhất... Chính người Việt từ ngàn xưa đã biết trồng lúa nước
và đánh cá... Hoàn toàn có cơ sở để cho rằng hình tượng con rồng trong văn hoá Trung Hoa có nguồn gốc
từ phương Nam, từ vùng Đông Nam Á, từ Việt Nam và các quốc gia láng giềng....” (2).
Từ chiếc nôi Bách Việt, rồng lan truyền ra xung quanh, tại mỗi địa phương rồng khoác lên sắc thái
văn hóa của riêng địa phương mình. Chính vì vậy, rồng đã trở nên đa dạng về chủng loại và hình dáng, tạo
nên một “Gia tộc họ rồng” cực kỳ đa dạng về hình thức lẫn chức năng.
2. Gia tộc họ rồng
Rồng có các nguyên mẫu chính gồm rắn, cá sấu, cá, lợn, trâu, ngựa, hổ, chó, tia chớp, cây tùng, sinh thực khí nam (xem
Nguyễn Ngọc Thơ 2007: “Về vấn đề nguyên mẫu của Rồng Trung Hoa”, Tập san KHXH&NV)
2
Xem Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Ngọc Thơ: “Nguồn gốc con rồng nhìn từ văn hóa học”, Tập san KHXH&NV, 2011
1
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Lấy giới tính làm tiêu chí phân loại thì có hai loại rồng đực đuôi có hạt châu hoặc chỉ có chiếc đuôi
đơn thuần và rồng cái đuôi phân nhánh thành hoa văn hoa cỏ.
Thứ hai là tiêu chí nguyên mẫu. Rồng hình thành từ sự kết hợp đa loài, dù vậy vẫn có
thể nhận diện loài vật đặc trưng nhất. Tiêu biểu có rồng rắn, rồng cá sấu, rồng cá,
rồng ngựa, rồng hổ, rồng chó, rồng chim, rồng thuồng luồng (giao long), rồng kỳ đà,
rồng cáo…
Rồng rắn
Rồng cá
Rồng ngựa
Rồng cá sấu
Rồng hổ
Rồng chó
Rồng chim
Giao long
Rồng cáo
Rồng thằn lằn
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Rồng kì nhông
Rồng thú 2
Rồng kỳ đà
Rồng lợn
Rồng thú 3
Còn nếu dựa vào tứ chi của rồng để phân thì có các loại rồng 5 móng, 4 móng, 3 móng; không chân và
rồng có tứ chi là hoa văn cây cỏ. Rồng 5 móng là loại rồng chuẩn, từ đầu Công nguyên trở đi đã trở thành
biểu tượng của vua chúa, thường xuyên bị hoàng gia lũng đoạn, dân gian bị cấm dùng. Quan lại chỉ được
phép dùng rồng 4 móng, có thời kì bị bắt buộc dùng hình mãng xà (như thời Minh ở Trung Quốc). Rồng
không chân thường được hiểu là thuồng luồng, xuất hiện nhiều trong truyền thuyết dân gian. Rồng có tứ
chi phát triển thành hoa văn hoa cỏ thường được dùng nhiều trong nghệ thuật trang trí kiến trúc hay hội
họa truyền thống.
Chín con của rồng
Theo truyền thuyết dân gian Trung Hoa, rồng có chín con. Hình dáng và sở thích của chúng hoàn
toàn khác nhau. Dân gian vùng Hoa Bắc có câu: “Rồng sinh chín con không thành rồng, mỗi con đều có
sở thích riêng” (Long sinh cửu tử bất thành long, các hữu sở hiếu 龙生九子不成龙,各有所好). Hiện có
rất nhiều chuyện thần thoại liên quan đến chín con của rồng. Mỗi câu chuyện có nội dung khác nhau, các
tên gọi của các con của rồng cũng có những khác biệt, song theo nhiều tài liệu có liên quan thì chín con
của rồng có tên như sau: bị hí, li vẫn, bồ lao, bệ ngạn, thao thiết, công phúc, nhai xế, toan nghê, tiêu đồ
[Diệp Ứng Toại 2001: 118]. Các con của rồng, mỗi loại với những sở thích riêng biệt của mình đã được
người Trung Hoa sử dụng làm vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng đặc biệt khác nhau. Dưới đây
xin giới thiệu khái quát về hình ảnh, nội dung và ý nghĩa của các con của rồng [Ninh Nghiệp Cao 1999:
20-27; Diệp Ứng Toại 2001: 100-128; Trương Đạo Nhất 1999: 67-115; Mã Lăng Đình – Sử Vệ Dân 2001:
126-135].
Bị hí (赑屃 bìxì, tên khác là bá hạ 霸下 ba’xià), bát phúc (八蝮 ba’fu) là con trưởng của rồng (hình
32, 33). Bị hí có nghĩa đen là cố lấy sức [Phan Văn Các, 1993: 67]. Bị hí có sực mạnh vượt bậc, hình dáng
giống con rùa, đầu rồng. Bị hí chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ
cho các bệ đá, cột đá, bia đá v.v… Trần Mậu Nhân đời Minh trong cuốn Già Vật Dị Danh Sớ có viết
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
“Rồng sinh chín con, mỗi con có một sở thích riêng. Bát phúc chịu nặng, hiện là con vật dưới chân bia”
(Long sinh cửu tử, các hữu kì hiếu. Bát phúc, hiếu phụ trọng, kim bi hạ thú 龙生九子,各有所好。八
蝮,好负重,今碑下兽). Người Trung Hoa ngoài đời còn gọi bị hí là thạch long quy (石龙龟). Rùa là
con vật sống thọ, do vậy, người Trung Hoa coi linh vật họ rồng này là vật tượng trưng cho sự cát tường,
trường thọ.
Hình 32: bị hí
Hình 33: bị hí. Nguồn [Diệp Ứng Toại 2001:
119]
Li vẫn (螭 吻 chi’wen)còn gọi là si vẫn (蚩 吻 chi’wen), là con thứ hai của rồng (hình 3436). Hiện các tác giả Trung Hoa chưa thống nhất tên gọi của con vật này. Ví dụ Diệp
Ứng Toại [2001: 120] gọi là li vẫn, nhưng Ninh Nghiệp Cao [1999: 25] lại gọi là si
vẫn. Li là tên loài động vật trong truyền thuyết, si là đần độn, vẫn là môi, mõm động
vật [Phan Văn Các 1993: 161, 1250]. Tuy vậy, trong tiếng Hán, li và si cùng âm. Li
vẫn có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Đặc trưng sở thích của li vẫn là ngắm cảnh
và cắn nuốt đồ vật. Ngoài ra, tương truyền li vẫn thường giúp dân diệt hỏa hoạn. Từ
những đặc trưng này, li vẫn được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện
cổ, chùa chiền, đền đài… ngụ ý trấn hỏa, bảo vệ bình yên cho công trình.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Hình: 1.34 (trên): Xi vẫn 1
Hình 35 (bên phải, trên): Xi vẫn 2
Hình 36 (bên phải, dướii): Xi vẫn 3
Nguồn: [Diệp Ứng Toại 2001: 120]
Bồ lao (蒲牢 púláo) là con thứ ba của rồng (hình 37). Bồ trong tiếng Hán không có nghĩa, lao là vật
tế thần hoặc bền vững [Phan Văn Các 1993: 723]. Tương truyền bồ lao thích âm thanh lớn. Trong tác
phẩm Đông Thành Phú, Ban Cố có viết “Vì thế khi thấy kình ngư, kêu to như chuông” (Vu thị phát kình
ngư, khanh hoa chung “于是发鲸鱼,铿华钟”)[Ninh Nghiệp Cao 1999: 25]. Bồ lao thường dạo chơi
dưới biển. Ở biển có loài cá kình hung ác, hễ cá kình uy hiếp thì bồ lao la to, cá kình sợ mà bỏ chạy. Dân
gian khi đúc chuông thường cho khắc hình bồ lao trên quai chuông, mong muốn chuông được đúc có tiếng
to, vang xa như tiếng bồ lao.
Hình 37 (trái): Bồ lao
Hình 38 (trên): Bệ ngạn
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Nguồn [Diệp Ứng Toại 2001: 121-123]
Bệ ngạn [狴犴 bì’àn] (còn gọi là bệ lao 狴牢 bì’láo, hiến chương 宪章 xian’zhang) (hình 38). Theo
Từ điển Trung – Việt của Phan Văn Các [1993: 67] thì bệ ngạn có nghĩa gốc là nhà lao hay ngục thất. Bệ
ngạn là con thứ tư của rồng. Bệ ngạn có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo
truyền thuyết, bệ ngạn rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy vậy uy
phong lẫm liệt. Sách Thăng Am Toàn Tập có viết “Tục truyền rồng sinh chín con… con thứ tư là bệ ngạn,
hình dáng giống hổ, rất dũng mãnh, được đặt ở cửa nhà ngục” (Tục truyền long sinh cửu tử … tứ viết bệ
ngạn, hình tự hổ, hữu uy lực, cố lập vu ngục môn 俗传龙生九..四曰狴犴,形似虎,有威力,故立于狱
门) [Ninh Nghiệp Cao 1999: 26]. Người Trung Hoa cho khắc hình bệ ngạn ở cổng nhà ngục hay ở mặt
trong cổng pháp đường xét xử các vụ kiện, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống
lương thiện, chí thú làm ăn. Công đường vốn là nơi uy nghiêm, sự có mặt của bệ ngạn đã làm tăng thêm
sự uy nghiêm của pháp luật, của sự công bằng.
Thao thiết (饕餮 tiao’tie) là con thứ năm của rồng (hình 39). Theo Từ điển Trung –
Việt của Phan Văn Các (chủ biên), 1993 thì thao nghĩa là tham ăn, thiết cũng là tham
ăn, do đó thao thiết có nghĩa gốc là tham ăn vô độ. Trong truyền thuyết, thao thiết
vốn là con ác thú, tính tham tiền của và tham ăn vô độ. Về hình dáng, thao thiết có
đôi mắt to, miệng rộng, trông rất kỳ lạ. Khi đúc các vật dụng bằng đồng, nhất là các
đồ dùng trong ăn uống, người ta thường cho chạm khắc hình thao thiết với ngụ ý
nhắc nhở người ăn đừng háo ăn như thao thiết.
Hình: 1.39 (trên): Thao thiết
Hình 40a-b-c (phải): Công phúc
Nguồn [Diệp Ứng Toại 2001: 121-123]
Công phúc (公 蝮 gong’fu) là con thứ sáu của rồng (hình 40a-b). Công có nghĩa đen là con rết, phúc
trong cụm từ phúc xà là con rắn lao [Phan Văn Các 1993: 417]. Công phúc tính vốn thích nước nên được
người Trung Hoa cho chạm khắc làm vật trang trí ở các công trình và phương tiện giao thông đường thủy
như cầu cống, rãnh dẫn nước, công trình thủy lợi, bến tàu, thuyền bè, v.v. với mong muốn công phúc luôn
được tiếp xúc với nước và cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân.
Nhai xế (睚 眦 yázi) là con thứ bảy của rồng (hình 41-42). Nhai có nghĩa đen là khoé mắt, xế cũng có
nghĩa là khóe mắt, đuôi mắt. Nhai xế mang nghĩa đen là trừng mắt [Phan Văn Các 1993: 1370,
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
1604]. Nhai xế tính khí hung hăng, ham sát sinh và thường nổi cơn thịnh nộ. Người
Trung Hoa thường chạm khắc hình nhai xế trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà,
v.v. ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi
trận mạc.
Hình 41 (trên): Nhai xế 1
Hình 42 (giữa): Nhai xế 2
Hình 43 (giữa): Toan nghê
Nguồn [Diệp Ứng Toại 2001: 121-123]
Toan nghê (狻 猊 suan’ní), còn gọi là kim nghê (金 猊 jin’ní), là con thứ tám của rồng (hình 43).
Dân gian Việt Nam gọi là con nghê [Phan Văn Các 1993: 1142]. Toan nghê vốn là con vật hoang dã dũng
mãnh, người đời rất kinh sợ. Toan nghê có mình sư tử, đầu rồng. Lúc bình thường, toan nghê thích sự tĩnh
lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Ngày xưa, vua chúa và giới quý tộc
phong kiến Trung Hoa thường cho chạm đúc hình toan nghê làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương,
ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.
Tiêu đồ (椒图 jiao’tú), còn gọi là phô thủ (铺首 pu’shou), là con thứ chín của rồng (hình 44). Tiêu đồ
tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Người
Trung Hoa thường cho chạm khắc hình tiêu đồ trên cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn
đe kẻ lạ muốn xâm nhập, bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.
Hình 44: Tiêu đồ. Nguồn: [Diệp Ứng Toại 2001: 123]
Như đã nói trên, cho đến nay, các nhà sử học và văn hóa học Trung Quốc
đã tìm ra rất nhiều các tài liệu có miêu tả hoặc kể về chín con của rồng. Ngoài
chín con đã được đại đa số các tác giả Trung Hoa công nhận còn có một số
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
con vật mà một số tài liệu cho rằng chúng cũng là con của rồng như sau:
Hình 45: tù ngưu
Hình 46: trào phong
Hình 47: phụ hí
Nguồn: [Diệp Ứng Toại 2001: 124]
Tù ngưu (囚牛 qíu’níu) (hình 45) là tên một loài thú hình rồng trong truyền thuyết. Tù ngưu có sở
thích là yêu âm nhạc, thích lời ca tiếng hát của con người. Người đời sau thường chạm khắc hình tù ngưu
trên các nhạc khí, nhất là trên tay đàn cây đàn nhị với mong muốn cây đàn sẽ cho tiếng đàn hay, người
đánh đàn sẽ có một khúc nhạc tuyệt vời. Vì vậy, dân gian Trung Hoa thường gọi cây đàn nhị là Đàn đầu
rồng (Long đầu hồ cầm 龙头胡琴).
- - Trào phong (嘲风 cháo’feng) (hình 46), theo truyền thuyết là con vật thích mạo hiểm và thường
vươn tầm mắt nhìn ra xa. Sách Tiềm Xác Loại Thư có viết “Trào phong thích mạo hiểm, thường nhìn thấy
trên góc cung điện” (Trào phong hiếu hiểm, hình điện giác thượng 嘲风好险,形殿角上). Vào đời Minh,
Thanh giai cấp quý tộc thường cho chạm khắc hình trào phong lên nóc các cung điện. Sắc thái thần bí và
uy nghiêm của trào phong có thể thị uy những kẻ toan quấy rối hoặc không chấp hành mệnh lệnh của vua
chúa. Ở điểm này, có tác giả cho rằng trào phong chính là li vẫn (đã kể trên), như Hou Ruixia [2001: 7577], song cũng có một số tác giả khác cho rằng trào phong và li vẫn vốn khác nhau, ví dụ Ninh Nghiệp
Cao [1999: 26]; Vương Duy Đề [2000: 11-19]. Xét về hình dáng, trào phong giống thú hơn là giống rồng,
trong khi li vẫn hình rồng thân ngắn hơn, do vậy, chúng tôi cho rằng trào phong và li vẫn là hai con vật
khác nhau xuất hiện trong truyền thuyết.
Hình 48: Vọng thiên khổng. Hình 49 (trái): đấu ngưu
Nguồn: [Diệp Ứng Toại 2001: 126, 127]
Hình 50 (phải): hải trãi
Phụ hí (负屃 fùxì) (hình 47): Người ta thường gặp phụ hí theo từng đôi được chạm khắc ở quanh các
ngôi mộ đá. Tương truyền, phụ hí rất thích các bia đá, vì vậy người ta khắc hình phụ hí lên các bia đá với
mong muốn bảo vệ sự yên tĩnh, sự bình lặng cho mộ.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Ngoài ra còn có li hổ ( 螭 虎 lihu) và điêu đa ( 叼 多 diaoduo), vọng thiên khổng ( 望 天 孔
wàngtiankong) (còn gọi là Thần trụ đạo 神柱道) (hình 48), đấu ngưu (斗牛 dòuníu) (hình 49), hải trãi (獬
豸 xièzhì) (hình 50), tỳ hưu v.v. chúng đều là các con vật trong truyền thuyết nhưng các tài liệu không ghi
chép cũng như mô tả nhiều về chúng. Người ta chỉ biết rằng li hổ là một con rồng không sừng, mình hổ,
còn điêu đa là con rồng nhỏ thích mạo hiểm. Vọng thiên khổng có hình dáng vừa giống rồng vừa giống
thú, thân ngắn hơn rồng, đầu mọc hai sừng, thường được chạm đúc trên đầu trụ đá trước cung điện hoặc
dinh phủ. Hải trãi là con vật trong truyền thuyết, đầu vừa giống sư tử, vừa giống rồng, trên đầu có một
sừng. Hải trãi trung thực, biết phân biệt phải trái, khi thấy người tốt và người xấu đánh nhau, hải trãi dùng
sừng húc chết người xấu, do đó nó là hóa thân của tính cách chính trực. Các quan đại thần đời Minh,
Thanh thường mặc trang phục có hình hải trãi. Tuy nhiên, nếu xét về ngoại hình, ta thấy cả đấu ngưu và
hải trãi giống thú hơn là rồng, vì thế, chúng ta chỉ nên coi chúng là những con vật gần giống rồng mà thôi.
Tỳ hưu là linh vật mang ý nghĩa ban phát tài lộc xuất hiện muộn nhất. Tỳ hưu mang hình dáng tổng hợp
của nhiều loài vật khác nhau, trong đó đầu rồng, cánh phụng, thân ngựa, sừng kỳ lân, móng vuốt sư tử. Tỳ
hưu được cho là không có hậu môn, món ăn chính của nó là vàng bạc, châu báu, và
do vậy nó được cho là biểu tượng của sự tích tụ tài lộc, phú quý. Tỳ Hưu hiện là biểu
tượng mang ý nghĩa may mắn của thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô.
Hình 51. Tỳ hưu trong văn
hóa Trung Hoa
3. Rồng qua các thời kỳ
Con rồng đã từng là một tô tem trong tín ngưỡng sơ khai của người Việt Nam. Dân Việt cổ có tục xăm
mình, phổ biến trong số ấy là họa tiết rồng (giao long). Theo ghi chép trong Hoài Nam Tử và Sơn Hải
Kinh, rồng được người Việt xưa xăm lên đùi để khi xuống nước “tránh bị giao long
làm hại”. Đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt tục xăm mình. Rồng
là hình tượng của mưa thuận gió hòa, là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ
linh “long, lân, quy, phụng”. Hình tượng rồng thời đại Hùng Vương là một linh vật
thân dài có vẩy như cá sấu được chạm trên các đồ đồng, đặc biệt là trên trống đồng.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
Hoa văn rồng trên trống Đông Sơn
Qua thời kỳ Bắc thuộc, con rồng Việt Nam dần xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Thủ đô Thăng Long
được đặt tên theo thế “rồng bay”. Rồng thời Lý là con vật mình dài như rắn, thường thân trơn, lưng có
vây, thân uống cong nhiều vòng uyển chuyển theo hình sin mềm mại và thoải nhỏ dần về phía đuôi, tạo
cảm giác dòng văn hóa dân gian mượt mà dài vô tận. Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba móng cong nhọn.
Đầu rồng ngẩng cao, há miệng rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi thoát ra
mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ "S", tượng trưng cho sấm sét, mây mưa( 3). Trên
đại thể, rồng thời Lý là rồng văn, rồng Phật giáo.
Rồng thời Lý (rồng văn, rồng Phật giáo)
Rồng thời Trần
(rồng võ)
Rồng thời Lê (rồng Nho giáo)
Hình tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý. Đây là thời kì người Việt Nam ba lần
đánh bại quân thiện chiến Nguyên Mông, do vậy triều Trần được cho là triều đại trọng võ. Dấu ấn ấy có
thể nhìn thấy rất rõ qua hình tượng rồng. Đầu rồng xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay,
chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng
3
Xem Viện Nghệ thuật: Mỹ thuật thời Lý, NXB Văn hóa 1973
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thì đuôi thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa
dạng, có khi là những nửa hình nụ hoa tròn, có khi chỉ là những nét cong thanh thoát(4).
Rồng thời Lê (thế kỷ XV) hoàn toàn khác biệt với rồng thời Lý-Trần. Thân rồng có xu hướng ngắn lại,
tư thế đa dạng phong phú. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc
mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn, chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng
trưng cho quyền uy phong kiến(5).
Rồng thời Lê Trung hưng nhìn chung ít thay đổi so với thời Lê Sơ, điểm nổi bật là
hình tượng rồng dần dà đi vào đời sống thường dân, đặc biệt là các mô típ bầy rồng
con quây quần bên rồng mẹ, rồng đuổi bắt mồi, rồng vui cảnh lứa đôi v.v..
Rồng thời Nguyễn
Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi vương quyền. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình
trong đám mây, hoặc rồng hàm thọ, lưỡng long triều nhật, lưỡng long chầu hoa cúc, lưỡng long chầu chữ
thọ v.v.. Thân rồng không dài ngoằn, uốn lượn với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu có
nhánh phụ cùng chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi giống mũi lân hoặc sư tử, miệng há to để lộ hàm
răng răng nanh chắc khỏe. Vây trên lưng rồng có tia, thân cuộn hoa văn lửa hoặc mây, phân bố dài ngắn
đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua chân có
năm móng mạnh mẽ, còn quan và tầng lớp quý tộc chỉ được pháp dùng rồng bốn hoặc ba móng, đuôi
không có bờm lông, các chi tiết hoa văn lờ mờ hơn rồng cung đình. Rồng trên mái đình chùa miếu mạo
thường cũng chỉ có bốn móng(6).
Kể từ khi triều Nguyễn kết thúc, tính phân tầng xã hội trong quy cách sử dụng mô típ rồng không còn
nữa, chính vì vậy người ta có thể chạm khắc rồng với muôn hình vạn trạng, từ vân long, đoàn long, quỳ
long, ứng long, li long, giao long, rồng 5 ngón, 5 ngón, 3 ngón v.v.. Hình tượng con rồng cũng không còn
tính chất thiêng liêng, tối thượng như xưa, thay vào đó dân gian vẫn đưa vào trang trí cho các công trình
kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật với những ý nghĩa dân gian, bình dị.
4. Rồng trong tâm thức người Việt
Như vậy, tổ tiên Bách Việt đã từng có tô tem rồng. Sau quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa với
Trung Hoa, người Việt Nam tiếp nhận trở lại hình ảnh và ý nghĩa của mẫu rồng Á Đông đã hoàn thiện hóa
từ người Trung Hoa. Từ đó trở đi, rồng ngự trị trong tâm thức người Việt như một linh vật đặc biệt, là
“vạn vật chi đế”, là biểu tượng cộng gộp tất cả các ước vọng tốt đẹp nhất của cuộc sống nhân sinh.
Trước nhất, rồng là linh vật tổng hợp từ nhiều loại vật có thật trong tự nhiên, do vậy rồng mang trong
mình hết thảy các ưu thế vượt trội của các loài, trong đó sức mạnh và quyền năng thiên biến vạn hóa là hai
đặc tính quan trọng. Rồng được cho là biểu trưng của sự mạnh mẽ, hùng tráng, là uy lực bất bại trước kẻ
4
5
6
Xem Viện Nghệ thuật: Mỹ thuật thời Trần, NXB Văn hóa 1977.
Xem Viện Nghệ thuật: Mỹ thuật thời Lê Sơ, NXB Văn hóa 1978
Xem B.A.V.H 1915: Những người bạn cố đô Huế (tập 2), Đặng Như Tùng dịch, NXB Thuận Hóa.
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])
lOMoARcPSD|16911414
thù.
Từ đặc tính tạo thành từ giới tự nhiên, rồng được người Việt Nam và Đông Á nói chung vay mượn để
thực hành hoặc chuyển tải các thông điệp tâm lý – xã hội. Với tính năng siêu việt, rồng được tin là linh vật
mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng, sự thông thái; đồng thời còn là sứ giả để gửi gắm những
ước vọng trong đời: cầu mưa, cầu phồn thực. Chính từ đó, trong dân gian xuất hiện các mô-típ rồng hút
nước biển Đông để tưới vào đất liền, cá chép vượt vũ môn hóa rồng, rồng trừng trị kẻ ác để bảo vệ chúng
dân; thế đất rồng trong phong thủy mang đến cuộc sống phồn vinh (long mạch, long hổ hội, Dinh Độc Lập
= phủ đầu rồng); hiện tượng rồng “cù dậy” (cù lao); rồng là một trong 12 con vật đại diện trong dãy Thập
nhị Địa chi; mượn tên gọi Long, Rồng để đặt tên đất (Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Long Hải, Hàm
Rồng v.v.), tên người, tên các loài động thực vật hay dụng cụ khác giống rồng (địa long = giun đất, cá mắt
rồng; long nhãn, rau long tu, cây long huyết, cỏ long đảm; đầu rồng = vòi nước v.v.); múa lân-sư-rồng
v.v..
Tương tự, rồng được khắc, họa trong nhiều công trình kiến trúc quan trọng từ kinh đô đến nhà dân, từ
đình chùa miếu mạo đến các cơ quan công quyền (truyền thống) như một thể hiện sống động của rồng
trong tâm thức người Việt. Lấy hoa văn trang trí trên đình chùa miếu mạo làm ví dụ, người Việt Nam có
xu hướng quy tụ vào nhóm Tứ linh (long-lân-quy-phụng) hơn là xu hướng đa dạng hóa các mô típ trang trí
của người Trung Hoa (rồng-phụng, bát vật, bát bảo, bát tiên quá hải, các nhân vật truyền thuyết-thần thoại,
các linh vật họ rồng v.v.. – có thể xem ở miếu Thiên Hậu Tuệ Thành số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5,
Tp. Hồ Chí Minh). Các mô típ thường thấy nhất là “lưỡng long tranh châu”, “lưỡng long triều nhật”, “tứ
linh hội tụ”, “dây lá hóa long” v.v.. Ở đất Nam Bộ, rồng còn gắn liền với cá chép, cả hai đều là loài vật
thích nước, đều là vật biểu trưng của vùng đất phương Nam đầy sông nước, như ở Tổ đình chùa Giác Lâm
(Tp. Hồ Chí Minh) chẳng hạn.
Trong ca dao tục ngữ, phần đông rồng được dùng để chuyển tải ý nghĩa cao quý, thánh thiện, nhấn
mạnh chức năng tâm lý:
- Một ngày dựa mạn thuyền rồng
Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài
- Bao giờ cá chép hoá long
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
- Thế gian được vợ hỏng chồng
Có đâu như rồng mà được cả đôi.
- Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng
Trăm khôn nghìn khéo không chồng cũng hư
- Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
Đôi khi còn dùng rồng để chuyển tại thông điệp tình yêu:
- Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây
- Tình cờ anh gặp mình đây
Như cá gặp nước, như mây gặp rồng
- Trăm năm ghi tạc chữ đồng
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai
- Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo..
Hay kinh nghiệm sống:
- Rồng đen lấy nước thì nắng; Rồng trắng lấy nước thì mưa
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (
[email protected])