Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thừa kế thế vị theo quy định của bộ luật dân sự việt nam năm 2005...

Tài liệu Thừa kế thế vị theo quy định của bộ luật dân sự việt nam năm 2005

.PDF
87
103
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VIẾT GIANG THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VIẾT GIANG THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập HÀ NỘI - 2013 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ViÕt Giang 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ THẾ VỊ 6 1.1. Khái quát chung về thừa kế 6 1.1.1. Khái niệm thừa kế 6 1.1.2. Quyền thừa kế 7 1.1.3. Quan hệ pháp luật thừa kế 9 1.2. Khái niệm thừa kế thế vị và những trường hợp phát sinh thừa kế thế vị 10 1.2.1. Khái niệm thừa kế thế vị 10 1.2.2. Những trường hợp phát sinh thừa kế thế vị 11 1.3. Khái quát quá trình phát triển các quy định pháp luật về thừa kế thế vị ở Việt Nam 12 1.3.1. Giai đoạn trước năm 2005 12 1.3.2. Giai đoạn sau năm 2005 16 Chương 2: THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT 18 DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005 2.1. Nguyên tắc và điều kiện hưởng thừa kế thế vị 18 2.1.1. Nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị 18 2.1.1.1. Thừa kế thế vị không phát sinh trên cơ sở thừa kế theo di chúc 18 2.1.1.2. Người thừa kế phải là con cháu trực hệ của người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản 19 2.1.1.3. Người thừa kế thế vị phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa 20 4 kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết 2.1.1.4. Người thừa kế thế vị chỉ được hưởng phần di sản mà bố, mẹ họ được hưởng nếu còn sống 22 2.1.2. Điều kiện hưởng thừa kế thế vị 23 2.2. Quan hệ pháp luật thừa kế thế vị 24 2.2.1. Chủ thể thừa kế thế vị 24 2.2.2. Di sản thừa kế thế vị 29 2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế thế vị 31 2.3. Các trường hợp được hưởng và loại trừ thừa kế thế vị 35 2.3.1. Các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị 35 2.3.1.1. Thừa kế thế vị theo quan hệ huyết thống 35 2.3.1.2. Thừa kế thế vị theo quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng 37 2.3.2. Các trường hợp loại trừ thừa kế thế vị 42 2.3.2.1. Trường hợp vi phạm khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005 42 2.3.2.2. Trường hợp người thừa kế thế vị từ chối nhận di sản 48 2.3.2.3. Trường hợp người thừa kế thế vị bị truất quyền hưởng di sản 51 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP 55 LUẬT VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 3.1. Thực trạng áp dụng các quy định về thừa kế thế vị ở nước ta 55 3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005 57 3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị 57 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005 72 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế định thừa kế là một chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, được Quốc hội khóa 11 Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Chế định này góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào quan hệ thừa kế - một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng lớn và đa dạng, phong phú thì cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp về thừa kế di sản do người chết để lại. Thừa kế có hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế thế vị là một trường hợp phát sinh từ thừa kế theo pháp luật. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có quy định về thừa kế thế vị, nhưng trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp thì vấn đề giải quyết các vụ án liên quan đến thừa kế thế vị vẫn là một vấn đề phức tạp mà không phải lúc nào Tòa án cũng có thể giải quyết được "thấu tình đạt lý". Sở dĩ còn tồn tại những vấn đề này là do thừa kế thế vị liên quan đến nhiều mối quan hệ như: quan hệ giữa cha mẹ với con đẻ, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, quan hệ giữa con riêng của vợ chồng với bố dượng, mẹ kế… nên việc hiểu và áp dụng những quy định này trong việc giải quyết phân chia di sản liên quan đến vấn đề thừa kế thế vị trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập về cả lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005" làm luận văn thạc sĩ luật học để đáp ứng được yêu cầu về tính cấp thiết trong lý luận và trong thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật. Trong một chừng mực nhất định, tác giả mong muốn từ việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ thêm vấn đề về hiệu lực 6 điều chỉnh cũng như góp phần hoàn thiện hơn các quy phạm pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thừa kế thế vị là một nội dung quan trọng trong các quy định pháp luật về thừa kế. Liên quan đến vấn đề này từ trước đến nay đã nhiều cuốn sách, công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau của các tác giả như: Luật sư Lê Kim Quế có cuốn sách "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế"; Tiến sĩ Đinh Văn Thanh và Luật sư Trần Hữu Biền có cuốn sách "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế"; Phó giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Tập có 2 cuốn sách "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến nay" và "Luật thừa kế Việt Nam"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện có cuốn sách "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Bắc về "Vấn đề thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ của Chế Mỹ Phương Đài về "Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ của Lê Đức Bền "Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam"... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành luật như: Phó giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Tập có bài "Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại", Tạp chí Toà án số 24/2005; tác giả Thái Công Khanh có bài "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Điều 679 Bộ luật Dân sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16 năm 2006… Nhìn chung, những công trình nghiên cứu và các bài viết của các tác giả nêu trên đều có ý nghĩa nhất định trong việc hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế, nhưng chủ yếu mới dừng lại ở phạm vi phân tích một số quy định về thừa kế trong Pháp lệnh thừa kế năm 1990 hay trong Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005, còn về vấn đề thừa kế thế vị thì các công trình, bài viết trên mới chỉ đề cập đến như một phần của công trình nghiên cứu hay chỉ xem xét ở một khía cạnh, góc độ nhỏ 7 lẻ, cá biệt mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về nội dung quy định về thừa kế thế vị. Việc chọn đề tài "Thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005" để làm luận văn thạc sĩ luật học không có sự trùng lặp nào đối với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố. Tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung quy định về thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định này, từ đó đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp để góp phần hoàn thiện hơn những quy định pháp luật về thừa kế thế vị. 3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn - Làm rõ một số vấn đề lý luận về thừa kế thế vị: khái niệm, chủ thể thừa kế thế vị, di sản thừa kế thế vị, quyền và nghĩa vụ của người thừa kế thế vị, điều kiện và nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị. - Làm rõ sự hình thành và phát triển của các quy định về thừa kế thế vị trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Phân tích các trường hợp được thừa kế thế vị và các trường hợp không được thừa kế thế vị, so sánh các quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005 với các quy định pháp luật trước đó về vấn đề này để thấy được tính kế thừa, phát triển cũng như tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng các quy định về thừa kế thế vị. - Làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị. - Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định pháp luật về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005, có so sánh với các quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề thừa kế thế vị ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, tập 8 trung nghiên cứu các quy định từ năm 1995 đến nay, đặc biệt là quy định về thừa kế thế vị của Bộ luật Dân sự năm 2005. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập. Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp... 6. Tính mới và những đóng góp của luận văn Trên cơ sở phân tích nội dung quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005, có so sánh với các quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề thừa kế thế vị ở Việt Nam từ trước đó, tác giả nêu ra những bất cập còn tồn tại trong quy định về thừa kế thế vị trong pháp luật hiện hành, đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế thế vị. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nói chung và quy định về thừa kế thế vị nói riêng. Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế thế vị sẽ có ý nghĩa thiết thực, giúp cho những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế thế vị một cách đúng đắn nhất, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 9 Chương 1: Một số vấn đề về thừa kế và thừa kế thế vị. Chương 2: Thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005. Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế thế vị và phương hướng hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự năm 2005. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ THẾ VỊ 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ 1.1.1. Khái niệm thừa kế Mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Thừa kế là tất yếu của xã hội tư hữu. Trong nghiên cứu của mình Ph.Ăngghen đã viết: Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với mẹ [1, tr. 79]. Theo quan niệm truyền thống, thừa kế được hiểu là việc người đang còn sống thừa hưởng tài sản của người đã chết. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: "Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho" [14, tr. 972]. Theo Từ điển Luật học thì: "Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật" [45, tr. 486]. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại Học Luật Hà Nội định nghĩa: "Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống" [42, tr. 123]. Như vậy, theo cách hiểu, định nghĩa trên thì bản chất của thừa kế chính là sự dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản của người chết cho tổ chức, cá nhân có quyền hưởng thừa kế và người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đó là sự tiếp nối giữa việc để lại di sản của người đã chết với việc nhận di sản của người còn sống và sự tiếp nối này luôn làm phát sinh các quan hệ sở hữu về tài sản. Do 11 vậy, thừa kế và sở hữu luôn tồn tại song song, gắn bó và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thừa kế là một phạm trù kinh tế vì nó luôn gắn với tài sản và quyền sở hữu tài sản. Thừa kế cũng là một phạm trù pháp luật vì nó phản ánh và điều chỉnh quan hệ xã hội trong việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang người còn sống. Phạm trù pháp luật và kinh tế lại mang tính lịch sử, phản ánh đầy đủ bản chất của xã hội tư hữu, có giai cấp, nên thừa kế xuất hiện, tồn tại cùng với sự xuất hiện, phát triển của xã hội có giai cấp và dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản (từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến xã hội hiện đại ngày nay), thể hiện quan điểm của một giai cấp nhất định trong xã hội có Nhà nước. Nhà nước điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong xã hội bằng pháp luật, trong đó có quan hệ thừa kế. 1.1.2. Quyền thừa kế Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền thừa kế có mối quan hệ chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân. Quyền sở hữu của cá nhân là cơ sở của việc thừa kế. Hình thức sở hữu quyết định việc thừa kế trong xã hội. Quyền sở hữu là cơ sở của quyền thừa kế, còn quyền thừa kế lại chính là căn cứ xác lập quyền sở hữu mới. Quyền sở hữu và quyền thừa kế song song tồn tại trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, nhưng thông thường thì pháp luật quy định cá nhân có quyền sở hữu trước, sau đó pháp luật mới quy định cho họ quyền thừa kế. Trong chế độ xã hội phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội nên di sản họ truyền lại cho con cháu không những là quyền lực kinh tế mà còn cả quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của giai cấp đó đối với giai cấp khác. Ở nước ta, quyền thừa kế được coi là một phương tiện bảo vệ quyền sở hữu của công dân, củng cố quan hệ hôn nhân gia đình... Như vậy, có thể nói quyền thừa kế là một bộ phận của chế định thừa kế. Nó bảo hộ quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản của mình. Thừa kế là 12 sự chuyển dịch tài sản từ người chết sang người sống. Do đó, về lý luận thì quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền và nghĩa vụ, phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Theo nghĩa hẹp thì quyền thừa kế là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản. Theo đó công dân có quyền để lại tài sản cho người khác, nhận tài sản, từ chối nhận di sản, khởi kiện hoặc không khởi kiện về thừa kế. Tuy nhiên, quyền thừa kế của công dân theo nghĩa hẹp này phải phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Quyền thừa kế vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách quan. Theo nghĩa chủ quan: quyền thừa kế chính là quyền của con người, quyền của người để lại di sản và quyền của người hưởng di sản. Người để lại di sản có quyền lập di chúc, chỉ định người hưởng di sản, còn người hưởng di sản có quyền nhận di sản hoặc từ chối nhận di sản. Theo nghĩa khách quan: quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh quan hệ giữa người để lại di sản với người hưởng di sản. Quyền thừa kế ở phương diện khách quan mang tính quyết định đối với quyền thừa kế ở phương diện chủ quan. Nghĩa là, pháp luật quy định cho cá nhân (chủ thể) trong quan hệ thừa kế được hưởng các quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Mỗi nhà nước có những quy định về vấn đề sở hữu và thừa kế khác nhau. Quy định về thừa kế do quy định về sở hữu quyết định và thường tồn tại một cách tương ứng với nhau. Mối quan hệ giữa sở hữu và thừa kế phát sinh trong xã hội có liên quan mật thiết với nhau, song song tồn tại cùng nhau. Do đó, quyền sở hữu và quyền thừa kế cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết và chặt chẽ. Pháp luật quy định chế độ sở hữu về tài sản của cá nhân, quy định quyền của cá nhân đối với tài sản của mình, trong đó có quyền thừa kế. Vì 13 vậy, quyền thừa kế luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc, luôn là phương tiện để duy trì và củng cố quyền sở hữu. Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [27]. Như vậy, quy định này tôn trọng quyền tự định đoạt của cá nhân, trước khi chết họ có quyền định đoạt tài sản của mình theo ý chí của họ thông qua việc lập di chúc. Trường hợp người đó không thể hiện ý chí để định đoạt tài sản hoặc sự định đoạt đó không phù hợp pháp luật thì di sản sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Pháp luật quy định quyền để lại thừa kế của cá nhân, đồng thời quy định bất kỳ một cá nhân nào cũng có quyền hưởng di sản thừa kế. Việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế là hai mặt đối lập nhưng thống nhất với nhau và là hai yếu tố cấu thành nên quyền thừa kế, phản ánh quá trình dịch chuyển tài sản của người chết sang người còn sống. 1.1.3. Quan hệ pháp luật thừa kế Quan hệ pháp luật thừa kế là một loại quan hệ pháp luật, nhưng quan hệ pháp luật thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự về tài sản giữa người có quyền hưởng di sản và người không có quyền hưởng di sản. Do đó, quan hệ pháp luật thừa kế cũng có chủ thể, khách thể và nội dung của nó. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật thừa kế đều hướng tới khách thể của quan hệ này là di sản do người chết để lại và các chủ thể này đều có những quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Dựa trên các quy định pháp luật về thừa kế thì trong mỗi quan hệ pháp luật thừa kế, các chủ thể tham gia vào quan hệ này lại có các quyền và nghĩa vụ khác nhau, phụ thuộc vào di sản do người chết để lại hay nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (nếu có). Do đó, di sản có vai trò quan trọng trong quan hệ pháp luật thừa kế, là đối tượng để các chủ thể hướng tới và là cơ sở để xác định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ này. Theo quy định tại Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005 14 thì: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác" [27], mà theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [27]. Do đó, di sản bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung với người khác, là toàn bộ vật, tiền, giấy tờ có giá thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết, quyền về tài sản của người đó. Như vậy, quan hệ pháp luật thừa kế có đặc điểm của quan hệ vật quyền, là một quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối. 1.2. KHÁI NIỆM THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ NHỮNG TRƢỜNG HỢP PHÁT SINH THỪA KẾ THẾ VỊ 1.2.1. Khái niệm thừa kế thế vị Theo nghĩa triết tự thì thế vị là sự thay thế vị trí. Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội thì "Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay vị trí để hưởng thừa kế" [42, tr. 125]. Theo cách hiểu trên thì thừa kế thế vị có thể được hiểu là việc một người theo quy định pháp luật được thay thế vị trí của một người đã chết để hưởng di sản thừa kế của một người khác chết sau người đã chết đó. Nghiên cứu thừa kế dưới góc độ quan hệ pháp luật thì người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp người được thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Pháp luật đã quy định việc dịch chuyển di sản thừa kế trong các trường hợp này gọi là thừa kế thế vị. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thừa kế thế vị được quy định tại Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2005: Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn 15 sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống [27]. Theo quy định này, thừa kế thế vị thực chất là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, hoặc cụ nội, cụ ngoại, nếu bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người nói trên. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2005 còn quy định tại Điều 678 về quan hệ thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi: "Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này" [27] và quy định tại Điều 679 về quan hệ thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này" [27]. Theo các quy định này thì con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau; con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau, nếu đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 676, Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2005. 1.2.2. Những trƣờng hợp phát sinh thừa kế thế vị Theo quy định tại các điều luật nêu trên, thừa kế thế vị chỉ đặt ra với các chủ thể là cháu, chắt và chỉ phát sinh trong trường hợp sau đây: - Thừa kế thế vị của cháu: Phát sinh khi bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Chỉ khi thuộc một trong hai trường hợp này thì con được thay vị trí bố hoặc mẹ để hưởng di sản thừa kế, tức là cháu của người để lại di sản được hưởng thừa kế di sản của ông bà. 16 - Thừa kế thế vị của chắt: Phát sinh trong khi ông bà chết trước cụ, cha hoặc mẹ chết sau ông bà nhưng lại chết trước hay chết cùng thời điểm với cụ - người để lại di sản. Do đó, tương tự như trường hợp thừa kế thế vị của cháu, khi thuộc một trong các trường hợp này thì con của người cha hoặc người mẹ đã chết đó (tức chắt của người để lại di sản) được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt (tức cháu của người để lại di sản) được hưởng nếu như còn sống. Tuy nhiên để được thừa kế thế vị thì cháu, chắt phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản mà bố hoặc mẹ mình (hoặc ông, bà) được hưởng nếu còn sống. Thừa kế thế vị phản ánh đúng thực tế xã hội, bảo vệ trực tiếp quyền lợi của cháu, chắt để có thể hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ. Quy định này hoàn toàn phù hợp với bản chất "thế vị" của cháu, chắt đối với bố hoặc mẹ của mình để nhận di sản thừa kế từ ông bà hoặc các cụ. 1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ Ở VIỆT NAM Thừa kế là một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật dân sự của mỗi quốc gia. Theo các giai đoạn lịch sử khác nhau, với mỗi chế độ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật cũng có sự khác nhau và quy định về thừa kế thế vị không phải là ngoại lệ. Ở nước ta, quy định về thừa kế thế vị xuất hiện khá sớm và ngày càng được hoàn thiện qua từng giai đoạn lịch sử và ở mỗi giai đoạn khác nhau thì quy định về thừa kế thế vị lại có những biểu hiện riêng biệt. Có thể chia pháp luật thừa kế thế vị của Việt Nam thành hai giai đoạn như sau: Giai đoạn trước năm 2005 và giai đoạn sau năm 2005. 1.3.1. Giai đoạn trƣớc năm 2005 Pháp luật về thừa kế xuất hiện từ rất sớm trong pháp luật Việt Nam. Từ thời phong kiến, mỗi triều đại đều có những quy định về thừa kế trong hệ thống pháp luật, nhưng quy định pháp luật về thừa kế thế vị thì chưa có. Khi 17 xã hội Việt Nam chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến thì pháp luật nước ta mang sắc thái hoàn toàn khác so với trước đó. Những biểu hiện trong bản chất của pháp luật chính là tính giai cấp của nó và pháp luật Việt Nam dưới thời Pháp thuộc là minh chứng cho điều này. Ở giai đoạn này, pháp luật Việt Nam theo khuôn mẫu pháp luật của nước Pháp, pháp luật thừa kế trong các văn bản luật dân sự của Việt Nam trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài điều đó. Quy định về thừa kế thế vị lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam là quy định từ Điều 337 đến Điều 343 Dân luật Bắc Kỳ, từ Điều 332 đến Điều 338 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật đều quy định: "Các con của người để lại di sản; con trai, con gái được chia đều nhau. Nếu có người con nào chết trước thì con cháu của người ấy thế vị". Theo các quy định nói trên thì thừa kế thế vị chỉ đặt ra đối với hàng thừa kế thứ nhất. Theo các giai đoạn lịch sử, quy định về thừa kế thế vị ngày càng được hoàn thiện ở các văn bản pháp luật sau này. Sau năm 1945, quy định pháp luật về thừa kế thế vị ở nước ta bước sang một bước ngoặt mới. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 97/SL sửa đổi bổ sung một số quy lệ và chế định trong dân luật (sau đây gọi là Sắc lệnh 97) ghi nhận một số điểm quan trọng trong lĩnh vực thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng. Sắc lệnh 97 quy định con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ, con nuôi không chỉ có quyền thừa kế theo pháp luật của cha nuôi, mẹ nuôi mà còn có quyền thừa kế theo pháp luật của cha đẻ, mẹ đẻ và của những người khác cùng huyết thống. Trên cơ sở đó, sắc lệnh này quy định người đang là con nuôi của người khác mà chết trước cha mẹ đẻ, thì các con của người đó được thừa kế thế vị. Có thể nói quy định này là đóng góp và tiến bộ lớn nhất của sắc lệnh 97, thể hiện đúng bản chất chế độ xã hội dân chủ, công bằng của Nhà nước ta sau Cách mạng tháng Tám thành công. Năm 1956, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư 1742-BNC ngày 18/9/1956 (sau đây gọi là Thông tư 1742) để hướng dẫn một số vấn đề trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế. Tuy thông tư này chưa quy định cụ thể về thứ 18 bậc thừa kế nhưng theo quy định tại Điều 4, Điều 5 của Thông tư này đã xác định rõ vợ chồng hoặc các con của người chết là những người thừa kế hàng đầu, cháu chắt của người chết có quyền thay mặt cho cha mẹ đã chết trước ngày mở thừa kế. Như vậy, thông tư này quy định về thừa kế thế vị chỉ giới hạn trong phạm vi những người thân thích bậc dưới thuộc dòng máu trực hệ, tức là cháu, chắt của người để lại di sản. Năm 1957, Chỉ thị số 772/CT-TATC ngày 10/07/1957 của Tòa án nhân dân tối cao ra đời đã quy định không dùng pháp luật cũ làm căn cứ cho việc xét xử của các tòa án kể từ năm 1957. Như vậy, đến thời điểm này không có bất kỳ một văn bản pháp luật nào quy định về việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến thừa kế thế vị. Năm 1968, Thông tư số 594/TT-NCLP ngày 27/08/1968 của Tòa án nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế" (sau đây gọi là Thông tư 594) ra đời để giải quyết yêu cầu thực tiễn xét xử. Thông tư này quy định: "Trong hàng thừa kế thứ nhất, nếu người con lại chết trước người để lại di sản, thì những con cháu người này được thay mặt bố, mẹ đã chết trước" [32]. Theo đó, người đang làm con nuôi người khác không được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại trong trường hợp cha mẹ đẻ của họ chết trước ông, bà. Nhưng con của người đang làm con nuôi của người khác lại có quyền thừa kế thế vị nếu người con nuôi đó chết trước cha, mẹ nuôi. Tuy nhiên, quy định này chỉ được pháp luật thừa nhận như một nguyên tắc chứ không được coi là văn bản pháp luật quy định toàn diện và khái quát về thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng. Năm 1980, Thông tư số 81/TT-TANDTC ngày 24/07/1981 của Tòa án nhân dân tối cao ra đời đã hướng dẫn chi tiết về việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến thừa kế. Thông tư này chỉ quy định cháu được thừa kế thế vị bố, mẹ để hưởng di sản của ông, bà mà không quy định thừa kế thế vị của chắt, nhưng thông tư này thể hiện sự hoàn thiện hơn rất nhiều so với Thông tư 1742 và Thông tư 594 trong quy định về thừa kế thế vị do Thông tư 1742 và Thông 19 tư 594 chỉ quy định thừa kế thế vị trong phạm vi những người cùng dòng máu trực hệ, còn Thông tư số 81 lại quy định thừa kế thế vị đối với cả con nuôi. Năm 1990, Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990 ra đời thì ở Việt Nam mới có một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao điều chỉnh riêng về lĩnh vực thừa kế. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng quy định về thừa kế thế vị, bởi vì đây là lần đầu tiên thừa kế thế vị được quy định thành một điều luật riêng với những bổ sung phù hợp với thực tế xã hội. Pháp lệnh Thừa kế đã dành Điều 26 quy định về thừa kế thế vị như sau: Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha, mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống, nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống [12]. Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam được ban hành. Theo đó, quyền thừa kế của công dân Việt Nam được pháp điển hóa một cách cụ thể. Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 1995 là sự kế thừa, sửa đổi, bổ sung hầu hết các quy định của pháp luật thừa kế trước đó đặc biệt là kế thừa Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Theo đó, Điều 24 của pháp lệnh thừa kế năm 1990 đã được sửa đổi, bổ sung thành Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 1995. Điều luật này quy định các trường hợp thừa kế theo pháp luật của Điều 24 của pháp lệnh thừa kế 1990, nhưng có bổ sung thêm trường hợp: "Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người lập di chúc". Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định về thừa kế thế vị như sau: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống" [23] Như vậy, đây là quy định toàn diện nhất về thừa kế thế vị từ trước đó đến thời 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan