Thông lệ về quản trị công ty của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD - ng...
Tài liệu Thông lệ về quản trị công ty của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD - nghiên cứu áp dụng vào công ty cổ phần ở Việt Nam Luận văn ThS. Luật
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Đặng Minh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG THÔNG
5
LỆ TỐT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY VÀ CÁC THÔNG
LỆ TỐT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY THEO OECD
1.1.
Một số vấn đề lý luận về áp dụng thông lệ tốt về quản trị
công ty
5
1.1.1.
Một số khái niệm và định nghĩa
5
1.1.2.
Bản chất của việc áp dụng các thông lệ tốt về quản trị công ty
10
1.1.3.
Cơ sở của việc áp dụng thông lệ tốt vào quản trị công ty
12
1.1.3.1. Sự tự nguyện và thích nghi áp dụng thông lệ tốt
12
1.1.3.2. Cơ chế luật hóa các thông lệ tốt vào hệ thống pháp luật
13
1.1.3.3. Các cơ chế bổ trợ khác
14
1.2.
Các thông lệ tốt về quản trị công ty của OECD
17
1.2.1.
Sự hình thành các thông lệ tốt về quản trị công ty của OECD
17
1.2.1.1. Giới thiệu chung về OECD
17
1.2.1.2. Giới thiệu chung về các nguyên tắc quản trị công ty của OECD
18
1.2.2.
Tính không bắt buộc, tính thích nghi và ý nghĩa của các
thông lệ tốt về quản trị công ty của OECD
20
1.2.3.
Một số thông lệ tốt về quản trị công ty của các tổ chức khác
24
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ
26
VIỆC ÁP DỤNG CÁC THÔNG LỆ TỐT VỀ QUẢN TRỊ
CÔNG TY VÀO CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
2.1.
Tổng quan các quy định của pháp luật Việt Nam về công ty
cổ phần
26
2.2.
Sự cần thiết và các tác động của việc áp dụng thông lệ tốt
vào quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam
30
2.2.1
Hiện trạng về quản trị công ty trong công ty cổ phần ở Việt Nam
30
2.2.2
Sự cần thiết và các tác động của việc áp dụng thông lệ tốt
vào quản trị công ty cổ phần
39
Chương 3:
47
CƠ CHẾ ÁP DỤNG THÔNG LỆ TỐT VÀO QUẢN
TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
3.1.
Cơ sở của việc áp dụng thông lệ tốt vào quản trị công ty cổ phần
47
3.2.
Thực tiễn du nhập và áp dụng thông lệ tốt vào quản trị
công ty cổ phần ở Việt Nam
49
3.3.
Các cơ chế áp dụng thông lệ tốt vào quản trị công ty cổ
phần ở Việt Nam
51
3.3.1.
Đề xuất các biện pháp và cơ chế
51
3.3.2.
Nghiên cứu tình huống áp dụng thông lệ quản trị công ty:
trường hợp Công ty cổ phần Cho thuê Máy bay Việt Nam
72
3.3.2.1. Giới thiệu Công ty cổ phần Cho thuê Máy bay Việt Nam
73
3.3.2.2. Cơ cấu quản trị Công ty cổ phần Cho thuê Máy bay Việt Nam
74
3.3.2.3. Yêu cầu và thực tiễn áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong
quản trị và điều hành hoạt động kinh doanh của Công ty
75
3.3.2.4. Sự thể chế hóa các thông lệ tốt về quản trị công ty trong
các văn bản quản lý nội bộ của Công ty cổ phần Cho thuê
Máy bay Việt Nam
79
KẾT LUẬN
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85
PHỤ LỤC
90
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB
: Ngân hàng Phát triển Châu Á
CTCP
: Công ty cổ phần
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT
: Hội đồng quản trị
OECD
: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
QTCT
: Quản trị công ty
SGDCK
: Sở Giao dịch Chứng khoán
TTCK
: Thị trường chứng khoán
TTGDCK : Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
UBCKNN : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
WB
: Ngân hàng Thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, các thông lệ tốt về quản trị công ty (QTCT) ngày càng được
đề cập đến nhiều trong quá trình hội nhập. Bên cạnh các yếu tố lợi nhuận, tốc
độ tăng trưởng, các vấn đề về hành xử của doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp, các yêu cầu về môi trường, v.v... đòi hỏi mức độ cao trong
việc áp dụng thông lệ kinh doanh chuẩn mực để phát triển trong một môi
trường đầy thách thức. Quản trị công ty với các thông lệ tốt của nó dần du
nhập vào Việt Nam như một tất yếu. Trước thực tế đó, việc tìm hiểu các thông
lệ quốc tế tốt về quản trị công ty và việc nghiên cứu áp dụng các thông lệ này
vào các công ty ở Việt Nam là rất cần thiết.
Sự hiện diện của một hệ thống quản trị công ty hiệu quả với việc áp
dụng các thông lệ tốt, trong phạm vi một công ty đơn lẻ và cao hơn nữa trong
cả nền kinh tế như một tổng thể, giúp cho sự thúc đẩy phát triển cho cả nền
kinh tế quốc gia.
Áp dụng thông lệ tốt về QTCT, đặc biệt đối với công ty cổ phần
(CTCP) ở giai đoạn ban đầu, vừa là hoạt động mang tính thử nghiệm, mở
đường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa tạo ra nhu cầu
thể chế hóa trong lĩnh vực pháp luật. Hiện nay, môi trường pháp lý cho hoạt
động này cũng còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu. Đánh giá được khả
năng và thực tiễn áp dụng thông lệ tốt về QTCT của các doanh nghiệp Việt
Nam, nhu cầu và các bước phát triển của hoạt động này trong tương lai và khả
năng điều chỉnh pháp luật đang đặt ra những vấn đề cần xem xét. Đề tài
"Thông lệ về quản trị công ty của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OECD - Nghiên cứu áp dụng vào công ty cổ phần ở Việt Nam" là một
hướng tiếp cận nhằm phân tích và đề xuất các cơ chế điều chỉnh, đặc biệt về
mặt pháp lý một cách thích hợp đối với hoạt động này, do đó, là cần thiết
trong bối cảnh hiện nay cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã có rất
nhiều nghiên cứu và báo cáo về thông lệ tốt về QTCT và thực tiễn áp dụng ở
các nền kinh tế ("Best practices in corporate governance"), nhưng các báo
cáo chủ yếu tập trung vào các quốc gia thành viên.
Ở Việt Nam, QTCT và các thông lệ tốt của nó là một khái niệm còn
chưa phổ biến. Hiện nay, các công trình nghiên cứu khoa học về áp dụng
thông lệ tốt về quản trị công ty còn rất ít, tiêu biểu nhất là luận án tiến sĩ luật
học "Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và
pháp luật Trung Quốc" của tác giả Ngô Viễn Phú. Thông lệ tốt mới chỉ được
đề cập như những tiêu chí quản trị của doanh nghiệp mang tính khuyến nghị,
chưa có các nghiên cứu sâu về cơ chế áp dụng và hướng thể chế hóa các
thông lệ này vào CTCP. Với đề tài "Thông lệ về quản trị công ty của tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế OECD - Nghiên cứu áp dụng vào công ty cổ
phần ở Việt Nam", tác giả có sự kế thừa, học hỏi kết quả của các công trình
nghiên cứu khoa học liên quan và các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế về
tình hình QTCT ở Việt Nam đã được công bố nhằm đặt ra một số yêu cầu về
xây dựng và cải thiện môi trường pháp lý cho việc áp dụng thông lệ tốt trong
loại hình CTCP ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trong bối cảnh luật pháp Việt Nam đang có
nhiều biến chuyển, sự ra đời và áp dụng của Luật Doanh nghiệp "thống nhất"
2005 với sự giới thiệu nhiều quy định và chuẩn mực mới về quản trị công ty
theo thông lệ quốc tế. Việc áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quản trị công ty
là xu hướng tất yếu khách quan. Nghiên cứu cơ chế áp dụng các thông lệ có tính
quốc tế này là mục đích của luận văn. Để thực hiện mục đích và ý tưởng này, tác
giả sử dụng một số tư liệu từ báo chí, một vài vụ việc đã được đưa ra giải
quyết bằng con đường tố tụng Tòa án, những thông tin này sẽ làm sáng tỏ cho
các nội dung nghiên cứu của đề tài. Cụ thể, đề tài nhắm đến các mục đích sau:
2
- Nêu ra và làm rõ một số vấn đề về thông lệ tốt về QTCT theo tiêu
chuẩn quốc tế, đặc biệt chú trọng đến thông lệ tốt về QTCT của OECD;
- Đánh giá các vấn đề như tính quả hiệu quả, cách thức tổ chức, những
khó khăn, trở ngại, những bảo đảm pháp lý và những đề xuất, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng thông lệ tốt trong quản trị công ty của
CTCP ở Việt Nam;
- Góp một phần nhỏ trong cung cấp thông tin mang tính tham khảo cho
cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết về những nguyên tắc,
kinh nghiệm áp dụng những chuẩn mực và thông lệ quốc tế tiên tiến về QTCT;
- Phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng thông lệ tốt qua việc làm rõ
các quy định liên quan trong Luật Doanh nghiệp 2005; Luật Chứng Khoán
2006; các luật và quy định liên quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới
hạn trong các vấn đề sau:
- Tìm hiểu một số thông lệ tốt về QTCT theo OECD; sự thể hiện các
thông lệ tốt về QTCT trong pháp luật hiện hành của Việt Nam;
- Nghiên cứu cơ chế xây dựng và áp dụng thông lệ tốt vào CTCP và kiến
nghị các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thông lệ tốt ở Việt Nam;
- Những đề xuất và giải pháp về mặt pháp lý và thực tế nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng các thông lệ tốt vào CTCP ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp phân tích quy
phạm pháp luật cụ thể, phương pháp đối chiếu pháp luật, phương pháp nghiên
cứu tình huống. Thêm vào đó, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học phổ biến như phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích,
3
đánh giá; phương pháp hệ thống; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương
pháp lịch sử...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng thông lệ tốt về QTCT và
các thông lệ tốt về QTCT theo OECD.
Chương 2: Pháp luật của Việt Nam về CTCP và việc áp dụng các
thông lệ tốt về QTCT vào CTCP ở Việt Nam.
Chương 3: Cơ chế áp dụng thông lệ tốt vào quản trị CTCP ở Việt Nam.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG THÔNG LỆ TỐT
VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY VÀ CÁC THÔNG LỆ TỐT
VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY THEO OECD
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG THÔNG LỆ TỐT VỀ
QUẢN TRỊ CÔNG TY
1.1.1. Một số khái niệm và định nghĩa
Khái niệm "quản trị công ty"
Khái niệm "quản trị công ty" trong luận văn này được tác giả lấy từ
chữ "corpoprate governance". Đã có rất nhiều định nghĩa về QTCT, theo đó,
QTCT được hiểu như tổng hợp các thiết chế và phương pháp để định hướng
cho công ty trong một khuôn khổ hoạt động nhằm hướng tới việc tạo ra tài
sản thặng dư và hài hòa hóa lợi ích nội bộ cũng như đảm bảo trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp.
Theo OECD, QTCT là một hệ thống các cơ chế, các hành vi quản lý.
Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và nghĩa vụ giữa các cổ đông,
Hội đồng quản trị (HĐQT), các chức danh quản lý và những người có lợi ích
liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách
này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện
thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó. QTCT không phải là một
khái niệm tĩnh, ngay cả trong OECD, khái niệm này cũng có sự biến chuyển
theo thời gian. Nhìn chung, theo OECD, QTCT là:
Hệ thống được xây dựng để điều khiển và kiểm soát các doanh
nghiệp. Cấu trúc quản trị công ty chỉ ra cách thức phân phối quyền
và trách nhiệm trong số những thành phần khác nhau có liên quan tới
doanh nghiệp như Hội đồng quản trị, Giám đốc, cổ đông, và những
5
chủ thể khác có liên quan. Quản trị công ty cũng giải thích rõ qui
tắc và thủ tục để ra các quyết định liên quan tới vận hành doanh
nghiệp. Bằng cách này, Quản trị công ty cũng đưa ra cấu trúc thông
qua đó người ta thiết lập các mục tiêu công ty, và cả phương tiện để
đạt được mục tiêu hay giám sát hiệu quả công việc [39].
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), QTCT là một hệ thống các yếu tố
pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công ty
có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả,
và nhờ đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tôn
trọng quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm
cơ bản nhất của một hệ thống QTCT là: (i) Tính minh bạch của các thông tin
tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý;
(ii) Bảo đảm thực thi các quyền của tất cả các cổ đông; (iii) Các thành viên
trong HĐQT có thể hoàn toàn độc lập trong việc thông qua các quyết định,
phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng người quản lý, trong việc giám
sát tính trung thực và hiệu quả hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm
người quản lý khi cần thiết.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), QTCT bao gồm một hệ
thống các quy chế xác định rõ mối quan hệ giữa các cổ đông, các chức danh
quản lý, các chủ nợ, chính phủ và những người có liên quan khác cũng như hệ
thống các cơ chế đảm bảo thực hiện các quy chế trên.
Với sự hội nhập môi trường pháp lý quốc tế, pháp luật Việt Nam về
QTCT cũng đang dần tiệm cận đến các khái niệm pháp lý gần với "chuẩn"
quốc tế. Theo đó, pháp luật Việt Nam hiện hành coi QTCT là hệ thống các
quy tắc để đảm bảo cho công ty được định hướng điều hành và được kiểm
soát một cách có hiệu quả vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan
đến công ty. Các nguyên tắc quản trị công ty cơ bản bao gồm:
- Đảm bảo một cơ cấu quản trị hiệu quả;
- Đảm bảo quyền lợi của cổ đông;
6
- Đối xử công bằng giữa các cổ đông;
- Đảm bảo vai trò của các bên có quyền lợi liên quan đến công ty;
- Minh bạch trong hoạt động của công ty;
- HĐQT và Ban kiểm soát lãnh đạo và kiểm soát công ty có hiệu quả.
Quản trị công ty có nhiều định nghĩa do cách tiếp cận khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế, QTCT được hiểu là lĩnh vực kinh tế học nghiên
cứu cách thức khuyến khích quá trình quản trị kinh doanh hiệu quả trong các
doanh nghiệp bằng việc sử dụng các cơ cấu động viên lợi ích, cấu trúc tổ chức
và quy chế - quy tắc. QTCT thường giới hạn trong phạm vi câu hỏi về cải
thiện hiệu suất tài chính, chẳng hạn, những cách thức nào mà người chủ sở
hữu doanh nghiệp khuyến khích các giám đốc của họ sử dụng để đem lại hiệu
suất đầu tư cao hơn; là cách thức mà các nhà cung cấp nguồn vốn cho doanh
nghiệp, nhà đầu tư đảm bảo thu được lợi tức từ các khoản đầu tư của họ.
Dưới góc độ trách nhiệm và các mối quan hệ của công ty, QTCT có
thể được hiểu theo nghĩa hẹp là "quan hệ của một doanh nghiệp với các cổ
đông, hoặc theo nghĩa rộng là quan hệ của doanh nghiệp với xã hội..."
(Financial Times, 1997); QTCT "nhắm tới mục tiêu thúc đẩy sự công bằng
doanh nghiệp, tính minh bạch và năng lực chịu trách nhiệm" (J. Wolfensohn,
Cựu Chủ tịch World Bank, 6/1999). QTCT bao gồm nhiều thành tố và với
nhiều định nghĩa khác nhau, nhìn một cách chung nhất có thể coi là là tập hợp
các đối tượng, mục tiêu và thể chế để đảm bảo điều tốt đẹp cho cổ đông, nhân
viên, khách hàng, chủ nợ và thúc đẩy danh tiếng, vị thế không chỉ của doanh
nghiệp mà còn của tổng thể nền kinh tế.
Quản trị công ty là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm
định hướng, vận hành và kiểm soát doanh nghiệp. Quản trị công ty cũng bao
hàm mối quan hệ giữa nhiều bên, không chỉ trong nội bộ doanh nghiệp như
các cổ đông, ban giám đốc điều hành, hội đồng quản trị mà còn những bên có
7
lợi ích liên quan bên ngoài doanh nghiệp: cơ quan quản lý nhà nước, các đối
tác kinh doanh và cả môi trường, cộng đồng, xã hội.
QTCT cần được phân biệt với quản lý tác nghiệp như: điều hành sản
xuất, quản lý marketing, quản lý nhân sự, v.v... QTCT là một khái niệm lớn
hơn, bao trùm hơn so với các nghiệp vụ quản lý tác nghiệp cụ thể. QTCT
không bao gồm các công việc quản lý sự vụ hàng ngày của doanh nghiệp, trừ
việc phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của đội ngũ quản lý. QTCT cao
hơn nữa có thể coi là một nghệ thuật dung hòa các mối quan hệ đan xen bởi
vô vàn nhóm lợi ích khác nhau trong một hệ thống; câu hỏi đặt ra cho nhà
quản trị là làm thế nào để định hướng được hệ thống đó để các nhóm lợi ích
nội bộ đạt được sự cân bằng mà không ảnh hưởng xấu đến các thiết chế tác
động từ bên ngoài.
Quản trị công ty là tập hợp các cơ chế nhằm điều khiển và
kiểm soát một công ty. Hệ thống quản trị phân định rõ quyền hạn và
nghĩa vụ của các thành viên công ty, bao gồm các cổ đông, Hội
đồng quản trị, các cán bộ quản lý và các bên có quyền lợi liên quan
khác; thiết lập các quy trình, nguyên tắc cho việc ra các quyết định
quản lý trong công ty. Mục tiêu chính của quản trị công ty là bảo vệ
đầy đủ các lợi ích tốt nhất và sự đối xử công bằng đối với tất cả các
cổ đông của công ty, vì mục tiêu của công ty là tối đa hóa giá trị cổ
đông cho tất cả các cổ đông, kể cả cổ đông trong nước và cổ đông
nước ngoài [51].
Trong CTCP có sự đan xen nhiều lợi ích, nếu coi quyền lực - lợi ích
của các cổ đông và các bên liên quan trong CTCP như một chiếc bánh, vấn đề
đặt ra cho QTCT là làm sao tăng hiệu quả phân bổ của "chiếc bánh quyền
lực" này. Đó là mối quan hệ giữa: cổ đông, người cung cấp nguyên vật liệu,
khách hàng, người cung cấp tín dụng, người lao động, các bên có lợi ích liên
quan khác.
8
Khái niệm QTCT cũng cần phải được phân biệt với các khái niệm có
nội hàm tương tự như "giám sát điều hành doanh nghiệp".
Khái niệm giám sát điều hành doanh nghiệp: có nhiều định nghĩa về
giám sát điều hành doanh nghiệp.
Giám sát điều hành doanh nghiệp đề cập đến những cách thức
mà nhà cung cấp tài chính cho doanh nghiệp đảm bảo rằng họ lấy
được tiền lãi từ khoản đầu tư của họ vào doanh nghiệp. Nói cách
khác, làm thế nào để các nhà cung cấp tài chính có thể buộc các nhà
quản lý doanh nghiệp chia trả một phần lợi nhuận lại cho họ? Làm
thế nào họ có thể chắc chắn rằng các nhà quản lý không đánh cắp
tiền vốn đầu tư của họ hoặc không dùng tiền đó đầu tư vào những
dự án không hiệu quả? Làm thế nào để họ có thể kiểm soát hoạt
động của các nhà quản lý? [45].
Khái niệm "thông lệ tốt về quản trị công ty"
Theo cách hiểu đó, khái niệm "thông lệ tốt về quản trị công ty" cũng
được tác giả vay mượn từ chữ "best practices in corporate governance" của
OECD; có thể dịch là "các thông lệ tốt nhất" sẽ chính xác hơn; trong luận văn,
tác giả sử dụng cụm từ "thông lệ tốt về quản trị công ty", "thông lệ tốt" hay
"các nguyên tắc về quản trị công ty" đều mang một khái niệm chung và đều là
đề cập đến thuật ngữ này. Dịch từ "best practice", tác giả hiểu là các thông lệ
tốt, các thói quen hay là "lệ" được coi là chuẩn mực trong quản trị công ty cổ
phần. Ở một số quốc gia phát triển có "Code of Best Practices" - Bộ quy
chuẩn về các thông lệ tốt, "Code of Ethics" - Bộ Quy chuẩn đạo đức kinh
doanh (tạm dịch), có vai trò như là sự chuẩn hóa các nguyên tắc QTCT để
hướng dẫn và khuyến nghị cho các công ty đại chúng. Việt Nam hiện nay
chưa quen với các quy phạm mang tính hướng dẫn và tùy nghi này.
Thông lệ tốt về QTCT là những lệ được áp dụng phổ biến quy định về
cơ chế, quy định thông qua đó công ty được điều hành và kiểm soát. Cơ cấu
9
quản trị công ty xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa những thành viên
khác nhau trong công ty, bao gồm các Cổ đông, HĐQT, Ban điều hành, Ban
kiểm soát và những người liên quan khác của công ty. Đồng thời, QTCT cũng
lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong công ty, qua đó
ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro không
cần thiết cho công ty. Đó là những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ
những giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng
và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về
công bố thông tin và không minh bạch.
1.1.2. Bản chất của việc áp dụng các thông lệ tốt về quản trị công ty
Thông lệ tốt, thực tế ở Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng phổ biến và
được nhận thức bởi các công ty niêm yết. Theo định nghĩa của pháp luật Việt
Nam, "công ty niêm yết" là công ty cổ phần được chấp thuận niêm yết cổ
phiếu trên Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK)/ Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán (TTGDCK) trên lãnh thổ Việt Nam;
Áp dụng thông lệ tốt được xem là chìa khóa dẫn tới sự hiệu quả trong
QTCT. Ngày nay các nhà quản trị nhận ra các quy định pháp luật đơn thuần
chưa đủ để mang lại hình mẫu công ty hiện đại được quản trị theo chuẩn quốc
tế. Từ hộ kinh doanh đến các hợp doanh, đến công ty cổ phần và các công ty
đại chúng, khi quy mô kinh doanh "phình to" ra với sự gia tăng của số lượng
cổ đông và sự mở rộng các mối quan hệ kinh doanh đồng nghĩa với sự phức
tạp về quản lý trong hàng loạt nhóm lợi ích đan xen, nếu không tuân thủ các
nguyên tắc quản trị tốt, các hệ quả xấu có thể diễn ra theo vô vàn hướng.
Sự thất bại trong quản trị công ty ở hàng loạt các công ty đại chúng
lớn ở Hoa Kỳ và châu Âu cho thấy những sự đổ vỡ đó có thể gây ra ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cuộc sống của hàng nghìn người lao động, người nghỉ hưu,
người tiết kiệm, chủ nợ, khách hàng, nhà cung cấp, đặc biệt ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển.
10
Câu chuyện Enron là minh chứng điển hình cho tác động
của mức độ minh bạch thông tin, đặc biệt thông tin về tài chính đối
với sản nghiệp thương mại của một công ty. Phản ứng của thị
trường tùy thuộc vào thông tin mà thị trường có được, và nhạy cảm
và thiết yếu nhất có lẽ là thông tin kế toán của công ty. Thiếu sự
giám sát xã hội và thiếu sự minh bạch trong thông tin, công ty có
thể lừa dối cổ đông và nhà đầu tư, kéo theo hệ lụy cho rất nhiều
người có quyền lợi liên quan khác.
"Keneth Lay là Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc công ty, vài
tháng trước khi Enron tuyên bố tình trạng phá sản tháng 12/2001,
Lay đã bán 71% số cổ phiếu của mình và thu lợi nhuận 90 triệu đô
la. Hầu hết trong 287 vụ giao dịch mua bán này không được công
bố và chỉ được tiết lộ vào tháng 2/2002. Vào đầu năm 2001, Lay
bán được 79 đô la mỗi cổ phiếu. Vào cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu
chỉ còn trị giá 0,6 đô la"
Các nhà quản lý và lãnh đạo Enron đã thiết lập ra hệ thống
tài chính nằm ngoài bảng cân đối kế toán của công ty, thiết kế ra các
kế hoạch lừa dối cổ đông công ty.
Trong vụ Enron, Công ty kiểm toán Andersen bị cáo buộc
tiêu hủy tài liệu của khách hàng, làm sai các quy định kế toán và đã
bị quản chế trong kinh doanh, bị cấm kiểm toán các công ty có phát
hành chứng khoán trên thị trường. Tổng cộng các vụ bê bối từ
khách hàng của Andersen làm cho các nhà đầu tư thiệt hại trên 300
tỷ Đô la và hàng chục ngàn người mất việc làm [54].
Câu hỏi đặt thêm ra ở đây là, vậy quản trị công ty có ý nghĩa tương tự
như vậy hay không ở các nước có nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển
đổi như là Việt Nam? Các nghiên cứu của OECD đã chỉ ra tầm quan trọng
của quản trị công ty địa phương đối với sự phát triển bền vững ở các nước
đang phát triển, cũng như các hội nghị về quản trị công ty của OECD ở các
11
nước và khu vực trên Thực tế đã cho thấy chất lượng QTCT có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự thành công của các chiến lược phát triển dài hạn
của các quốc gia.
Bản chất của việc áp dụng thông lệ tốt trong QTCT chính là sự tuân
thủ tự nguyện kết hợp với việc áp dụng pháp luật các nguyên tắc quản trị
trong điều hành hoạt động công ty. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là sự áp dụng
này do ai thực hiện, hay là chủ thể của nó? Câu trả lời chính xác nhất có lẽ là
HĐQT và các giám đốc, những người quản lý/ được ủy trị quản lý công ty, đó
là các chủ thể cơ bản của hoạt động QTCT.
1.1.3. Cơ sở của việc áp dụng thông lệ tốt vào quản trị công ty
1.1.3.1. Sự tự nguyện và thích nghi áp dụng thông lệ tốt
Với sự bành trướng của các công ty đa quốc gia, sự xuất hiện của các
siêu thực thể kinh tế này ở các quốc gia tạo ra tác động lan truyền về các thiết
chế, thông lệ quản trị tại quốc gia tiếp nhận đầu tư: các công ty nội địa "bắt
chước" hình mẫu quản trị của công ty đa quốc gia (ở mức độ nhất định), các
nhân viên được đào tạo có thể rời các công ty đa quốc gia để làm việc cho các
công ty địa phương; tác động hai chiều: các công ty địa phương buộc phải nỗ
lực hơn vì cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, trong đó, công tác quản trị công ty
được đặt ra như một trong những nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển
công ty. "Công nghệ quản lý" được xem như một trong những nguồn lực hàng
đầu của công ty.
Trong sự phức tạp của tổ chức kinh doanh, người ta hướng đến những
chuẩn mực, chuẩn tắc hành xử chung, lâu dần được chấp nhận rộng rãi và thành
lệ. Các thông lệ kinh doanh đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng điều
chỉnh các hoạt động của thị trường toàn cầu. Chúng ta đã và đang chứng kiến vô
vàn các hình thức thông lệ như Incoterms 2000, các khuyến nghị của Phòng
Thương mại Quốc tế ICC, các thông lệ tốt về quản trị công ty của OECD và của
các tổ chức nghề nghiệp. Bên cạnh luật quốc gia và điều ước quốc tế, thông lệ
12
và thực tiễn kinh doanh đang ngày càng có vai trò cực kỳ quan trọng. Hiện
nay, rất nhiều quốc gia thành viên OECD ủng hộ phương pháp tiếp cận các
quy định và thực thi bằng việc kết hợp các tiêu chuẩn minh bạch thông tin với
sự tin tưởng vào cơ chế tuân thủ tự nguyện. Điều này tạo ra cán cân thăng
bằng giữa các quy định pháp luật và các sáng kiến được thực thi tự nguyện.
Tăng cường quản trị công ty là một trong số các mục tiêu chiến lược
trong chương trình nghị sự trung hạn Hà Nội của tiến trình Hội nghị Bộ
trưởng tài chính APEC lần thứ 13. Theo đó, quản trị công ty và phát triển:
khuyến khích thực hiện các thông lệ quản trị công ty tối ưu, tăng cường khuôn
khổ pháp lý về công ty thuộc một trong các lĩnh vực chính sách ưu tiên của
chương trình này. "Du nhập quản trị công ty hiện đại, tạo kênh dẫn ngàn vạn
đồng tiền lẻ tích tụ thành những nguồn vốn lớn và lựa chọn những nhà quản
trị tài năng làm cho nguồn tài nguyên khan hiếm đó sinh sôi…" [23].
Nhìn sâu hơn vào chính sách vĩ mô, quản trị công ty có cơ sở dựa vào
sự quản trị chính phủ qua công tác lập quy và giám sát; ở chiều ngược lại,
quản trị chính phủ cũng cần có cơ sở từ quản trị công ty. Thực tế cho thấy có
sự tác động khá lớn từ các nhà quản trị công ty ở các tập đoàn kinh tế lớn tới
các chính sách của chính phủ. Đến lượt nó, các chính sách của chính phủ sẽ
có tác động, trực tiếp hoặc gián tiếp, đến hoạt động QTCT. Quản trị không chỉ
có ý nghĩa với nội bộ công ty mà xa hơn thế được áp dụng trong cả các hoạt
động của chính phủ.
1.1.3.2. Cơ chế luật hóa các thông lệ tốt vào hệ thống pháp luật
Hệ thống các quy định về QTCT của một quốc gia bao gồm các quy
định chính thức và không chính thức. Bản chất của thông lệ, với đúng như từ
ngữ nó phản ánh là các khuyến cáo, là tập quán của thương nhân, nhưng theo
nghĩa nào đó thì được, buộc phải, được khuyến cáo hay được khuyến khích áp
dụng… tức là nó có giá trị về mặt thực tiễn rất cao. Giá trị thực tiễn của thông
lệ được phản ánh ở mức độ phổ biến trong việc áp dụng của nó. Không phải
ngẫu nhiên mà Incoterm - Các điều khoản thương mại quốc tế được công nhận
13
và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới; các thông lệ QTCT của OECD được
khuyến cáo áp dụng và được rất nhiều công ty sử dụng
Theo các khuôn mẫu về QTCT của OECD, các quốc gia chuyển đổi
như Việt Nam đã thể chế hóa các thông lệ QTCT vào Luật Doanh nghiệp,
Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn. Cùng với làn sóng đầu tư nước
ngoài và sự hiện diện thương mại của các tập đoàn kinh tế lớn, các thông lệ
tốt về QTCT đang du nhập vào pháp luật nước ta như một yêu cầu nội tại.
Thông lệ tốt về QTCT có thể được đưa vào các quy định pháp luật
một cách trực tiếp (quy định thành các điều luật trong văn bản) hoặc dựa trên
các khuyến nghị của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, của các cơ quan quản
lý nhà nước. Điều đáng chú ý ở đây là, dù theo cơ chế nào: khuyến nghị hay
bắt buộc áp dụng, dưới hình thức nào: quy định pháp luật hay khuyến nghị thì
các thông lệ tốt về QTCT đang ngày càng được hiện hữu rõ ràng trong các
công ty đại chúng. Một bộ quy chế nội bộ của công ty cực kỳ chi tiết, các
chính sách công ty theo các tiêu chí minh bạch, sự phân định thẩm quyền rõ
ràng giữa các cơ quan quản trị công ty và quy trình ra quyết định được hệ
thống hóa theo các cơ chế rõ ràng… Tất cả các biểu hiện đó là các biểu trưng
rõ ràng nhất thể hiện sự áp dụng các nguyên tắc về QTCT ở các doanh nghiệp
Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ áp dụng và sự thành bại của nó trên thực tế
cũng như các thiết chế xã hội hỗ trợ sự giám sát và thực thi các nguyên tắc đó
còn đặt ra nhiều câu hỏi ở Việt Nam hiện nay.
Việc luật hóa các thông lệ tốt về QTCT đã được áp dụng rất đa dạng ở
các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Việc thể chế
hóa các thông lệ này vào hệ thống luật quốc gia tạo cho thông lệ một vỏ bọc
pháp lý và tính khả dụng cao hơn cho việc ứng dụng các thông lệ vào thực
tiễn, đặc biệt đối với các công ty đại chúng.
1.1.3.3. Các cơ chế bổ trợ khác
Như đã đề cập, QTCT được nhìn nhận như một hệ thống và không chỉ
tác động tới doanh nghiệp, mà chiều ngược lại, còn chịu sự giám sát từ các
14
nhân tố nội bộ doanh nghiệp và từ nhiều các yếu tố bên ngoài. Do đó, các
thông lệ QTCT đương nhiên chịu sự tác động của rất nhiều thiết chế ngoại vi.
Đó có thể là ngân hàng trong mối quan hệ với chủ nợ, là cơ quan báo chí
trong mối quan hệ với giới truyền thông, trong mối quan hệ kiểm toán là cơ
quan kiểm toán nhà nước hoặc các công ty kiểm toán độc lập, là nhà cung
cấp, nhà tiêu thụ chính trong mối quan hệ với các cổ đông chiến lược… Đó
cũng là các nội dung cơ bản mà các thông lệ QTCT đề cập đến.
Như vậy, việc áp dụng thông lệ tốt về QTCT không chỉ chịu tác động
đơn thuần từ các văn bản luật do Nhà nước ban hành, nó còn chịu vô vàn yếu
tố tác động. Một xã hội thượng tôn pháp luật cũng tạo ra vô vàn cơ chế giám
sát, cả về khía cạnh cưỡng chế nhà nước và các sức ép vô hình từ về mặt văn
hóa, đạo đức kinh doanh, mối quan hệ với truyền thông và dư luận… Tất cả
tạo ra các luồng gió thổi vào công ty, càng có tính "đại chúng", công ty càng
phải tuân thủ các yếu tố giám sát và kiềm chế này, càng phải có tính minh
bạch cao; nếu đi đúng hướng với các sự tác động đó, công ty sẽ phát triển bền
vững trong xã hội và điều ngược lại sẽ xảy ra khi công ty đi ngược lại với các
chuẩn mực pháp lý và các chuẩn mực xã hội khác. QTCT, do đó, phải được
xem là một nghệ thuật dung hòa các tác động đó. QTCT không chỉ có ý nghĩa
đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà lập chính sách đang ngày càng
ý thức nhiều hơn sự đóng góp của việc QTCT tốt trong việc tạo ra sự ổn định
cho thị trường tài chính, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Các công ty đã có cái
nhìn sâu sắc hơn về việc chất lượng QTCT ảnh hưởng như thế nào đến khả
năng cạnh tranh của họ. Các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư là tổ chức
ngày càng nhận ra họ có vai trò quan trọng trong thực thi các tiêu chuẩn về
QTCT, qua đó bảo đảm được hiệu quả của các khoản đầu tư của mình.
Các nguyên tắc QTCT đã được phát triển ở nhiều quốc gia khác nhau
và được áp dụng ở các thị trường chứng khoán, các công ty, các nhà đầu tư tổ
chức và các hiệp hội với sự hỗ trợ từ nhà nước và các tổ chức liên quan. Như
một quy luật bất thành văn, các nguyên tắc này phù hợp với các kiến nghị áp
15