Nêu lên thực trạng ohats triển HTX trong giai đoạn hiện nay và đưa ra các giải pháp phát triển HTX
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHOA KINH TẾ
BÀI THẢO LUẬN
Câu hỏi thảo luận:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
MÔ HÌNH HTX Ở TỈNH TUYÊN QUANG
Giảng viên hướng dẫn: Th.S. Trần Đình Phái
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 8
Danh sách nhóm 8:
1.
Tẩn Tày Mìn
2.
Nguyễn Văn Lâm
3.
Lý Thị Tới
4.
Quan Thị Vân
5.
Hoàng Ngọc Yến
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2016
Nhiệm vụ
Người thực hiện
I. Đặt vấn đề
Lý Thị Tới
II. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế
xã hội ở tỉnh Tuyên Quang.
Tẩn Tày Mìn
III. Thực trạng xây dựng mô hình HTX ở
tỉnh Tuyên Quang
Quan Thị Vân, Hoàng Ngọc Yến
IV. Định hướng và giải pháp xây dựng mô
hình HTX ở tỉnh Tuyên Quang.
Nguyễn Văn Lâm
V. Kết luận
Lý Thị Tới
Tổng hợp, sửa chữa bản word:
Quan Thị Vân
Powerpoint
Hoàng Ngọc Yến
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ:
2
Mục lục
I. ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................................4
II. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA TỈNH TUYÊN
QUANG.................................................................................................................................5
2.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................................5
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội..........................................................................................6
III. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG MÔ HÌNH HTX Ở TỈNH TUYÊN QUANG................8
3.1. Thực trạng xây dựng mô hình HTX ở Tỉnh Tuyên Quang........................................8
3.2. Đánh giá tình hình triển khai thực hiện Luật hợp tác xã năm 2012 và các chính
sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang...........12
VI.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH HTX...........................................................19
4.1. Định hướng phát triển HTX NN tỉnh Tuyên Quang................................................19
4.2. Giải pháp triển hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang giai đoạn
2015 – 2020......................................................................................................................20
V. KẾT LUẬN...................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................24
3
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tập thể có
những chuyển biến tích cực. Nhiều hợp tác xã mới được thành lập, hoạt động đa
dạng về ngành nghề, lĩnh vực; số tổ hợp tác tiếp tục tăng; phần lớn các hợp tác xã
đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của Luật. Nhiều hợp tác xã
được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt động, trong đó xuất hiện một số điển
hình tiên tiến, hỗ trợ cho kinh tế hộ thành viên tốt hơn, tạo việc làm và thu nhập
thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và với
các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Các tổ chức kinh tế tập thể đã
từng bước khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh xã hội, ổn
định chính trị ở cơ sở và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế tập thể vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài;
nhiều hạn chế, yếu kém của kinh tế tập thể mà Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày
18/3/2002, hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và Chỉ thị
số 20-CT/TW, ngày 02/01/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường
lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã chỉ ra, đến nay vẫn chưa
được khắc phục. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tập thể chậm, thiếu ổn
định, tỉ lệ đóng góp vào GDP giảm dần, không đạt được mục tiêu Nghị quyết đề
ra. Nhiều hợp tác xã chưa tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật; sự liên kết,
hợp tác của các hợp tác xã chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp, vai trò của liên hiệp hợp
tác xã chưa được phát huy.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc với dân số trên 753 nghìn người
sống tập trung ở khu vực nông thôn (chiếm gần 86%), là một tỉnh có truyền thống
về phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là các HTX, đi đầu trong việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về phát triển kinh tế tập thể… Trong những
năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
tỉnh, các ngành các cấp, các đoàn thể xã hội, các dân tộc trong tỉnh đã kế thừa và
phát huy phong trào phát triển HTX, tiếp tục thực hiện và vận dụng đưa các Nghị
quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể vào cuộc
sống và đã thu được những kết quả nhất định, cụ thể như: Số lượng hợp tác xã mới
thành lập tăng đáng kể; các hợp tác xã đã phát triển đa dạng hơn cả về ngành nghề,
quy mô và trình độ; khu vực kinh tế tập thể đã khắc phục được một phần tình trạng
yếu kém trước đây, củng cố một bước về tổ chức quản lý, bước đầu khẳng định là
nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở,
đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
4
II. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA TỈNH
TUYÊN QUANG.
2.1. Điều kiện tự nhiên.
2.1.1. Vị trí địa lý, địa hình
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc bộ, có vị trí địa lý
từ 22029’ đến 22042 vĩ độ bắc; 104050’đến 105036’ kinh độ Đông. Có địa giới
hành chính:
-Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Giang và Cao Bằng;
-Phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc;
-Phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên;
-Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái.
Đơn vị hành chính tỉnh Tuyên Quang được chia thành 5 huyện và 1 thành
phố, với 141 xã, phường, thị trấn (Trong đó: 129 xã, 7 phường và 5 thị trấn).
Địa hình tỉnh Tuyên Quang khá phức tạp, được chia làm 3 vùng:
-Vùng 1: Vùng núi cao phía Bắc gồm toàn bộ huyện Na Hang, các xã vùng
cao của các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên và Yên Sơn;
-Vùng 2: Vùng núi thấp gồm các xã phía Nam của các huyện Chiêm Hoá,
Hàm Yên, Yên Sơn và Sơn Dương;
- Vùng 3: Khu vực đồi thấp và thung lũng dọc Sông Lô, Sông Phó Đáy gồm
thành phố Tuyên Quang và phần còn lại của các huyện: Yên Sơn và Son Dương.
2.1.2. Điều kiện thời tiết, khí hậu
Là tỉnh miền núi có địa hình đồi núi đan xen thuận lợi cho phát triển sản
xuất nông, lâm nghiệp. Nhiệt độ bình quân hàng năm 240C, tổng số giờ nắng cả
năm 1.435 giờ, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.295 đến 2.266mm, độ ẩm
không khí trung bình từ 77-85%. Tuyên Quang mang các đặc trưng của khí hậu
nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt: Mùa đông lạnh, khô hanh; mùa hè
nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị phân cắt mạnh nên trên địa bàn tỉnh cũng tạo
thành các tiểu vùng khí hậu đặc trưng về nhiệt độ, độ ẩm, lượng gió và mưa lớn, lũ
quét cục bộ trên các sông, suối gây khó khăn và thiệt hại đáng kể đối với các
ngành sản xuất, nhất là ngành nông - lâm nghiệp.
5
2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên
a) Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 586.732,71 ha, bình quân theo đầu người
là 0,81ha, cao gấp 2,13 lần so với bình quân chung của cả nước (0,38ha/người)
trong đó: Đất nông nghiệp 530.811,9ha (chiếm 90,47%); đất phi nông nghiệp
44.182,7 ha (chiếm 7,53%); đất chưa sử dụng 11.738,06 ha (chiếm 2,0%).
b) Tài nguyên nước
Tổng lượng mưa rơi hàng năm trên địa bàn tỉnh dao động khoảng7.976x109
- 9,967x109 m3, trung bình là 8,737 tỷ mét khối nước; nước mặt hàng năm trên 3
lưu vực sông chính và các ao hồ trên địa bàn tỉnh ước tính khoảng 10 tỷ mét khối.
Là tỉnh có nguồn tài nguyên nước phong phú, đủ khả năng cung cấp nước phục vụ
cho sản xuất và gieo trồng.
c) Tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh năm 2014 có 446.926,17 ha, diện tích
có rừng của tỉnh là 399.716,19 ha, bao gồm: 267.683,22 ha rừng tự nhiên và
132.032,97 ha rừng trồng các loại; độ che phủ của rừng trên 64%, là một trong
những tỉnh có độ che phủ của rừng cao nhất trên địa bàn toàn quốc.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
a) Dân số và lao động
Tổng dân số toàn tỉnh Tuyên Quang năm 2014 có 753.763 người, trong đó
dân số trong độ tuổi lao động là 478.338 người, chiếm 63,46% dân số toàn tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh có 23 dân tộc cùng sinh sống. Đông nhất là dân tộc Kinh có
342.114 người, chiếm 45,39%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Tầy có 203.255
người, chiếm 26,96%; dân tộc Dao có 105.676 người, chiếm 14,02%; dân tộc Sán
Chay có 31.789 người, chiếm 4,22%; dân tộc Mông có 17.345 người, chiếm
2,30%; dân tộc Nùng có 13.765 người, chiếm 1,83%; dân tộc Cao Lan có 32.087
người, chiếm 4,26%; các dân tộc khác 7.762 người chiếm 1,03%.
b) Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tuyên Quang.
Tình hình kinh tế Tuyên Quang trong những năm gần đây có nhiều thuận
lợi trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Tuy nhiên, tỉnh còn phải đối diện với
6
nhiều những khó khăn và thách thức như thiên tai, dịch bệnh gia súc gia cầm, giá
cả của các yếu tố đầu vào tăng cao làm cho chi phí sảnxuất cũng tăng cao..., ảnh
hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của tỉnh.
Năm 2014, nền kinh tế của tỉnh tăng trưởngvới tốc độ khá cao: Tổng sản
phẩm (GDP) trong tỉnh đạt 18.583,8 triệu đồng, tăng 17,6% so với năm 2013;
trong đó, khu vực Nông lâm nghiệp - Thủy sản đạt 5.653,6 triệu đồng.
Thu nhập bình quân (GDP) đầu người tăng từ 19.889,0 nghìn đồng
(951,0USD) năm 2012 lên 23.337,0 nghìn đồng (1.201,8USD) năm 2014, cao hơn
năm 2012: 3.448,0 nghìn đồng; Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2014
đạt 7.269,5 tỷ đồng, bằng 74,6% dự toán năm; tổng sản lượng lương thực đạt trên
33 vạn tấn, an ninh lương thực được đảm bảo vững chắc.
c) Đánh giá chung tiềm năng phát triển của tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội đem đến cho tỉnh nhiều tiềm năng phát triển kinh tế nông lâm nghiệp: Tuyên
Quang có trên 446.755 ha đất lâm nghiệp, độ che phủ rừng năm 2014 đạt 64%,
tỉnh đã hoàn thành quy hoạch phát triển lâm nghiệp và phân 3 loại rừng, quy
hoạch vùng nguyên liệu cho các nhà máy. Diện tích đất nông nghiệp có 69.499 ha
phù hợp với các loại cây công nghiệp (Chè, mía), cây ăn quả (cam, bưởi, nhãn..),
cây hàng năm phát triển theo hướng hàng hoá (lúa chất lượng, lạc, đậu tương,
ngô...), hệ thống thuỷ lợi tưới chắc đạt 80% diện tích đất lúa, 57,6% diện tích cây
hàng năm được làm đất bằng máy đáp ứng khá tốt thời vụ gieo trồng. Các loại vật
nuôi chính trở thành hàng hoá là: Trâu, bò, lợn, gia cầm... với số lượng tăng đều
qua các năm, ít bị ảnh hưởng bởi các đợt dịch bệnh lớn, thuận lợi cho phát triển
trang trại, gia trại chăn nuôi. Thuỷ sản có tiềm năng phát triển mạnh với diện tích
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trên 10.775 ha
Về hệ thống đường bộ: Tỉnh có các đường lớn như: Quốc lộ 2, Quốc lộ 2C,
Quốc lộ 37 là những con đường huyết mạch nối Tuyên Quang với tỉnh biên giới
Hà Giang và các tỉnh, thành phố miền xuôi; ngoài ra còn có nhiều đường liên
huyện, liên xã, liên thôn, đường dân sinh. Những con đường này là yếu tố góp
phần quyết định sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các vùng, ngoài ra nó tạo nên sự
linh hoạt, cơ động trong tác chiến khi có chiến tranh.
7
III. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG MÔ HÌNH HTX Ở TỈNH TUYÊN QUANG.
3.1. Thực trạng xây dựng mô hình HTX ở Tỉnh Tuyên Quang.
3.1.1. Số lượng hợp tác xã nông nghiệp
Thực hiện Luật hợp tác xã năm 2012, Kết luận số 56-KL/TW ngày
21/2/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (khoá XV) đã ban hành Chương trình hành động
số 27-CTr/TU ngày 20/6/2013 về thực hiện Kết luận số 56-KL/TW ngày
21/02/2013 của Bộ Chính trị; Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành Kế
hoạch số 67/KH-UBND ngày 01/10/2013 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể; Sở Nông nghiệp và PTNT đã ban hành thực hiện
Chương trình hành động số 27-CTr/TU ngày 20/6/2013 của Ban thường vụ Tỉnh
ủy (Kế hoạch số 1166/KH-SNN, ngày 12/7/2013); Kế hoạch số 278/KH-SNN,
ngày 25/2/2013 về việc củng cố, đổi mới Hợp tác xã NLN - Thuỷ sản trên địa bàn
tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2013 -2015, định hướng đến năm 2020 và hướng thực
hiện chuyển đổi Hợp tác xã NLN -Thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang theo
Luật hợp tác xã năm 2012 (số 669/HD - SNN ngày 29/4/2014). Từ đó đã tạo hành
lang pháp lý rõ ràng, khá đồng bộ, cụ thể, thuận lợi cho hợp tác xã phát triển, bước
đầu góp phần tạo bước chuyển biến trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân về
mô hình tổ chức hợp tác xã, theo đó hợp tác xã trở thành mô hình liên kết sản xuất,
tương trợ nhau để cùng phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,
trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường.
Sau hơn 3 năm thực hiện đã đạt được một số kết quả: Số lượng tổ hợp tác,
HTX thành lập mới tăng lên đáng kể; các HTX kiểu cũ cơ bản được chuyển đổi;
HTX phát triển đa dạng cả về ngành nghề, quy mô và trình độ cán bộ quản lý
HTX được nâng lên; tình trạng yếu kém của khu vực kinh tế tập thể từng bước
được khắc phục. Một số mô hình làm ăn có hiệu quả như HTX dịch vụ tín dụng
nội bộ, tiêu thụ sản phẩm và kinh doanh tổng họp... HTX được củng cố, bước đầu
khẳng định kinh tế hợp tác, HTX là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo an sinh
xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội trên địa
bàn tỉnh.
Đến cuối năm 2014, toàn tỉnh có 167 HTX nông nghiệp trong tổng số 225
hợp tác xã trên địa bàn trong đó: (Quy mô toàn xã 135 HTX, liên thôn 23 HTX,
thôn bản 03 HTX). So với năm 2011 tăng 09 HTX, tốc độ phát triển bình quân giai
8
đoạn 2012 - 2014 là 2,8%; huyện có nhiểu HTX như: Sơn Dương (36HTX),
Chiêm Hóa (33 HTX), Yên Sơn (31HTX).
3.1.2. Số lượng thành viên (xã viên) Hợp tác xã nông nghiệp
Theo kết quả khảo sát và tổng hợp số liệu, tính đến 31/12/2014 tổng số
thành viên của 167 HTX trên địa bàn toàn tỉnh là: 41.070 thành viên, bình quân
246 thành viên/HTX, trong đó: Thành viên là người lao động: 8.757 thành viên,
chiếm 21,3%; Thành viên là đại diện hộ gia đình: 32.313 thành viên, chiếm 78,7%.
So với thời điểm 31/12/2012 giảm 27.979 thành viên (Năm 2013 giảm 8.612 thành
viên, năm 2014 giảm 19.936 thành viên). Nguyên nhân thành viên HTX giảm do
các HTX sau khi thực hiện củng cố kiện toàn, chuyển đổi hoạt động theo Luật hợp
tác xã đã xác định lại các thành viên có tham gia góp vốn điều lệ vào HTX theo
đúng quy định.
Số lượng thành viên của các HTX nông nghiệp tương đối đông (bình quân
246 thành viên/HTX), tuy nhiên số lượng thành viên HTX nông nghiệp cơ bản
được chuyển từ HTX kiểu cũ sang “thành viên toàn dàn"" nên tính trách nhiệm và
nghĩa vụ của thành viên đối với HTX không cao, vì đại đa số thành viên của các
Hợp tác xã chưa góp vốn bổ sung khi thực hiện chuyển đổi mà hầu hết các HTX
chỉ lập danh sách thành viên cũ để chuyển thành thành viên của HTX mới.
Nguyên nhân chủ yếu dễ nhận ra đầu tiên là lợi nhuận của các HTX còn thấp, một
số HTX yếu kém về chuyên môn, chưa linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh. Các
HTX chỉ xoay quanh với các hoạt động dịch vụ thủy lợi là chính, chưa mạnh dạn
mở rộng các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ đời sống ở các vùng nông thôn; thêm
nữa, đội ngũ cán bộ HTX chưa đủ mạnh để đáp ứng tình hình mới. Mặt khác các
HTX còn lúng túng bởi yếu tố tâm lý ràng buộc cũ chưa tạo niềm tin cho người
lao động, vì vậy không thu hút được các thành viên tham gia vào HTX.
Qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp tại các HTX (Hội đồng quản trị HTX) có:
35 ý kiến trả lời rất tin vào hoạt động của HTX, chiếm 21,0%; 44 ý kiến trả lời tin
nhưng không cao, chiếm 26,3% và 88 ý kiến trả lời không tin, chiếm 52,7%.
Qua đó, có thể kết luận: Cộng đồng và đặc biệt là thành viên HTX còn thiếu
niềm tin vào sự phục hồi và phát triển HTX của tỉnh trong thời gian qua. Do đó,
thời gian tới chúng ta cần thay đổi niềm tin của cộng đồng về vai trò của HTX
trong xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm cho thành
viên, xây dựng nông thôn mới... bằng hiệu quả hoạt động của HTX.
3.1.3. Bộ máy tổ chức và trình độ cán bộ Hợp tác xã nông nghiệp
9
a) Bộ máy tổ chức HTX
HTX trên địa bàn tỉnh đã được cơ cấu gọn nhẹ, mỗi HTX có từ 3-5 người,
gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, kế toán, thủ quỹ. Cụ thể, đến thời điểm
31/12/2014 tổng số cán bộ chủ chốt trong các HTX có 823 người, trong đó: Hội
đồng quản trị 335 người, (trong đó: Giám đốc 167 người, Phó Giám đốc 137
người, Ủy viên HĐQT 31 người); Ban kiểm soát 178 người, (trong đó: Trưởng ban
Kiểm soát 144 người, Ủy viên BKS 34 người); Kế toán 167 người; Thủ quỹ 143
người.
Tuy nhiên cơ cấu tổ chức bộ máy của các HTX cũng rất khác nhau, căn cứ
vào điều kiện cụ thể của từng HTX như về quy mô HTX, về tổ chức, mức độ hoạt
động các dịch vụ. Những HTX có quy mô toàn xã thì bộ máy tổ chức cơ bản đáp
ứng theo yêu cầu của Luật
b) Trình độ cán bộ quản lý HTX:
Các hợp tác xã trên địa bàn Tuyên Quang có chất lượng không cao, cụ thể:
Tính đến 31/12/2014 Số cán bộ có Trình độ Đại học có 88 người, chiếm 10,7%.
Tăng 27 người so với năm 2012, (trong đó: Giám đốc 21 người, Phó giám đốc 25
người, Ủy viên HĐQT 03 người, Trưởng ban kiểm soát 07 người, Ủy viên Ban
kiểm soát 01 người, Kế toán 22 người; Thủ quỹ 09 người); Số cán bộ có trình độ
Cao đẳng: 23 người, chiếm 2,8%. Tăng 18 người so với năm 2012, (trong đó:
Giám đốc 023 người, Ủy viên HĐQT 01 người, Trưởng ban kiểm soát 03 người,
Kế toán 13 người; Thủ quỹ 04 người); Số cán bộ có trình độ Trung cấp: 298
người, chiếm 36,2%. Tăng 12 người so với năm 2012, (trong đó: Giám đốc 67
người, Phó giám đốc 43 người, Ủy viên HĐQT 08 người, Trưởng ban kiểm soát
46 người, Ủy viên Ban kiểm soát 10 người, Kế toán 88 người; Thủ quỹ 36 người);
Số cán bộ qua lớp tập huấn, bồi dưỡng: 414 người, chiếm 50,3%. Tăng 9 người
so với năm 2012, (trong đó: Giám đốc 76 người, Phó giám đốc 70 người,
Ủy viên HĐQT 19 người, Trưởng ban kiểm soát 88 người, Ủy viên Ban kiểm soát
23 người, Kế toán 44 người; Thủ quỹ 94 người)
Kết quả đánh giá, phân loại hiệu quả sản xuất, kinh doanh năm 2014 của Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở 167 HTXNN, thì có 47 HTX hoạt động có
hiệu quả, 93 HTX trung bình, 26 HTX yếu kém, hình thức; còn 01 HTXNN chưa
phân loại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các HTX hoạt động cầm chừng như
thiếu vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, nhưng nguyên nhân chính là do trình
độ chuyên môn, quản lý của đội ngũ cán bộ HTX còn hạn chế, thiếu linh hoạt
10
trong điều hành sản xuất, kinh doanh. Quá trình điều hành các hoạt động của
HTXNN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân là chính.
Chính vì sự hạn chế về trình độ, năng lực và khả năng nhạy bén, linh hoạt...
của cán bộ quản lý HTX là nguyên nhân trực tiếp làm cho công tác quản lý điều
hành của các HTX hiệu quả chưa cao
Với năng lực tổ chức, quản lý điều hành như trên thì kết quả đánh giá về
tính minh bạch trong quản lý tài chính và xây dựng kế hoạch hoạt động của HTX
là rất hạn chế, qua làm việc với HĐQT HTX cho thấy đa phần các HTX chưa thực
sự minh bạch trong quản lý tài chính, cá biệt có không ít HTX đến cuối năm 2014
chưa quyết toán cho các năm 2012. Chẳng hạn, khi được hỏi HTX có thực hiện
mở sổ và ghi sổ sách kế toán không? thì có 155 HTX trả lời có, còn 12 HTX
không thực hiện mở sổ sách mà chỉ ghi chép trên sổ tay (những HTX nằm ở nhóm
HTX tồn tại hình thức, chờ giải thể); HTX có lập báo cáo kết quả SXKD hàng
năm và công khai trước thành viên không thì chỉ có 65,4% (109) số HTX trả lời
có, hoặc khi hỏi HTX có gửi báo cáo quyết toán tài năm 2014 về huyện (Phòng
Nông nghiệp và PTNT, Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện) hay không thì có 137
HTX trả lời có nhưng chưa đầy đủ theo yêu cầu, chủ yếu là khi có yêu cầu của các
cơ quản quản lý thì mới thực hiện. Tuy nhiên việc nộp báo cáo tài chính đến cơ
quan ĐKKD, Phòng NN và PTNT các HTX thực hiện chưa nghiêm túc, thời gian
nộp báo cáo chậm, chất lượng báo cáo thấp.
Kết quả điều tra về việc HTX có xây dựng kế hoạch hoạt động cho HTX
được biết: Có 158 ý kiến HTX có xây dựng kế hoạch, chiếm 94,6%; có 09 ý kiến
HTX không xây dựng kế hoạch, chiếm 5,4%. Tuy nhiên khi đánh giá hiệu quả của
việc thực hiện kế hoạch thì có 95% ý kiến trả lời thực hiện kế hoạch chưa tốt và
không hiệu quả, nguyên nhân chủ yếu các HTX chỉ xây dựng kế hoạch 01 lần duy
nhất khi tổ chức đại hội kết thúc nhiệm kỳ...
Ngoài ra, khi được hỏi về HTX có thực hiện phân phối lợi nhuận cho các
thành viên tham gia góp vốn chưa? HTX có thực hiện xử lý tài sản, vốn quỹ theo
Luật HTX, các Nghị định, Hướng dẫn của Trung ương và các Quy định của tỉnh
khi chuyển đổi không? thì hầu hết trả lời là không. Đây cũng là một trong những
yếu tố làm mất niềm tin của thành viên đối với HTX.
3.1.4. Các hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp
Hiện nay, các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang chủ yếu hoạt
động theo hướng làm dịch vụ cho các thành viên, chủ yếu tập trung vào một số
11
khâu dịch vụ như: Thuỷ lợi, cung ứng giống vật tư, tiêu thụ sản phẩm, chuyển giao
kỹ thuật cho hộ thành viên, thông báo tình hình sâu bệnh cây trồng; tổ chức sản
xuất các ngành nghề và các dịch vụ khác như: Làm đất, nước sạch nông thôn, xây
dựng, thương mại và dịch vụ vốn tín dụng nội bộ, chế biến nông sản, chăn nuôi và
đánh bắt thuỷ sản ,...
3.1.5 Kết quả sản xuất kinh doanh của Hợp tác xã nông nghiệp
Tổng doanh thu từ các hoạt động dịch vụ của các HTX năm 2014 đạt
72.853,8 triệu đồng (giảm 6.602,3 triệu đồng so với năm 2012), sau khi trừ chi phí
cho các khâu dịch vụ các HTX còn lãi là: 13.397,7 triệu đồng (tăng 6.009,5 triệu
đồng so với năm 2012.
3.1.6. Tình hình tài sản, nguồn vốn của Hợp tác xã nông nghiệp
Qua kết quả điều tra khảo sát, tổng số vốn của các HTX nông nghiệp trên
địa bàn tỉnh đến 31/12/2014 là: 424.003,9 triệu đồng, trong đó: Vốn góp của thành
viên: 22.534,7 triệu đồng (chiếm 5,27%), tăng 328,0 triệu đồng so với
năm
2012 (bình quân 01 HTX có 133,9 triệu đồng); Vốn tích luỹ thuộc sở hữu của
HTX: 132.962,4 triệu đồng (chiếm 31,6%), giảm
4.179,5 triệu đồng so với
năm 2012 (Nguyên nhân giảm do HTX thực hiện chuyển đổi theo Luật HTX năm
2012 đã chia nguồn vốn cho các thành viên HTX); Vốn vay: 14.316,0 triệu đồng
(chiếm 3,38%), tăng 3.353,9 triệu đồng so với năm 2014; 254.370,0 triệu đồng
(chiếm 59,99%).
3.1.7. Phân loại hoạt động của Hợp tác xã nông nghiệp
Căn cứ Thông tư số 01/2006/TT-BKH, ngày 19/01/2006 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư hướng dẫn tiêu chí đánh giá, phân loại Hợp tác xã; Thông tư số
41/2013/TT- BNNPTNT ngày 04/10/2013 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc
hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và kết quả hoạt động
dịch vụ của 167 Hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2014. Số Hợp tác
xã được phân loại cụ thể như sau:
- Số Hợp tác xã được phân loại hoạt động năm 2014 là 166/167 HTX, kết
quả phân loại như sau: Số HTX hoạt động có hiệu quả: 47HTX, chiếm 28,1%; Số
12
HTX hoạt động trung bình: 93 HTX, chiếm 55,7%; Số HTX hoạt động yếu kém:
19 HTX, chiếm 11,4%; Số HTX tồn tại hình thức: 07 HTX, chiếm 4,2%.
- Số Hợp tác xã không đủ điều kiện phân loại hoạt động năm 2014 là 01/167
HTX, chiếm 0,6% so với tổng số HTX toàn tỉnh. Nguyên nhân do Hợp tác xã mới
thành lập chưa đủ thời gian phân loại.
3.2. Đánh giá tình hình triển khai thực hiện Luật hợp tác xã năm 2012 và các chính
sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
3.2.1. Kết quả thực hiện củng cố, kiện toàn và chuyển đổi hợp tác xã theo
Luật HTX năm 2003 và Luật HTX năm 2012
Thực hiện Luật Hợp tác xã, Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/2/2013 của Bộ
chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục
đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tỉnh ủy đã ban hành
Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 56-KL/TW; Ủy ban tỉnh đã ban
hành Kế hoạch triển khai thực hiện; Sở Nông nghiệp và PTNT đã ban hành các
văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Hợp tác xã và các cơ chế, chính sách phát triển
kinh tế tập thể.
Kết quả, đến nay các HTX cũ đã cơ bản chuyển đổi theo quy định của Luật
Hợp tác xã. Tính đến 31/10/2014 toàn tỉnh có 165/166 HTX đăng ký theo Luật
2003, đạt 99,4%, trong đó 69 HTX đã chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012; HTX
yếu kém, tồn tại hình thức đã được giải thể thành lập lại; nhiều HTX mới được
thành lập và những mô hình HTX mới được hình thành. Cụ thể:
- Năm 2012: Toàn tỉnh có 155/158 HTX (chiếm 96,8% tổng số HTX toàn
tỉnh) đã thực hiện Đăng ký kinh doanh theo Luật Hợp tác xã 2003, Nghị định số
87/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ.
-Năm 2013: Có 159/161 HTX (chiếm 98,8% tổng số HTX toàn tỉnh) đã thực
hiện đăng ký theo Luật Hợp tác xã, trong đó 10 HTX đã thực hiện chuyển đổi hoạt
động theo Luật HTX năm 2012 (củng cố kiện toàn 6 HTX, giải thể giải thể thành
lập lại 02 HTX, giải thể không thành lập lại 02 HTX).
-Năm 2014: Có 165/166 HTX (chiếm 99,4% tổng số HTX toàn tỉnh) đã thực
hiện đăng ký theo Luật Hợp tác xã 2003, trong đó có 68 HTX đã thực hiện chuyển
đổi hoạt động theo Luật HTX năm 2012; 76 HTX đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục
để thực hiện chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012.
13
Sau khi thực hiện củng cố kiện toàn, một số HTX phát triển khá, hoạt động
đa dạng, phong phú về ngành nghề, nhất là các ngành về dịch vụ tín dụng nội bộ,
tiêu thụ sản phẩm... Một số HTX đã tạo sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp như
sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm thông qua việc đăng ký
nhãn hiệu và quảng bá thương hiệu sản phẩm hàng hóa.
3.2.2. Kết quả triển khai các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển
hợp tác xã trên địa bàn
a) Về chính sách đất đai:
Hiện nay phần lớn các HTX trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang còn thiếu đất để
xây dựng trụ sở; làm nhà kho, sân phơi và mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh,
dịch vụ. Cụ thể, qua kết quả điều tra, khảo sát, tính đến ngày 31/12/2014 toàn tỉnh
có 71/167 HTX, chiếm 42,5% đang được sử dụng đất làm trụ sở làm việc với tổng
diện tích 176.852m2, trong đó: Diện tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là 40.855m2/35 HTX, chiếm 49,3% trên tổng số HTX đang được sử
dụng đất làm trụ sở; Diện tích đang được sử dụng làm trụ sở nhưng chưa được cấp
quyền sử dụng đất với diện tích 135.997m2/36 HTX, chiếm 50,7 % trên tổng số
HTX đang có đất để làm trụ sở. Hiện còn có 97 HTX, chiếm 57,5% trên tổng số
HTX toàn tỉnh chưa được quy hoạch đất để làm thủ tục cấp đất xây dựng trụ sở
theo quy định.
b) Về chính sách hỗ trợ về thuế, tài chính - tín dụng:
Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế cho hợp tác xã từ năm 2012 đến nay
Cục thuế tỉnh đã thực hiện kịp thời triển khai các chính sách ưu đãi thuế, miễn
giảm thuế cho các HTX theo quy định. Kết quả đã thực hiện miễn, giảm thuế cho
140 HTX là 2.025 triệu đồng (trong đó: Thuế thu
nhập doanh nghiệp miễn,
giảm 1.110 triệu đồng; tiền thuê đất được miễn, giảm 915 triệu đồng). Theo
kết quả điều tra hợp tác xã, tính đến 31/12/2014, có 59 hợp tác xã được tiếp cận,
hỗ trợ về tín dụng với số tiền được vay là 141.316 triệu đồng, chiếm 3,4% tổng
nguồn vốn hoạt động của HTX, tăng khá so với năm 2012 (3.354 triệu đồng). Tuy
nhiên, số tiền vay và số hợp tác xã được vay vốn từ ngân hàng còn rất ít, chưa đáp
ứng được nhu cầu của các hợp tác xã; Hiện nay tỉnh Tuyên Quang chưa thành lập
quỹ hỗ trợ phát triển HTX và hầu hết các hợp tác xã rất khó vay vốn từ các tổ chức
tín dụng do không có tài sản thế chấp; các ngân hàng mới chỉ cho một số ít hợp tác
xã vay vốn với số lượng vốn vay hạn chế.
c) Về chính sách hỗ trợ thành lập mới, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã:
14
Công tác đào, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ được ngành Nông nghiệp và
PTNT quan tâm chỉ đạo và giao cho Chi cục
Phát triển nông thôn thực hiện. Từ
năm 2012-2014 đã hướng dẫn thành lập mới 12 Hợp tác xã; tổ chức 46 lớp
bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho 2.648 cán bộ quản lý HTX tham gia,
tổng kinh phí thực hiện 3.755,706 triệu đồng. Tuy nhiên việc tổ chức tập huấn cho
cán bộ HTX của tỉnh còn mang tính đại trà, chưa sâu, thiếu đa dạng về chương
trình; mới chỉ đào tạo bồi dưỡng theo chỉ tiêu mà chưa chú trọng đến chất lượng
và phương pháp giảng dạy. Tỷ lệ cán bộ HTX chưa qua đào tạo, bồi dưỡng theo
yêu cầu mới còn lớn (50,3%), lại biến động thường xuyên do sự bố trí, sắp xếp,
luôn chuyển cán bộ HTX sang chính quyền xã.
d) Chính sách hỗ trợ về khoa học - công nghệ:
Thực hiện chính sách hỗ trợ về khoa học - công nghệ, một số Sở, ban,
ngành của tỉnh đã bố trí một phần kinh phí từ chương trình khuyến công, khuyến
nông, từ Quỹ khoa học công nghệ cho nghiên cứu, triển khai các đề tài, dự án hỗ
trợ HTX đưa giống mới, công nghệ sinh học, bảo quản và chế biến nông sản; xây
dựng mô hình trình diễn tại HTX; hỗ trợ HTX ứng dụng sản xuất rau an toàn,
trồng hoa... Kinh phí từ Chương tình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới cũng được một số địa phương triển khai đối với HTX như hỗ trợ xây dựng mô
hình HTX thu gom và xử lý rác thải, dịch vụ nước sạch nông thôn... Tuy nhiên,
mức hỗ trợ không đáng kể và số HTX được hỗ trợ rất ít so với các thành phần kinh
tế khác, phổ biến thông tin khoa học công nghệ đến các HTX còn hạn chế. Việc
khuyến khích các nhà khoa học liên kết với các HTX, chuyển giao các thành tựu
khoa học công nghệ mới cho các HTX chưa được nhiều; việc tiếp cận
quỹ
khuyến công, khuyến nông của các HTX rất khó khăn.
đ) Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường:
Từ năm 2012 đến nay Sở Nông nghiệp và PTNT đã hỗ trợ, hướng dẫn các
HTX, tổ chức cá nhân xây dựng được 17 nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa; Phối hợp
với Sàn giao dịch rau quả Hà Nội duy trì công tác quảng bá, giới thiệu sản phẩm
nông nghiệp của các Hợp tác xã; Hỗ trợ các HTX tham gia 09 gian hàng trưng
bày, triển lãm, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm Chè, cam và các sản phẩm hàng
hóa nông sản khác trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang tại các Hội chợ trong và ngoài
tỉnh; Festival Chè tại Thái Nguyên...; tổng hợp, biên tập, in 30.000 bản tin thị
trường chuỗi giá trị như: cam, chè, lạc, rong riềng, keo, trâu, lợn, cá..; Cung cấp
thông tin thị trường của các sản phẩm hàng hóa dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông
nghiệp trên Website Sở Nông nghiệp và PTNT... Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ đến
15
với HTX hiệu quả chưa cao, số HTX liên kết được với doanh nghiệp chưa nhiều,
các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm của
hợp tác xã chưa được triển khai mạnh mẽ như doanh nghiệp. Nguyên nhân do các
HTX chưa chủ động tham gia liên kết với các doanh nghiệp, mặt khác do nguồn
lực có hạn, nhiều hợp tác xã không đáp ứng được các tiêu chí để tham gia trực tiếp
vào các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
e) Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:
Đối với chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đối với các HTX
nông nghiệp được tỉnh Tuyên Quang rất quan tâm và tạo điều kiện cho các HTX
được tham gia các chương trình, dự án đầu tư phát triển hạ tầng trong nông
nghiệp, nông thôn; hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, điện
nước, chợ nông thôn. Qua kết quả khảo sát tại 167 HTX thì có đến hơn 95% số
HTX được tham gia vào việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng tại địa
phương. Tuy nhiên do trình độ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế nên khi được
tham gia thực hiện thì hiệu quả chưa cao.
3.2.3. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
-Luật Hợp tác xã và hệ thống pháp luật hiện hành của Nhà nước đối với các
HTX cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể, nòng cốt là các HTX
phát triển, do đó một số HTX phát triển vươn lên kinh doanh, dịch vụ có lãi, mở
thêm ngành nghề giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho thành viên. Tuy nhiên, ở
một số nơi việc học tập, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật về HTX đối
với cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế, do đó quá trình thực hiện ở cơ sở
còn gặp nhiều khó khăn.
-Công tác kiểm tra, hướng dẫn các HTX chưa được các cấp, ngành thực hiện
thường xuyên nên việc giúp các HTX thác gỡ khó khăn chưa kịp thời; công tác
đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ HTX được tỉnh quan
tâm, nhưng còn ít, chất lượng đào tạo chưa cao. Việc sơ, tổng kết hàng năm để rút
ra bài học kinh nghiệm về những việc làm tốt, sáng tạo và nhân điển hình thực
hiện còn chậm, nhiều địa phương thực hiện.
16
- Bộ máy quản lý Nhà nước các cấp đối với kinh tế tập thể trong lĩnh vực
nông nghiệp tại tỉnh Tuyên Quang:
+ Đối với cấp tỉnh: Ở cấp tỉnh, hàng năm Chi cục Phát triển nông thôn đã
tham mưu cho Sở Nông nghiệp và PTNT lập kế hoạch thực hiện phát triển HTX,
hướng dẫn, kiểm tra đối với các HTXNN; tổ chức thành lập mới, đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ HTX; đánh giá phân loại HTX và đề xuất giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho các HTX. Tuy nhiên, do biên chế quản lý Nhà nước về
kinh tế tập thể (HTX) còn ít (tổng biên chế của Chi cục Phát triển nông thôn gồm
16 người, trong đó có 01 biên chế quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể); cán bộ
theo dõi về kinh tế tập thể chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về HTX, vì vậy
việc tham mưu giúp chính quyền cấp tỉnh thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước đối
với kinh tế tập thể chưa cao.
+ Đối với cấp huyện, thành phố: Hiện nay UBND huyện, thành phố đã bố trí
01 cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể và phát triển nông
thôn tại Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng Kinh tế. Tuy các huyện, thành phố
có bố trí cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, nhưng việc
phân công nhiệm vụ chưa hợp lý, còn phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác (phải
kiêm nhiệm thêm các lĩnh vực: Kinh tế trang trại; chính sách nông nghiệp nông
thôn; bố trí sắp xếp ổn định dân cư, đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông
thôn... ). Vì vậy, việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của các huyện, thành
phố đối với lĩnh vực Kinh tế tập thể kém hiệu quả, không kịp thời hướng dẫn,
kiểm tra, đôn đốc các hợp tác xã để tạo điều kiện cho các hợp tác xã hoạt động có
hiệu quả.
+ Đối với cấp xã: Đến nay chưa bố trí cán bộ thực hiện quản lý nhà nước đối
với HTX và lĩnh vực phát triển nông thôn. Vì vậy, việc quản lý nhà nước về lĩnh
vực kinh tế tập thể (HTX) tại các xã hiện nay gặp rất nhiều khó khăn: Cấp uỷ,
chính quyền các xã lúng túng trong công tác chỉ đạo và quản lý Nhà nước đối với
HTX, chưa có biện pháp cụ thể hỗ trợ cho các hoạt động của HTX. Một số nơi gần
như bị buông lỏng sự lãnh đạo đối với sự phát triển HTX (dẫn đến một số HTX
hoạt động yếu kém, thậm chí ngừng hoạt động khá lâu mà không được giải thể).
3.3.
Đánh giá chung về tình hình phát triển HTXnông nghiệp
3.3.1. Ưu điểm
-Các HTX cũ cơ bản đã được chuyển đổi theo Luật hợp tác xã, đến
31/12/2012 toàn tỉnh có 155/158 HTX (chiếm 98,2% số HTX toàn tỉnh) đã thực
17
hiện Đăng ký kinh doanh theo Luật Hợp tác xã năm 2003; đến 31/12/2014 có
68/167 HTX (chiếm 40,7% số HTX toàn tỉnh) đã thực hiện chuyển đổi theo Luật
HTX năm 2012.
- Công tác đào đào, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ luôn được ngành Nông
nghiệp và PTNT quan tâm chỉ đạo. Đến nay cán bộ HTX có trình độ Đại học Đại
học: 88 người, chiếm 10,7%; trình độ Cao đẳng: 23 người, chiếm 2,8%; trình độ
Trung cấp: 298 người, chiếm 36,2%; Số cán bộ qua lớp tập huấn, bồi dưỡng: 414
người, chiếm 50,3%; Số cán bộ chưa qua đào tạo, bồi dưỡng giảm còn 25 người,
chiếm 3,1%.
-Các HTX (chuyển đổi cũng như thành lập mới) được củng về tổ chức quản
lý, về năng lực hoạt động, về trách nhiệm giữa thành viên với HTX, từng bước
khắc phục tình trạng hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài. Các HTXNN đã tham
gia chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi và tổ chức các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống của các thành viên. Hoạt
động của nhiều HTX được đổi mới, thiết thực gắn với lợi ích của thành viên, hiện
nay đã tập hợp được trên 41.070 hộ nông dân tham gia HTX, tạo động lực thúc
đẩy kinh tế hộ thành viên phát triển thông qua các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh
doanh.
3.3.2. Tồn tại, hạn chế.
- Quy mô Hợp tác xã nhỏ, năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh,
dịch vụ của cán bộ Hợp tác xã yếu, chưa chủ động đầu tư mở rộng hoạt động
SXKD, còn trông chờ sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng, chưa đa dạng hoá các
hoạt động nhất là khâu chế biến sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm.
- Số hợp tác xã có góp vốn, góp sức còn ít, hoạt động của HTX còn hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất, đời sống của thành viên và cộng đồng;
thiếu vốn hoạt động, thiếu cơ sở vật chất làm dịch vụ; trình độ, năng lực điều hành
cán bộ HTX nhiều hạn chế, chưa bám sát yêu cầu cơ chế thị trường; còn tư tưởng
trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không tâm huyết với công việc.
- Tình trạng không rõ ràng về thành viên và quyền sở hữu tài sản còn khá
phổ biến; quy mô sản xuất nhỏ, thiếu vốn, năng lực nội tại yếu kém; lợi ích các
mặt trong sản xuất, đời sống mang lại cho thành viên chưa nhiều, các khâu dịch vụ
thiết yếu nhất là các hộ có nhu cầu như tổ chức tiêu thụ sản phẩm, bảo quản chế
biến nông sản thực phẩm, cung cấp tín dụng... hầu hết các HTX chưa làm được.
18
3.3.3. Nguyên nhân
-Trong quá trình chuyển đổi HTX còn những hạn chế, nhiều nơi mới chỉ làm
được khâu pháp lý (tổ chức được Đại hội, thay đổi nhân sự, tổ chức phân định tài
sản vốn quỹ). Nhưng sau khi củng cố chưa đẩy mạnh được các hoạt động đa dạng,
thiết thực cho hộ thành viên, vì đây là một kết quả rất quan trọng, tạo tiền đề cho
quá trình củng cố, đổi mới, phát triển HTX trong những năm tiếp theo.
-Cán bộ quản lý HTX thường xuyên thay đổi; năng lực, trình độ cán bộ
HTX hạn chế; nhận thức của một số cán bộ về vị trí, vai trò của HTX đối với phát
triển kinh tế tập thể còn hạn chế. Cán bộ HTX chưa được coi là một nghề nên
chưa tạo được sự gắn bó lâu dài với hoạt động của HTX.
- Hầu hết số thành viên của các HTX chuyển đổi khi tham gia HTX không
có đơn gia nhập HTX, khoảng 95% số HTX thành viên không góp vốn. Đến nay,
nhiều nơi, việc kết nạp thành viên mới vẫn tiến hành không đúng theo quy định
của Luật Hợp tác xã; Tình trạng thành viên cả làng, cả xã còn khá phổ biến. Vì vậy
dẫn đến thành viên không ý thức đầy đủ được quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong
HTX.
- Cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước đối với kinh tế HTX thuộc Phòng
Nông nghiệp và PTNT các huyện, Phòng Kinh tế thành phố biên chế ít và thay đổi
thường xuyên, còn phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nên chưa dành thời gian
để kiểm tra, hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động đối với các HTX; công tác chỉ đạo, đôn
đốc các Hợp tác xã yếu kém củng cố, đổi mới chưa kiên quyết, dứt điểm, còn lúng
túng, vai trò quản lý Nhà nước đối với HTX còn hạn chế, chưa có biện pháp cụ thể
hỗ trợ cho các hoạt động của HTX.
-Những cơ sở pháp lý để các HTX nông nghiệp đổi mới và phát triển theo
Luật HTX chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ: Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
HTX ban hành chậm và chưa đầy đủ để đảm bảo thực hiện ở địa phương, việc
hướng dẫn trình tự, thủ tục tổ chức lại HTX chưa có; còn thiếu những cơ chế,
chính sách mang tính đột phá để hỗ trợ mạnh mẽ và thiết thực cho HTX nông
nghiệp.
3.3.4. Bài học kinh nghiệm
- Phải có đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước đồng bộ từ tỉnh đến huyện, xã để
thực hiện hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra; có trách nhiệm hỗ trợ HTX về pháp lý, tôn
19
trọng quyền độc lập, tự chủ trong mọi hoạt động của HTX nông nghiệp, không can
thiệp hành chính vào HTX khi HTX thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật
-HTX được thành lập phải xuất phát từ nhu cầu của hộ nông dân. HTX trước
hết phải hướng vào giải quyết các nhu cầu của các thành viên, sau đó có thể làm
dịch vụ cho bên ngoài HTX để thu lợi nhuận, tăng thu nhập. Có như vậy mới bảo
đảm tính bền vững của HTX.
-Việc tuyên truyền và triển khai thực hiện đường lối "đổi mới" kinh tế tập
thể phải đồng bộ, thống nhất, thường xuyên bám sát tình hình, điều chỉnh và ban
hành kịp thời các cơ chế, chính sách phù hợp với thực tế ở nông thôn cùng với
việc quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ HTX.
- Các HTX phải phát huy nội lực là chính, tranh thủ sự hỗ trợ tối đa của Nhà
nước từ các chủ trương, cơ chế chính sách của Nhà nước để đẩy mạnh phát triển
sản xuất hàng hóa và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. HTX phải có hội
đồng quản trị là những người có uy tín vạch ra kế hoạch hoạt động và quyết sách
những vấn đề lớn theo quy định của Luật, Điều lệ của HTX.
VI.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH HTX.
4.1. Định hướng phát triển HTX NN tỉnh Tuyên Quang
-Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ phục vụ
sản xuất nông nghiệp theo hướng hạ giá thành và nâng cao chất lượng của các dịch
vụ hợp tác xã cung cấp cho thành viên; mở rộng loại hình dịch vụ tín dụng nội bộ,
dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đời sống... mà thành viên và cộng đồng có nhu
cầu.
-Thành lập mới các hợp tác xã theo mô hình kinh doanh đa ngành, vừa làm
dịch vụ phục vụ hoạt động kinh tế thành viên, vừa phát triển chế biến, sản xuất
tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động tín dụng, thương mại và dịch vụ đời sống
thành viên mà nhu cầu chung của thành viên đặt ra.
-Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hợp tác xã mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh, liên kết, hợp nhất, sáp nhập thành các hợp tác xã có quy mô lớn hơn
theo hướng mở rộng các dịch vụ phục vụ đa dạng trong nông nghiệp: chuyển giao
khoa học công nghệ, khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ thực vật, thú y; cung ứng
vật tư, phân bón, thức ăn, sản xuất và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi; tiêu thụ
20
- Xem thêm -