Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự...

Tài liệu Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

.PDF
106
335
51

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VIỆT NGA THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ néi - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 1 KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VIỆT NGA THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình Hµ néi - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ 7 XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và mối quan hệ giữa thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 7 1.1.1. Khái niệm thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 7 1.1.2. Đặc điểm của thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 20 1.1.3. Ý nghĩa của thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 24 1.1.4. Mối quan hệ giữa thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 26 1.2. 27 Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự từ năm 1945 đến nay 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 27 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 28 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 30 1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 33 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG 36 DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự 36 2.1.1. Điều kiện thụ lý phúc thẩm 36 2.1.2. Trình tự thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự 42 3 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 44 2.2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 44 2.2.2. Những công việc được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 49 2.2.3. Các quyết định trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 60 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 68 LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 68 3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 68 3.1.2. Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 76 3.1.3. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 83 3.2. Các kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 86 3.2.1. Các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 86 3.2.2. Các kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 92 95 KẾT LUẬN 4 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự CBXXPT : Chuẩn bị xét xử phúc thẩm TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự VKS : Viện kiểm sát 5 97 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Xét xử là một hoạt động chuyên biệt của Tòa án. Để hoạt động xét xử được đúng đắn thì ngoài việc yêu cầu Tòa án tuân thủ các quy định về luật nội dung còn đòi hỏi phải tuân thủ các quy định về luật hình thức hay còn gọi là luật tố tụng. Để các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm chặt chẽ, trong những năm trước đây Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996… Tuy vậy, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các tranh chấp trong quan hệ dân sự không ngừng phát sinh đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) để bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp. Để cụ hóa các nội dung chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp ở Việt Nam và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, ngày 15/06/2004 tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật TTDS Việt Nam. Theo quy định tại Điều 17 BLTTDS, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: Cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Mỗi cấp xét xử đều có một vị trí, ý nghĩa riêng. Nếu như xét xử sơ thẩm là hoạt động đầu tiên của Tòa án cấp sơ thẩm khi đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết và bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được thi hành nếu các bên liên quan không kháng cáo, kháng nghị thì xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bản án, quyết định phúc thẩm có tính chất đặc biệt quan trọng vì bản án có hiệu lực pháp luật ngay. Vì 6 vậy, để bản án phúc thẩm được đảm bảo thi hành ngay ngoài yêu cầu đúng luật thì bản án đó còn được coi là một "chuẩn mực" cho Tòa án cấp sơ thẩm học hỏi thì một trong những công việc đầu tiên đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn của bản án của Tòa án cấp phúc thẩm là thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm (CBXXPT). Thực tiễn xét xử cho thấy, những Tòa án cấp phúc thẩm nào coi trọng việc thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì kết quả bản án được ban hành khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Ngược lại, những Tòa án cấp phúc thẩm nào chưa coi trọng việc thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự thì kết quả là bản án, quyết định phúc thẩm được ban hành còn thiếu tính đúng đắn. Ngoài ra, các quy định của pháp luật TTDS về thụ lý và CBXXPT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Ngày 29/03/2011 tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS trong đó có những quy định sửa đổi, bổ sung về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự nhưng chưa giải quyết hết những bất cập này. Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự để giải quyết những bất cập còn tồn tại trong lúc này là cần thiết. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: "Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự" nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về phúc thẩm dân sự, trong đó có đề cập đến thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. Về đề tài nghiên cứu khoa học có công trình nghiên cứu cấp Bộ "Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự" do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; công trình nghiên cứu cấp Bộ "Những quan điểm cơ bản về Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" do Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia thực hiện năm 2001; công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao" do 7 TANDTC thực hiện năm 2006. Về giáo trình, có Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2011; Giáo trình Luật TTDS, của Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2007; Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2011. Về các bài viết trên các báo, tạp chí khoa học pháp lý gồm có: Bài "Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự", của Nguyễn Việt Cường, đăng trên Tạp chí Đặc san Nghề luật, số 10, 1/2005; bài "Chế định phúc thẩm vụ án dân sự", của Nguyễn Thị Thu Hà, đăng trên Đặc san về BLTTDS Tạp chí luật học năm 2005; bài "Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án như thế nào khi tòa cấp sơ thẩm triệu tập sai tư cách người tham gia tố tụng", của Nguyễn Đình Huề, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Kỳ 2, số 5/2005; bài "Quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS nước ta", của Tống Công Cường, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số tháng 6/2006; bài "Thực hiện chế độ hai cấp xét xử cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự", của Nguyễn Quang Hiền, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử v.v… Trong quá trình xây dựng và sau khi Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS được ban hành đã có nhiều cuộc hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS và các bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý có đề cập đến vấn đề này như Hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự do TANDTC tổ chức tại Sa Pa ngày 29 và 30/01/2010; bài "Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong việc sửa đổi, bổ sung được thể hiện trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ", của Phạm Quý Tỵ, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 12/2011; bài "Thu thập chứng cứ và chứng minh theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 12/2011 v.v… Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn còn nhiều vấn đề về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự chưa được làm rõ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự; nội dung các quy định của pháp luật Việt 8 Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và việc thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm. Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và khảo sát việc thực hiện các quy định này tại các Tòa án cấp phúc thẩm Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và thực hiện các quy định này tại các Tòa án cấp phúc thẩm Việt Nam. Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên do giới hạn của luận văn thạc sĩ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề sau: - Một số vấn đề lý luận cơ bản về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự; mối quan hệ giữa thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự và CBXXPT vụ án dân sự. - Các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự và CBXXPT vụ án dân sự mà chủ yếu là các quy định của BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và Nghị quyết hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTDS về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Riêng đối với các quyết định được đưa ra trong thời hạn CBXXPT vụ án dân sự thì khóa luận chỉ nghiên cứu, phân tích về quyết định tạm đình 9 chỉ, quyết định đình chỉ, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Còn quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được nghiên cứu ở một công trình khoa học khác. - Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự tại các Tòa án cấp phúc thẩm (chủ yếu là TAND thành phố Hà Nội) trong những năm gần đây. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh v.v... để thực hiện đề tài. 6. Những điểm mới về khoa học của luận văn Đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về những vấn đề liên quan đến thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự giúp các độc giả, đặc biệt là những người đang làm công tác thực tiễn hiểu biết sâu sắc hơn về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. Những điểm mới về khoa học của luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau: - Hoàn thiện khái niệm thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự; chỉ rõ đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. - Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. - Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án. 10 - Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự và kiến nghị. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Vì vậy, khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất của từng loại vụ việc mà Tòa án giải quyết vụ việc theo thủ tục TTDS, tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính. Trong đó, TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải quyết một vụ việc dân sự. Pháp luật của đa số các nước quan niệm vụ việc dân sự là các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động, theo đó các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động được gọi là vụ án dân sự; các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động được gọi là việc dân sự. Như vậy, khi các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác thì Tòa án phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định để ra một phán quyết công minh, chính xác và đúng pháp luật. Tuy nhiên, bản án, quyết định của Tòa án vì nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan vẫn có thể có những thiếu sót, sai lầm. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời khắc phục những sai lầm có thể có trong các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thì các nước đều áp dụng "nguyên tắc xét xử vụ án theo nhiều cấp và tổ chức Tòa án theo thứ bậc" [14, tr. 12]. Tuy nhiên, các 12 nước thực hiện nguyên tắc này không hoàn toàn giống nhau. Các nước theo truyền thống pháp luật dân sự áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, các nước theo truyền thống pháp luật án lệ áp dụng nguyên tắc chung thẩm (Principle of Finality) [9, tr. 12]. Đối với các nước áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử như Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga… thì sau khi Tòa án sơ thẩm tuyên án, bản án quyết định chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn một thời hạn để các đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát (Viện công tố) (VKS) kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm trừ trường hợp pháp luật quy định bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét lại vụ án về vấn đề sự kiện và luật pháp. Do đó, các chứng cứ mới do đương sự xuất trình có thể được chấp nhận ở Tòa án cấp phúc thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm có thể ra bản án mới. Ở các nước áp dụng nguyên tắc chung thẩm như Anh, Mĩ… thì các bản án, quyết định sau khi ban hành sẽ mặc nhiên được thừa nhận là giải pháp cuối cùng và có hiệu lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự thì VKS không được kháng nghị phúc thẩm mà chỉ có đương sự có quyền kháng cáo phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên sửa chữa những sai lầm có thể có của Tòa án cấp dưới. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm "chỉ xét lại về mặt pháp lý của vụ án chứ không xét đến các vấn đề sự kiện" [9, tr. 68]. Tòa án cấp phúc thẩm ở những nước này rất ít khi hoặc không tiếp nhận và xem xét các chứng cứ mới của vụ kiện mà chủ yếu thực hiện chức năng áp dụng và giải thích pháp luật, có nghĩa là Tòa án cấp phúc thẩm chỉ sửa lại những lỗi, sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm và trả hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm nếu tìm ra lỗi mà không xem xét để ra một quyết định mới để thay thế quyết định của tòa cấp dưới. Ở Việt Nam, nguyên tắc xét xử vụ án theo nhiều cấp được thực hiện khác nhau ở từng giai đoạn lịch sử. Nhưng, hiện nay theo quy định tại Điều 17 13 của BLTTDS, chúng ta áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo đó, tất cả các bản án, quyết định sơ thẩm sau khi tuyên đều chưa có hiệu lực pháp luật và có thể bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Khi đương sự kháng cáo, VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì Tòa án cấp trên sẽ thụ lý để xét xử lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm. Từ những phân tích trên có thể thấy, ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán, truyền thống lập pháp mà nội dung cụ thể của chế định phúc thẩm vụ án dân sự có những điểm khác nhau. Vậy, về mặt lý luận, khái niệm phúc thẩm vụ án dân sự được hiểu như thế nào? Dưới góc độ ngôn ngữ học, "Phúc thẩm" theo Từ điển Tiếng Việt là "Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án" [10, tr. 790]. Theo cách giải thích này thì phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm khi có sự chống án. Dưới góc độ pháp lý, phúc thẩm được giải thích thông qua thuật ngữ kháng án. Trong từ điển luật học Pháp, kháng án (Appel) là một hình thức kháng án theo thông luật nhằm cải sửa hoặc hủy bỏ, theo đó bên kháng án đưa vụ kiện ra trước một Tòa án cấp cao hơn, thậm chí có thể đưa ra trước cùng một Tòa án với một hội đồng xét xử khác [55, tr. 41]. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, kháng án (appeal) có nghĩa là tất cả các thỉnh cầu tới một cấp thẩm cao hơn (kháng cáo và thượng tố giám đốc thẩm) [47, tr. 34]. Qua việc giải thích thuật ngữ kháng án, có thể hiểu phúc thẩm là biện pháp Tòa án cấp cao hơn xem xét lại vụ án đã được giải quyết ở của Tòa án cấp dưới khi có sự chống án (kháng cáo hoặc thượng tố giám đốc thẩm). Ngoài ra, Trong Từ điển Luật học Việt Nam, "phúc thẩm là xét lại vụ án, quyết định đã được Tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm, nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo hoặc kháng nghị" [53, tr. 626]. Như vậy, có thể thấy dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ phúc thẩm cũng được hiểu không hoàn toàn giống nhau. 14 Ở Việt Nam, trong lĩnh vực khoa học pháp lý, khái niệm phúc thẩm vụ án dân sự được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau là "giai đoạn phúc thẩm", "chế định phúc thẩm", "thủ tục xét xử phúc thẩm" và "cấp xét xử phúc thẩm". Dưới góc độ là giai đoạn thì phúc thẩm vụ án dân sự là giai đoạn của quá trình TTDS, trong đó Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm kiểm tra tính hợp pháp, tính căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm, khắc phục kịp thời sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước [9, tr. 24-25]. Dưới góc độ là chế định pháp luật thì phúc thẩm vụ án dân sự được hiểu là một hệ thống những qui tắc xử sự do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết lại vụ án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Dưới góc độ là thủ tục xét xử thì phúc thẩm vụ án dân sự được hiểu là thủ tục xét xử do Tòa án cấp trên trực tiếp tiến hành nhằm xét xử lại vụ án dân sự mà bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp dưới khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Dưới góc độ là một cấp xét xử, phúc thẩm vụ án dân sự là cấp xét xử thứ hai, theo đó Tòa án có thẩm quyền xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục kịp thời sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước [9, tr. 26]. 15 Như vậy, phúc thẩm vụ án dân sự được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau song tất cả đều coi phúc thẩm vụ án dân sự là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Do đó, phúc thẩm vụ án dân sự có đặc điểm cơ bản sau: - Tính chất của phúc thẩm là việc xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. - Căn cứ phát sinh phúc thẩm dựa trên các kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của VKS. - Đối tượng của phúc thẩm là vụ án dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. - Thẩm quyền xét xử phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. - Phạm vi xét xử phúc thẩm phải trong phạm vi nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, đối với những vấn đề chưa được đưa ra xét xử ở cấp sơ thẩm hoặc đã xét xử ở cấp sơ thẩm mà không bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng không có thẩm quyền xét xử lại. - Nhiệm vụ của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thực tế, thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự là những khái niệm pháp lý phức tạp. Mỗi khái niệm bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, mà mỗi yếu tố cấu thành đó lại có ý nghĩa pháp lý riêng biệt nhưng có mối liên quan mật thiết với nhau. Để tìm hiểu khái niệm thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự, chúng ta cần làm rõ từng yếu tố cấu thành của nó. 16 1.1.1.1. Khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì "thụ lý" là "việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận giải quyết vụ kiện…" [15, tr. 961]. Theo cách giải thích này thì, thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là việc Tòa án cấp phúc thẩm bắt đầu nhận trách nhiệm giải quyết lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm. Trong khoa học pháp lý, khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự có thể được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau là thủ tục TTDS hay hoạt động TTDS. Dưới góc độ thủ tục TTDS: Thủ tục tố tụng là "cách thức, trình tự và nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo các quy định của pháp luật" [53, tr. 729]. Từ đó, thủ tục TTDS được hiểu là cách thức, trình tự tiến hành xem xét, giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS. Thủ tục TTDS bao gồm thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự, trong đó thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là một thủ tục của thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự. Thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự do tòa án cấp phúc thẩm tiến hành nhằm tiếp nhận vụ án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị hợp pháp theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa rằng, thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự chỉ được thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là điểm khác biệt so với thủ tục thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thủ tục thụ lý vụ án dân sự khi việc khởi kiện vụ án dân sự tuân thủ đúng và đủ các điều kiện khởi kiện (về nội dung, về hình thức khởi kiện và tạm ứng án phí). Phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai nên để kiểm tra được tính hợp pháp và tính có căn cứ trong bản án, quyết định sơ thẩm thì phúc thẩm trước tiên phải dựa trên hồ sơ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, thụ lý phúc thẩm vụ án 17 dân sự bao gồm thủ tục nhận hồ sơ vụ án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm và thủ tục vào sổ thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự. Các thủ tục này đều phải trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS. Vậy, dưới góc độ thủ tục TTDS, thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là cách thức, trình tự Tòa án cấp phúc thẩm tiếp nhận vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhằm xét xử lại vụ án dân sự. Dưới góc độ hoạt động TTDS: hoạt động TTDS là hoạt động của các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự [4, tr. 13]. Hoạt động này được thực hiện từ khi khởi kiện cho đến khi Tòa án ra được bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong đó, thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm tiếp nhận vụ án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động khởi điểm làm phát sinh các quan hệ tố tụng trong quá trình Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm đồng thời chính thức ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể vào quá trình này. Đây là dấu hiệu để phân biệt với hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm. Hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp cơ thẩm là hoạt động tố tụng đầu tiên của sơ thẩm dân sự, còn hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động đầu tiên của Tòa án cấp phúc thẩm. Nếu như hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm là tiền đề để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành các hoạt động tiếp theo như chuẩn bị xét xử sơ thẩm, xét xử sơ thẩm và ra bản án, quyết định sơ thẩm thì hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo trong quá trình phúc thẩm vụ án dân sự. Nếu không có 18 hoạt động thụ lý vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ không có các hoạt động khác như chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, xét xử phúc thẩm… Như vậy, để tạo tiền đề cho việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả thì hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự phải tuân theo thể thức, trình tự do pháp luật TTDS quy định. Vậy, dưới góc độ là hoạt động tố tụng thì thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động TTDS của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc tiếp nhận vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhằm xét xử lại vụ án dân sự. 1.1.1.2. Khái niệm chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự Kể từ thời điểm Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án dân sự, sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm và bắt đầu giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm được các quốc gia quy định khác nhau. Ở các nước theo truyền thống pháp luật án lệ như Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa Kì… do: Tính chất phúc thẩm vụ kiện là Tòa phúc thẩm chỉ xem xét lại vụ kiện đúng như đã diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận việc tiếp nhận và xem xét các chứng cứ mới của vụ kiện, không tiến hành mở một phiên tòa mới và khác đối với vụ kiện đó. Do đó, yêu cầu của các bên đương sự xin phúc thẩm là phải trình cho Tòa án cấp phúc thẩm tòa bộ chứng cứ của vụ kiện như đã trình cho Tòa án cấp sơ thẩm (bản sao) [31, tr. 25]. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại về mặt pháp lý, giải thích pháp luật mà không tiến hành xét xử. Do đó, hoạt động CBXXPT vụ án dân sự ở hệ thống này có thể hiểu bao gồm những công việc nhận đơn yêu cầu 19 kháng cáo, tiếp nhận bản sao chứng cứ, nhận hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ở các nước theo truyền thống pháp luật dân sự như Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga…: Quyền phúc thẩm bao gồm cả quyền về xem xét lại những sự kiện thực tế cũng như những vấn đề luật pháp. Mặc dù khuynh hướng chung là dựa vào những tài liệu do cấp dưới chuẩn bị như là cơ sở thực tế cho việc xem xét lại vụ án, tại nhiều Tòa án, các bên có quyền đưa ra chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm. Tòa phúc thẩm sẽ tự mình xem xét tất cả các chứng cứ và thực hiện việc cân nhắc độc lập xem sự thật là gì và tầm quan trọng của chúng như thế nào, Tòa cũng được yêu cầu chuẩn bị ý kiến riêng có lập luận đầy đủ, trong đó bàn luận cả những vấn đề về sự thật và luật pháp [31, tr. 67-68]. Do đó, ở các nước này, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ tiếp nhận hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án mà hoạt động cung cấp và thu thập chứng cứ cũng được thực hiện trong giai đoạn này. Ở Việt Nam, tính chất của phúc thẩm là việc xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nên để thực hiện được việc giải quyết lại vụ án dân sự nhanh chóng và đúng đắn thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải tiến hành những công việc cần thiết trước khi đưa vụ án ra xét xử lại tại phiên tòa phúc thẩm như nghiên cứu đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị, nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển đến, triệu tập những người tham gia tố tụng đến tham gia phiên tòa, yêu cầu đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ; thu thập bổ sung chứng cứ… Với những quy định khác nhau trong pháp luật TTDS của các quốc gia về CBXXPT vụ án dân sự như vậy thì về mặt lý luận, khái niệm CBXXPT vụ án dân sự được hiểu như thế nào? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan