Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh...

Tài liệu Tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh

.PDF
27
28
55

Mô tả:

Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Chương 1 : Mở đầu 1.1 Lý do Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên mà mọi thành tựu khoa học và công nghệ xuất hiện một cách hết sức nhanh chóng và thường xuyên được đổi mới. Ngày nay nghiên cứu khoa học là một trong những hoạt động có tốc độ phát triển nhanh nhất thời đại. Bộ máy nghiên cứu khoa học đã trở thành khổng lồ, nó đang nghiên cứu tất cả các góc cạnh của thế giới. Các thành tựu nghiên cứu khoa học đã được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của cuộc sống. Khoa học đã làm đảo lộn nhiều quan niệm truyền thống, nó làm cho sức sản xuất xã hội tăng lên gấp bội so với vài thập niên gần đây. Về phần mình, bản thân khoa học càng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt, phải tổng kết thực tiễn nghiên cứu khoa học để khái quát những lý thuyết về quá trình sáng tạo khoa học; mặt khác, phải tìm ra được các biện pháp tổ chức, quản lý và nghiên cứu khoa học tốt hơn làm cho bộ máy khoa học vốn đã mạnh, lại phát triển mạnh hơn và đi đúng quỹ đạo hơn. Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu biết về phương pháp nhận thức thế giới. Chính vì vậy mà phương pháp nghiên cứu khoa học đã gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Và cũng chính vì vậy mà hiện nay việc nghiên cứu phương pháp nghiên cứu khoa học ngày càng trở nên cần thiết nhằm giúp cho công tác nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả hơn, phát triển mạnh mẽ hơn. 1.2 Mục đích của tiểu luận Trên cơ sở khoa học và phương pháp luận khoa học, tiểu luận trình bày một cách có hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, giúp người đọc hiểu được những nội dung cơ bản của từng phương pháp. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 1 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân 1.3 Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận Phạm vi nghiên cứu chính của tiểu luận : trình bày các phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. 1.4 Những đóng góp của tiểu luận Từ cơ sở lý thuyết về các phương pháp nghiên cứu khoa học, tiểu luận trình bày khái quát về nghiên cứu khoa học và hệ thống về nội dung các phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Qua đó, đưa ra hạn chế và ưu điểm của từng phương pháp và rút ra giá trị bài học thực tiễn. 1.4 Kết cấu của tiểu luận Kết cấu của tiểu luận bao gồm 4 chương : Chương 1 Mở đầu : nêu lý do, mục đích, những đóng góp của tiểu luận; Chương 2: Khái luận về nghiên cứu và Phương pháp nghiên cứu khoa học; Chương 3 : Trình bày phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh; Chương 4 : Kết luận. ----------/\---------- Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 2 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Chương 2: Khái luận về nghiên cứu khoa học 2.1 Đề tài nghiên cứu khoa học 2.1.1 Khái niệm đề tài nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức đạt được từ các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ bằng những phương pháp nhất định để tìm kiếm, vạch ra một cách chính xác những gì con người chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ nhằm tạo ra sản phẩm mới dước dạng tri thức mới. Đề tài nghiên cứu khoa học là một hình thức nghiên cứu khoa học do một người hoặc một nhóm người thực hiện. Đề tài nghiên cứu khoa học được thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật, lý luận nền tảng, có thể chưa để ý đến việc ứng dụng trong hoạt động thực tế. Như vậy, nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo. 2.1.2 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lãnh vực nghiên cứu. 2.1.3 Mục đích và mục tiêu nghiên cứu Khi viết đề cương nghiên cứu, một điều rất quan trọng là làm sao thể hiện được mục tiêu và mục đích nghiên cứu mà không có sự trùng lấp lẫn nhau. Vì vậy, cần thiết để phân biệt sự khác nhau giữa mục đích và mục tiêu. Mục đích: là hướng đến một điều gì hay một công việc nào đó trong nghiên cứu mà người nghiên cứu mong muốn để hoàn thành, nhưng thường thì mục đích khó có thể đo lường hay định lượng. Nói cách khác, mục đích là sự sắp đặt công việc hay điều gì đó được đưa ra trong nghiên cứu. Mục đích trả lời câu hỏi “nhằm Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 3 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân vào việc gì?”, hoặc “để phục vụ cho điều gì?” và mang ý nghĩa thực tiển của nghiên cứu, nhắm đến đối tượng phục vụ sản xuất, nghiên cứu. Mục tiêu: là thực hiện điều gì hoặc hoạt động nào đó cụ thể, rõ ràng mà người nghiên cứu sẽ hoàn thành theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo lường hay định lượng được. Nói cách khác, mục tiêu là nền tảng hoạt động của đề tài và làm cơ sở cho việc đánh giá kế hoạch nghiên cứu đã đưa ra, và là điều mà kết quả phải đạt được. Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái gì?”. 2.1.4 Lựa chọn vấn đề nghiên cứu Việc lựa chọn một vấn đề nghiên cứu là một việc làm hết sức công phu đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng tối đa sự hiểu biết và kinh nghiệm để tìm ra được một lĩnh vực nghiên cứu trong đó tài năng và kiến thức của mình có thể được đem ra đóng góp với hiệu quả nhiều nhất. Vấn đề quan trọng đối với người mới bước chân vào lĩnh vực nghiên cứu là làm thế nào tìm ra được một vấn đề có ích lợi then chốt mà khả năng của mình cho phép thực hiện cộng việc nghiên cứu, và sau khi đã lựa chọn được vấn đề tổng quát hay lĩnh vực tổng quát để nghiên cứu, phải phân tích thật kỹ vấn đề bằng cách tìm ra các biến số và các mối tương quan giữa chúng với nhau. Bước đầu tiên để tìm ra một vấn đề chuyên biệt trong quá trình nghiên cứu là lựa chọn một lĩnh vực hay một vấn đề tổng quát mà người nghiên cứu đã được học hỏi hoặc có kinh nghiệm nhiều nhất. Như vậy sẽ giúp cho người nghiên cứu biết những vấn đề nào là quan trọng, vấn đề nào là then chốt trong một lĩnh vực, đồng thời làm dễ dàng hơn công việc tham khảo các tài liệu liên hệ. Sau khi đã quyết định về lĩnh vực nghiên cứu tổng quát, người nghiên cứu sẵn sàng vạch ra cho mình một chương trình tham khảo tài liệu liên quan đến lĩnh vực ấy để có thể từ đó tìm ra một vấn đề chuyên biệt làm căn bản cho việc nghiên cứu của mình. Tham khảo tài liệu : Đây là bước đi quan trọng nhất của người nghiên cứu vì nhờ có việc tham khảo tài liệu một cách có hệ thống người nghiên cứu mới có thể nhận định được cơ sở lý luận cho công trình nghiên cứu của mình. Để thực hiện Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 4 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân công việc này một cách có kết quả, người nghiên cứu phải vạch ra một chương trình tham khảo tài liệu có hệ thống. 2.2 Thu thập tài liệu và giả thuyết nghiên cứu khoa học 2.2.1 Thu thập tài liệu 2.2.1.1 Mục đích thu thập tài liệu Thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần thiết cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Các nhà nghiên cứu khoa học luôn đọc và tra cứu tài liệu có trước để làm nền tảng cho nghiên cứu khoa học. Đây là nguồn kiến thức quí giá được tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài. Giúp người nghiên cứu nắm được phương pháp của các nghiên cứu đã thực hiện trước đây, đồng thời làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình hàm lượng kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu. Tránh trùng lập với các nghiên cứu trước đây, vì vậy đỡ mất thời gian, công sức và tài chính. Giúp người nghiên cứu xây dựng luận cứ để chứng minh giả thuyết nghiên cứu khoa học. 2.2.1.2 Phân loại tài liệu nghiên cứu Phân loại tài liệu để giúp cho người nghiên cứu chọn lọc, đánh giá và sử dụng tài liệu đúng với lãnh vực chuyên môn hay đối tượng muốn nghiên cứu. Có thể chia ra loại tài liệu tài sơ cấp và tài liệu thứ cấp. Tài liệu sơ cấp là tài liệu mà người nghiên cứu tự thu thập, phỏng vấn trực tiếp, hoặc nguồn tài liệu cơ bản, còn ít hoặc chưa được chú giải. Một số vấn đề nghiên cứu có rất ít tài liệu, vì vậy cần phải điều tra để tìm và khám phá ra các nguồn tài liệu chưa được biết. Người nghiên cứu cần phải tổ chức, thiết lập phương pháp để ghi chép, thu thập số liệu. Tài liệu thứ cấp : Loại tài liệu nầy như : Luận cứ khoa học, định lý, qui luật, định luật, khái niệm; Các số liệu, tài liệu đã công bố được tham khảo từ các bài báo trong tạp chí khoa học, tập san, báo cáo chuyên đề khoa học; Số liệu niên giám thống kê, tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản về luật, chính sách; thu thập thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, … mang tính đại chúng cũng được thu thập, và được xử lý để làm luận cứ khoa học chứng minh cho vấn đề khoa học. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 5 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân 2.2.2 Giả thuyết nghiên cứu khoa học 2.2.2.1 Định nghĩa Giả thuyết là câu trả lời ướm thử hoặc là sự tiên đoán để trả lời cho câu hỏi hay “vấn đề” nghiên cứu. Chú ý: giả thuyết không phải là sự quan sát, mô tả hiện tượng sự vật, mà phải được kiểm chứng bằng các cơ sở lý luận hoặc thực nghiệm. 2.2.2.2 Các đặc tính Giả thuyết có những đặc tính tuân theo nguyên lý chung và không đổi trong suốt quá trình nghiên cứu, phù hợp với điều kiện thực tế và cơ sở lý thuyết, đồng thời giả thuyết có thể được kiểm nghiệm và mang tính khả thi cao. Một giả thuyết tốt phải thoả mãn các yêu cầu về tài liệu tham khảo, khả năng thu thập thông tin, cũng như khả năng thực nghiệm để thu thập số liệu… 2.2.2.3 Mối quan hệ giữa giả thuyết và “vấn đề” khoa học : Sau khi xác định câu hỏi hay “vấn đề” nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu hình thành ý tưởng khoa học, tìm ra câu trả lời hoặc sự giải thích tới vấn đề chưa biết (đặt giả thuyết). Ý tưởng khoa học nầy còn gọi là sự tiên đoán khoa học hay giả thuyết giúp cho người nghiên cứu có động cơ, hướng đi đúng hay tiếp cận tới mục tiêu cần nghiên cứu. Trên cơ sở những quan sát bước đầu, những tình huống đặt ra (câu hỏi hay vấn đề), những cơ sở lý thuyết (tham khảo tài liệu, kiến thức đã có,…), sự tiên đoán và những dự kiến tiến hành thực nghiệm sẽ giúp cho người nghiên cứu hình thành một cơ sở lý luận khoa học để xây dựng giả thuyết khoa học. 2.3. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh 2.3.1 Khái niệm Phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó, đây là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo. Phương pháp nghiên cứu khoa học là các cách thức nhận thức các hoạt động của thế giới tự nhiên, xã hội, kinh tế, … bao gồm những quan điểm tiếp cận, những Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 6 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân quy trình, các thao tác cụ thể tác động vào đối tượng kinh doanh để làm bộc lộ bản chất của đối tượng kinh doanh đó. 2.3.2 Một vài đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các đối tượng cụ thể, ở đây có hai chú ý là: chủ thể và đối tượng. Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá đối tượng. Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như vậy phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc, Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới. Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn phương pháp chính xác, phù hợp sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn, và đôi khi vượt qua cả yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu. Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ thống phương pháp đặc trưng. Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 7 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay không lôgíc tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức. Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, nhiều khi còn cần phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao. Tóm lại, nghiên cứu khoa học có những đặc điểm : Tính mới; Tính tin cậy; Tính thông tin; Tính khách quan – trung thực; Tính kế thừa; Tính phi kinh tế; Tính mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học; Tính chuyên sâu của đội ngũ những người nghiên cứu. 2.3.3 Phương pháp luận nghiên cứu khoa học Trong nghiên cứu khoa học phương pháp và phương pháp luận là hai khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất. Phương pháp luận là hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có tác dụng chỉ đạo, xây dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu tìm tòi cũng như việc lựa chọn, vận dụng phương pháp. Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận về phương pháp bao hàm hệ thống các phương pháp, thế giới quan và nhân sinh quan của người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho nên thường mang màu sắc triết học, tuy nhiên nó không đồng nhất với triết học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới. Phương pháp luận được chia thành phương pháp bộ môn – lý luận về phương pháp được sử dụng trong một bộ môn khoa học và phương pháp luận chung cho các khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến cho hoạt động nghiên cứu khoa Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 8 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân học là triết học. Triết học Mác-Lênin là phương pháp luận đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới. Những phương pháp nghiên cứu khoa học riêng gắn liền với từng bộ môn khoa học (toán học, vật lý học, sinh vật học, kinh tế học…). Do vậy những phương pháp riêng này sẽ được làm sáng tỏ khi nghiên cứu những môn học tương ứng. 2.4. Phân loại phương pháp nghiên cứu Có nhiều quan điểm tiếp cận phân loại, tuy nhiên căn cứ vào cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu, sự khác nhau của những lao động cụ thể trong nghiên cứu khoa học, người ta chia thành phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp nghiên cứu lý thuyết. 2.4.1. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm Loại phương pháp này bao gồm các phương pháp quan sát, thí nghiệm, thực nghiệm. Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó nhờ khả năng thụ cảm của các giác quan, khả năng phân tích tổng hợp, khái quát hoá. Thực nghiệm, thí nghiệm là việc người nghiên cứu khoa học sử dụng các phương tiện vật chất tác động lên đối tượng nghiên cứu nhằm kiểm chứng các giả thiết, lý thuyết khoa học, chính xác hoá, bổ sung chỉnh lý các phỏng đoán giả thiết ban đầu tức là để xây dựng các giả thiết, lý thuyết khoa học mới. Thí nghiệm, thực nghiệm bao giờ cũng được tiến hành theo sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học nào đấy. Như vậy để tiến hành thí nghiệm, thực nghiệm phải có tri thức khoa học và điều kiện vật chất. Phương pháp thực nghiệm được áp dụng khá phổ biến trong các ngành khoa học tự nhiên là những ngành khoa học có khả năng định lượng chính xác. Trong những lĩnh vực này, còn cho phép tạo ra những môi trường nhân tạo, khác với môi trường bình thường để nghiên cứu sự vận động biến đổi của đối tượng. Các ngành khoa học xã hội là lĩnh vực khó có khả năng tiến hành các thí nghiệm khoa học, áp dụng phương pháp thử nghiệm. Song thực tiễn là tiêu chuẩn Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 9 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân của chân lý. Mọi khái quát, trìu tượng, mọi lý thuyết nếu không được thực tiễn chấp nhận đều không có chỗ đứng trong khoa học. Ở đây quan sát, tổng kết thực tiễn người nghiên cứu khoa học có khả năng nhận thức nhanh hơn con đường do lịch sử vạch ra. Trong phạm vi nhất định, người ta cũng có thể tiến hành các thí nghiệm xã hội học. Ở đây cần lưu ý rằng tính toán xã hội của khoa học xã hội đòi hỏi những phương tiện, điều kiện vật chất, môi trường thử nghiệm phải là những điều kiện phổ biến. Trong phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, nhiều trường hợp người ta còn sử dung phương pháp mô hình hoá mà đối tượng nghiên cứu không cho phép quan sát thực nghiệm trực tiếp. Cơ sở áp dụng phương pháp mô hình hoá là sự giống nhau về các đặc điểm, chức năng, tính chất đã được xác lập vững chắc giữa các sự vật hiện tượng, quá trình xảy ra trong tự nhiên xã hội, tư duy. Dựa trên cơ sở này, từ những kết quả nghiên cứu đối với mô hình người ta rút ra những kết luận khoa học về đối tượng cần nghiên cứu. 2.4.2. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm các phương pháp khái quát, trừu tượng hoá, diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá,… được dùng cho tất cả các ngành khoa học. Khác với nghiên cứu thực nghiệm phải sử dụng các yếu tố, điều kiện vật chất tác động vào đối tượng nghiên cứu, trong nghiên cứu lý thuyết quá trình tìm kiếm phát hiện diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, chữ viết,… Điểm xuất phát của nghiên cứu thực nghiệm là quan sát thực tiễn, quan sát sự vận động của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu lý thuyết, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu là tri thức lý luận (các quan điểm, các lý thuyết). Do vậy việc nắm vững hệ thống lý luận nền tảng đóng vai trò quyết định trong loại phương pháp này. Tri thức khoa học là tri thức chung, tài sản chung của nhân loại. Bất cứ lý thuyết nào nếu được thực tiễn chấp nhận, đều có hạt nhân khoa học, hợp lý của nó. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 10 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Cần tiếp thu những khía cạnh hợp lý, khoa học, tức là những tinh hoa trong kho tàng tri thức nhân loại, giúp cho mình tiếp tục phát triển lý luận, vừa để nhìn thấy những khiếm khuyết của lý luận ấy. Nếu thiếu lý luận nền tảng, người nghiên cứu khoa học rất khó khăn trong việc tìm ra cái đúng, cái sai của các chân lý. Nếu như các quy luật tự nhiên tồn tại lâu dài, thì các quy luật xã hội tồn tại, vận động trên những điều kiện xã hội nhất định. Thoát ly tính lịch sử, cụ thể, là nguy cơ dẫn đến tình trạng xa rời thực tiễn, trở thành giáo điều, kinh viện, kìm hãm khoa học. Phương pháp lý thuyết do đặc tính của quá trình sáng tạo khoa học diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, suy luận, khái quát hoá, lại chưa được thực tiễn kiểm chứng, mà qua thời gian, đúng sai mới sáng tỏ. Điều đó dễ dẫn người làm khoa học phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí, tự biện. 2.5 Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc (Macxít) 2.5.1 Phương pháp lịch sử Các đối tượng nghiên cứu (sự vật, hiện tượng) đều luôn biến đổi, phát triển theo những hoàn cảnh cụ thể của nó, tạo thành lịch sử liên tục được biểu hiện ra trong sự đa dạng, phức tạp, có cả tính tất nhiên và ngẫu nhiên. Phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu tả tái hiện hiện thực với sự hỗn độn, bề ngoài của các sự kiện kế tiếp nhau, để nêu bật lên tính quy luật của sự phát triển, bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hoá của đối tượng, để phát hiện ra bản chất và quy luật của đối tượng. Quy trình phát triển lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi, tất yếu trong điều kiện khác nhau và theo thời gian nhất định. 2.5.2 Phương pháp lôgíc Phương pháp lôgíc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất quy luật, bản chất, cái phổ biến, khuynh hướng vận động của các hiện tượng. Anghen đã nói: lôgíc không phải là sự phản ánh lịch sử một cách đơn thuần, mà là phản ánh đã uốn nắn theo quy luật mà bản thân quá trình lịch sử đem lại. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 11 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Phương pháp lôgíc giúp chúng ta nhìn nhận ra bản chất, cái phổ biến, cái mới nảy sinh và phát triển như thế nào về chất so với cái cũ, mặc dù là hình thức thì chưa thay đổi, nhưng chất mới đã nảy sinh. Giúp chúng ta tác động tích cực vào hiện thực, nhằm tái sản sinh ra lịch sử ở một trình độ cao hơn, nghĩa là chủ động cải tạo, cải biến lịch sử, nhờ đó nắm được những quy luật khách quan đó. 2.5.3 Tính thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc Trên thực tế công tác nghiên cứu theo phương pháp biện chứng mácxít, không bao giờ có phương pháp lịch sử hay phương pháp lôgíc thuần tuý tách rời nhau, mà là trong cái này có cái kia, hai cái thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giới hạn giữa chúng chỉ là tương đối. Cụ thể, phương pháp lịch sử tuy phải theo sát tiến trình phát triển của lịch sử của sự vật hiện tượng, diễn lại những bước quanh co, ngẫu nhiên, thụt lùi tạm thời của quá trình phát triển hiện thực, nhưng không phải là miêu tả lịch sử đó một cách kinh nghiệm chủ nghĩa, mà là miêu tả theo một sợi dây lôgíc nhất định của sự phát triển lịch sử; không phải miêu tả lịch sử một cách mù quáng, mà là phát triển một cách có quy luật. Cũng vậy, phương pháp lôgíc tuy không nói đến những chi tiết lịch sử, những bước đường quanh co, ngẫu nhiên của lịch sử đối tượng, nhưng không phải vì thế mà nó bỏ qua việc nghiên cứu lịch sử cụ thể của đối tượng. Phương pháp lôgíc là sự phản ánh cái chủ yếu được rút ra từ trong lịch sử sự vật, và làm cho cái chủ yếu ấy thể hiện được bản chất của quá trình lịch sử. Tóm lại, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc có tính thống nhất và cũng có mục đích thống nhất là cùng nhằm phơi bày rõ chân lý khách quan của sự phát triển lịch sử, nên trong công tác nghiên cứu, tổng kết khoa học, chúng ta không chỉ vận dụng một phương pháp riêng rẽ nào, vì thực ra chúng chỉ là hai mặt biểu hiện khác nhau của phương pháp biện chứng mácxít mà thôi. Tuy vậy, trong công tác nghiên cứu chúng ta vẫn cần chú ý đến tính độc lập tương đối của hai phương pháp này như đã nói ở trên. ----------/\---------- Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 12 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Chương 3 : Một số phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh 3.1. Phương pháp Quan sát 3.1.1 Phương pháp quan sát : Quan sát/thăm hiện trường là một phương pháp định tính quan trọng trong quá trình tự đánh giá trong nghiên cứu khoa học. Đó là qui trình tri giác (mắt thấy, tai nghe) và ghi chép lại mọi yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu…nhằm mô tả, phân tích, nhận định, đánh giá. Quan sát cung cấp thông tin định tính để bổ sung cho các thông tin định lượng trong điều tra thu thập minh chứng để đánh giá các tiêu chí. Về phân loại quan sát, ta có hai loại quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp. Quan sát trực tiếp là quan sát và ghi chép hành vi của con người ngay tại bối cảnh và thời gian thực tế diễn ra. Quan sát gián tiếp là không quan sát trực tiếp hành vi mà đi thu thập các dấu vết của hành vi còn sót lại. 3.1.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp quan sát : Với phương pháp Quan sát : Nhờ có các giác quan như : thị giác, thính giác, xúc giác, khướu giác và vị giác, mà chúng ta cảm nhận và phát hiện các vấn đề đang nảy sinh khách quan trong kinh doanh cần nghiên cứu để giải quyết. Bản chất quan sát là trực quan sinh động thế giới khách quan để nhận biết chính xác về chúng. Chúng ta có thể sử dụng phương pháp quan sát như khảo sát (quan sát) sức mua của người tiêu dùng trên thị trường hàng hóa tiêu dùng…qua đó, sẽ nhận xét được sức mua tăng hay giảm, từ đó, gợi mở các chính sách có liên quan,… Qua quan sát các biểu hiện của khách hàng khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ của một công ty, chúng ta biết mức độ hài lòng của họ. Hay quan sát thái độ của khách hàng khi đến giao dịch tại một chi nhánh ngân hàng biết mức độ hài lòng của họ về sản phẩm, dịch vụ và kỹ năng giao tiếp của nhân viên. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 13 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân 3.2. Phương pháp Phán đoán 3.2.1 Phương pháp Phán đoán : Phán đoán là vận dụng các khái niệm để phân biệt, so sánh những đặc tính, bản chất sự vật và tìm mối liên hệ giữa đặc tính chung và đặc tính riêng của các sự vật đó. Phán đoán là một hình thức của tư duy, trong đó, các khái niệm được liên kết để khẳng định hay phủ định về thuộc tính hoặc quan hệ nào đó của bản thân sự vật, hiện tượng. Phán đoán có thể là phán đoán khẳng định hay phán đoán phủ định một mệnh đề, giả thuyết nào đó. Phán đoán có thể được hình thành từ những phán đoán đơn lẻ và các liên từ logic để tạo thành phán đoán phức. 3.2.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp phán đoán Trong nghiên cứu, người ta thường vận dụng các khái niệm để phán đoán hay tiên đoán. Những tiên đoán, phán đoán làm nảy sinh những giả thuyết mới cho nghiên cứu, tuy nhiên, quán trình phán đoán có thể đúng, có thể sai, vì nó lệ thuộc nhiều yếu tố ảnh hưởng như môi trường bên ngoài, môi trường bên trong… 3.3. Phương pháp Khái niệm 3.3.1 Phương pháp khái niệm Khái niệm “Khái niệm” là quá trình nhận thức hay tư duy của con người bắt đầu từ những tri giác hay bằng những quan sát sự vật hiện thực tác động vào giác quan. Như vậy, “khái niệm” có thể hiểu là hình thức tư duy của con người về những thuộc tính, bản chất của sự vật và mối liên hệ của những đặc tính đó với nhau. Người nghiên cứu khoa học hình thành các “khái niệm” để tìm hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm với nhau, để phân biệt sự vật này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật hay hình thành khái niệm nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận. Khái niệm là thao tác logic dùng để tách một khái niệm cần định nghĩa ra khỏi những khái niệm tiếp cận với nó và chỉ rõ những thuộc tính bản chất tực nội hàm của nó. Khái niệm là một hình thức cơ bản của tư duy phản ảnh những thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 14 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Đặc điểm cơ bản của khái niệm : * Khái niệm là sự phản ánh tương đối toàn diện về đối tượng * Khái niệm là sự phản ánh tương đối chính xác về đối tượng * Khái niệm là sự phản ánh tương đối có hệ thống về đối tượng * Khái niệm là sự phản ánh đối tượng trong hiện thực nhưng nó góp phần chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người trong quan hệ đối tượng. Hình thức ngôn ngữ biểu thị khái niệm Là một bộ phận cấu thành của tư duy, khái niệm không thể định hình, tồn tại và thể hiện nếu thiếu các phương tiện ngôn ngữ. Từ, cụm từ là những phương tiện ngôn ngữ được con người sử dụng để định hình và thể hiện khái niệm. Khái niệm và từ ngữ có liên hệ mật thiết với nhau. Từ và khái niệm là thống nhất nhưng không đồng nhất. Từ là đơn vị cấu thành ngôn ngữ, là phạm trù ngôn ngữ học, là sự thống nhất hữu cơ giữa âm và nghĩa. Khái niệm là hình thức của tư duy trừu tượng được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa yếu tố cấu thành là nội hàm và ngoại diên. Kết cấu logic của khái niệm. Về mặt cấu tạo, mỗi khái niệm đều do hai bộ phận cấu thành là nội hàm và ngoại diên. Nội hàm của khái niệm là toàn bộ những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng được phản ảnh trong khái niệm. Ngoại diên của khái niệm là tập hợp những sự vật hiện tượng có chứa những thuộc tính bản chất được phản ảnh trong khái niệm. Thu hẹp và mở rộng khái niệm : Thu hẹp khái niệm là một thao tác chuyển từ khái niệm có ngoại diên rộng sang khái niệm có ngoại diên hẹp. Việc chuyển này được thực hiện bằng cách thêm vào những dấu hiệu của khái niệm ban đầu những dấu hiệu mới và những dấu hiệu này chỉ thuộc về một bộ phận các sự vật nằm trong ngoại diên của khái niệm ban đầu. Mở rộng khái niệm là một thao tác logic giúp ta chuyển từ những khái niệm có ngoại diên hẹp sang những khái niệm có ngoại diên rộng. Để mở rộng khái niệm Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 15 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân ta tiến hành bằng cách tước bỏ đi những dấu hiệu chỉ thuộc về những sự vật nằm trong ngoại diên của khái niệm được mở rộng. 3.3.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp khái niệm Người nghiên cứu khoa học cần thiết phải hình thành các “khái niệm” để tìm hiểu mối quan hệ giữa các khái niệm cụ thể với nhau, để phân biệt sự vật này với sự vật khác và để đo lường thuộc tính bản chất của sự vật hay hình thành khái niệm nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận. Một khái niệm cụ thể do người nghiên cứu khoa học đưa ra, có thể với nội hàm sâu (ngoại diên hẹp) hay nội hàm cạn (ngoại diên rộng) như : Khái niệm “nhà quản trị” thì rộng hơn khái niệm “nhà quản trị Việt Nam”,…và từ những khái niệm cụ thể này có thể đưa đến những khái niệm chung, là khái niệm mà ngoại diên chứa từ hai đối tượng trở lên, như : “Công ty Tư nhân”, “Công ty nhà nước”,… 3.4. Phương pháp Suy luận (Diễn dịch, quy nạp) 3.4.1 Phương pháp quy nạp : Phương pháp quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc, độc lập ngẫu nhiên rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó. Từ những kinh nghiệm, hiểu biết các sự vật riêng lẻ người ta tổng kết quy nạp thành những nguyên lý chung. Cơ sở khách quan của phương pháp quy nạp là sự lặp lại của một số hiện tượng này hay hiện tượng khác do chỗ cái chung tồn tại, biểu hiện thông qua cái riêng. Nếu như phương pháp phân tích-tổng hợp đi tìm mối quan hệ giữa hình thức và nội dung thì phương pháp quy nạp đi sâu vào mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. 3.4.2 Phương pháp diễn dịch (Suy diễn - Deductive) Phương pháp diễn dịch ngược lại với phương pháp quy nạp. Suy luận diễn dịch là lối suy luận đi từ nguyên lý chung, phổ biến đến từng trường hợp riêng lẻ cá biệt (lối tư duy đi từ nguyên lý). Hay nói cách khác, là phương pháp đi từ cái bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận để tìm ra các hiện tượng, các biểu hiện, cái trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 16 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Suy luận diễn dịch trực tiếp : Suy luận diễn dịch trực tiếp là kiểu suy luận trong đó kết luận được rút ra trực tiếp từ một tiền đề. Suy luận diễn dịch gián tiếp : Suy luận diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch trong đó kết luận là phán đoán mới được rút ra trên cơ sở mối liên hệ logic giữa hai hay nhiều phán đoán tiền đề. Trên cơ sở các tài liệu được tích lũy, người ta đưa ra một giải thuyết biểu thị với tư cách là tiền đề của lý thuyết mới, sau đó từ tiền đề rút ra tất cả các khẳng định còn lại của lý thuyết nhờ diễn dịch logic. Tính chân lý của lý thuyết mới cần được kiểm tra, trước hết là kiểm tra những chân lý của giải thuyết được chọn làm tiền đề của lý thuyết. 3.4.3 Quan hệ giữa phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp 3.4.4 Một vài giá trị thực tiễn phương pháp suy luận Phương pháp diễn dịch : Phương pháp diễn dịch có ý nghĩa rất quan trọng trong những bộ môn khoa học thiên về nghiên cứu lý thuyết, ở đây người ta đưa ra những tiền đề, giả thuyết, và bằng những suy diễn lôgic để rút ra những kết luận, định lý, công thức. Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 17 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân Có thể áp dụng phương pháp Diễn dịch vào nghiên cứu khoa học theo trình tự qua 4 bước như sau : 1. Phát triển lý thuyết 2. Đưa ra giả thuyết 3. Thu thập và phân tích dữ liệu 4. Xác nhận/Bác bỏ giải thuyết. Trên cơ sở các sự kiện mới được tích lũy, người ta đưa ra những giả thuyết để giải thích, sau đó nhờ phương pháp diễn dịch rút ra giải thuyết các hệ quả và so sánh các hệ quả này với nhau, với thực tiễn để kiểm tra tính chân lý của giải thuyết. Phương pháp quy nạp có thể được thực hiện thông qua 3 bước ; 1. Quan sát thế giới thực. 2. Tìm kiếm một mẫu hình để quan sát 3. Tổng quát hóa về những vấn đề đang xảy ra Để tìm hiểu, nhận định, đánh giá tổng quát đối tượng hoạt động kinh tế chẳng hạn (quan sát thế giới thực), người nghiên cứu đi tìm hiểu nhiều yếu tố kinh tế riêng lẻ, từng thành phần cụ thể mang những thuộc tính nào đó mà người nghiên cứu có thể tìm hiểu, đánh giá, nhận định được (tìm kiếm một mẫu hình quan sát), sau đó tìm thấy mối liên hệ chung của chúng, một kết luận chung có thể thâu tóm được những cái riêng lẻ sẽ được đề xuất bởi người nghiên cứu. Với Phương pháp Quy nạp và Diễn dịch là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều ngược nhau song liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ có những kết quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển theo phương pháp diễn giải. Phương pháp diễn giải, do vậy mở rộng giá trị của những kết luận quy nạp vào việc nghiên cứu đối tượng. 3.5. Phương pháp hệ thống 3.5.1 Phương pháp Hệ thống Hệ thống là tập hợp tất cả các bộ phận có quan hệ với nhau tạo ra cái mới. Hệ thống có chiều : chiều cơ cấu, chiều cội nguồn và chiều khu vực. Chiều cơ cấu là một sự cấu thành nào đó của đối tượng đang phát triển, là phương thức nhất định về cách sắp xếp và tác động qua lại của các thành phần của Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 18 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân đối tượng đó. Bản thân các thành phần cũng là một cơ cấu pháp tạp, trong đó, có một phân hệ là cơ bản, quyết định. Chiều cội nguồn : là thể hiện những biến đổi về lượng và chất của hệ thống trong thời gian. Những biến đổi liên tục về chất tạo thành khái niệm giai đoạn, tức tạo ra phân hệ cội nguồn. Mỗi giai đoạn phân hệ của hệ thống về thực chất là một hệ thống tương đối độc lập. Chiều khu vực : chỉ sự sắp xếp trong không gian của hệ thống và sự khác nhau giữa các khu vực riêng biệt của hệ thống. Nó tạo ra phân hệ về mặt không gian. Ba chiều trên của hệ thống vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, chúng phải dựa vào nhau để tồn tại, đồng thời mỗi chiều lại có tính độc lập tương đối. Cấu trúc là cách sắp xếp theo một trật tự nhất định của các bộ phận trong một hệ thống, quyết định sự ra đời của hệ thống và tạo cho hệ thống một ý nghĩa mới nào đó. Cấu trúc là mặt tương đối ổn định của hệ thống, là linh hồn của hệ thống. Không thể nói đến hệ thống mà không có cấu trúc và ngược lại, cấu trúc bao giờ cũng là cấu trúc của một hệ thống. 3.5.2 Một vài giá trị thực tiễn của phương pháp hệ thống Người nghiên cứu khoa học khi tiến hành nghiên cứu một vấn đề cụ thể nào đó cần am hiểm rỏ phương pháp hệ thống. Qua đó, đưa vấn đề nghiên cứu đi từ tổng quát đến vấn đề cụ thể nào đó và luôn đặt nó trong bối cảnh không gian cụ thể (chiều khu vực), cần phân tích, đánh giá một cách chính xác khoa học các yếu tố thành phần của vấn đề nghiên cứu (chiều hệ thống), ứng với mỗi giai đoạn định rõ bởi cơ cấu riêng và bởi giai đoạn chất lượng (chiều cội nguồn), và có thể phân chia sự phát triển của một sự vật thành từng gia đoạn, thời kỳ hay thời đại cụ thể nào đó chẳng hạn. 3.6. Phương pháp nghiên cứu Định tính và nghiên cứu Định lượng 3.6.1 Phương pháp nghiên cứu định tính Thu thập và phân tích thông tin định tính bằng các phương pháp chuyên gia, tham vấn quan điểm của nhà nghiên cứu/chuyên gia liên quan đến lĩnh vực nghiên Nhóm Đồng Tháp thực hiện Trang 19 Tiểu luận : Phương pháp NCKH trong kinh doanh GVHD: PGS,TS. Đào Duy Huân cứu. Nhận dạng việc thể hiện các mối quan hệ lý thuyết rõ hơn trong thực tế thông qua các biến đại diện. 3.6.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng Lượng hóa các mối quan hệ/sự thay đổi trong hiện tượng, tình huống, vấn đề,… các biến số sử dụng là biến số định lượng. 3.6.3 So sánh giữa phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính 3.6.3.1 Định nghĩa: Phương pháp Nghiên cứu định tính Phương pháp Nghiên cứu định lượng - Giải thích, mô tả - Giải thích, dự báo - Xây dựng lý thuyết - Kiểm chứng lý thuyết - Biến số không xác định - Đã xác định biến số - Kích thước mẫu nhỏ - Kích thước mẫu lớn - Công cụ phân tích : quan sát, - Công cụ phân tích: đã được chuẩn hóa phỏng vấn,… - Quy nạp. - Diễn dịch 3.6.3.2 Lý thuyết Phương pháp Nghiên cứu định Phương pháp Nghiên cứu định lượng tính Nghiên cứu định tính theo hình thức quy Nghiên cứu định lượng chủ yếu là kiểm nạp, tạo ra lý thuyết, phương pháp định lý thuyết, sử dụng mô hình khoa nghiên cứu định tính còn sử dụng quan học tự nhiên thực chứng luận, có thể điểm diễn giải, không chứng minh chỉ có chứng minh được trong thực tế và theo giải thích và dùng thuyết kiến tạo trong chủ nghĩa khách quan nghiên cứu 3.6.3.3 Phương hướng thực hiện Phương pháp Nghiên cứu định tính - Dữ liệu ở dưới dạng từ ngữ, các văn bản Không có đối tượng nghiên cứu Nhóm Đồng Tháp thực hiện Phương pháp Nghiên cứu định lượng - Dữ liệu ở dạng các số được đo chính xác. Có nhiều đối tượng nghiên cứu Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan