ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG VÃN BẮC
TỘI LÀM GIẢ CON DẤU,
TÀI LIỆU CỦA Cơ QUAN, Tổ CHÚC
TRONG LUẬT HÌNH s ự VIỆT NAM
(trên G0 sở nghlỀn cúu Ihực tiễn dỊa bàn tỉnh Phú Thọ)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tô tụng hình sự
M ã sô
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC
sĩ LUẬT HỌC
Ngưòi hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đáy là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm hảo độ tin cậy,
chính xác và trun^ thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công h ố
tronẹ bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Văn Bắc
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐÀU
1
Chương /: NHỮNG VẤN ĐỀ CHƯNG VÈ TỘI LÀM GIẢ CON DÁƯ,
7
TÀI LIỆU CỦA C ơ QUAN, T ỏ CHỨC TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH S ự VIỆT NAM
1.1.
Nhũng khái niệm CÓ liên quan
7
1.1.1.
Khái niệm con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
7
1.1.2.
Khái niệm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức
10
1.1.3.
Khái niệm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức
10
1.2.
Quá trình hình thành và phát triển tội làm giả con dấu, tài liệu
12
của cơ quan tổ chức trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1.
Giai đoạn từ 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
12
1.2.2.
Giai đoạn từ 1985 đến lchi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
13
1.2.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
14
1.3.
Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về tội làm giả con
19
dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
1.3.1.
Các dấu hiệu pháp lý của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ
19
quan, tổ chức
1.3.2. Chế tài hình sự đối với tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ
31
quan, tổ chức
Chương 2: THựC TIẺN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH s ự ĐỐI VỚI TỘI
44
LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA c ơ QUAN, TÒ CHỨC
TẠI TỈNH PHỦ THỌ VÀ NHỮNG ĐÈ XUÁT, KIẾN NGHỊ
2.1.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội làm giả con
dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức tại tỉnh Phú Thọ
44
2.1.1.
Vài nét về địa chính trị, kinh tế tỉnh Phủ Thọ
44
2.1.2.
Những kết quả đạt được trong điều tra, truy tố, xét xử về tội
45
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
2.1.3.
Những tồn tại, thiếu sót trong điều tra, truy tố, xét xử về tội
58
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
2.2.
Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong áp dụng
65
pháp luật hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan,
tổ chức
2.3.
Các đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội
77
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
2.3.1.
Những quan điểm cơ bản trong cải cách tư pháp liên quan đến
77
đấu tranh với tội làm giả con dấu, tải liệu của cơ quan, tổ chức
2.3.2.
Hoàn thiện pháp luật hình sự đổi với tội làm giả con dấu, tài
79
liệu của cơ quan, tổ chức
2.3.3.
Các đề xuất, kiến nghị khác nâng cao hiệu quả đấu tranh với
86
tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
KÉ 1 LLẠN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Thống kê số vụ án, bị can bị khởi tố về tội làm giả con
47
bảng
2.1
dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức giai đoạn 2009 - 2014
2.2
Thống kê mức án Tòa án xét xử
48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng,
thực hiện Nghị quyết của Đại hội, đất nước ta chuyển từ cơ chế tập trung, bao
cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cả nước tiến
bước trên con đưòmg đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao,
vãn hóa - xã hội đạt được nhiều thành tựu, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội
mặc dù chịu tác động nhiều mặt từ bổi cảnh chung của khu vực và thế giới
nhưng cũng luôn ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững và tăng cường,
quan hệ đối ngoại được mở rộng, hợp tác quốc tế được tiến hành chủ động và
đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, theo quy luật chung của hiện tượng kinh tế - xã
hội, bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt. Bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, những tác động không nhỏ từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và quá
trình toàn cầu hóa mang lại, cộng với sự thiếu kinh nghiệm trong quản lý kinh
té - xã hội đă làm cho đời sổng xă hội có những biến động phức tạp, sự xuổng
Cấp về đạo đức lối sổng của một bộ phận dân cư trong xã hội, tình trạng thiếu
việc làm và thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo...Đặc biệt, trong những năm
gần đây, có một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã không ngừng gia tăng về số
vụ việc và đa dạng hơn, tinh vi hơn về cách thức thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội, đó là hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.
Tội phạm trong xã hội hiện đại là một hiện tượng xã hội - pháp ỉý phức
tạp với những biểu hiện khác nhau, vì ứiế công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm cùng gian khổ và khó khăn hơn. Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành
chính nói chung, tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nói
riêng đà và đang diễn biến hết sức phức tạp ở nước ta trong những năm gần
đây. Loại tội phạm này có chiều hướng gia tăng về số vụ, tính chất nghiêm ừọng
và phương ửỉức và ửiủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, giá trị tài sản do phạm tội mà
có ngày càng lớn, địa bàn phạm tội không chỉ bó hẹp ở một địa phương mà
còn trải rộng trên nhiều tỉnh, thành khác nhau. Các đối tượng tổ chức thành
đường dây quy mô lớn, thậm chí có đường dây làm giả con dấu, tài liệu của
cơ quan, tổ chức mang yếu tổ tội phạm xuyên quốc gia. Trong thực tiễn xét
xử tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức không ít Tòa án còn gặp
nhiều vướng mắc, lúng túng và không ít trường hợp còn chưa thống nhất các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tình hình loại tội phạm
này. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện
hành về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và thực tiễn áp dụng
để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và
những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó
không chỉ có ỷ nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do
luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài "Tội làm giả con dấu,
tài liệu của cơ quan, tồ chức trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. T ổ n g q u a n tìn h h ìn h n g h icn cứ u
Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính nói chung, tội phạm
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nói riêng luôn mang tính thời sự,
xuất phát từ hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước.
Vi vậy, những công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm trật tự
quản lý khá nhiều, có thể ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Thứ
nhất, các công trình nghiên cửu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo
trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung
cấp nhừng tri ứiức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu.
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Sách chuyên khảo sau đại học:
Những vẩn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự, của PGS.TSKH. Lê Cảm,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005; Giảo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007; "Giảo trình tội
phạm học", do GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 1999; Sách chuyên khảo cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn,
của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp, 2004; Trách nhiệm hình sự và
hình phạt, GS.TS. Nguyền Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, 2004; Sách
chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm hình sự, TS.Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính
trị quốc gia, 2013; Sách chuyên khảo Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam, do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư pháp, 2007... Thứ hai, các
công trình nghiên cứu ửiể hiện trên các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo, các số chuyên đề. Đây là nguồn
tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng
trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật có uy tín như Tạp chí Tòa án nhân
dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí
Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ pháp
luật...Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu tội phạm cụ thể hoặc
nghiên cứu về trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với tội phạm nói chung
trong đó có tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của c a quan, tổ chức. Thứ hư,
các bài viết đăng tải trên các vvebsite, các trang thông tin điện tử thể hiện quan
điểm đa chiều của các tác giả về thực trạng của tội phạm làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức qua các vụ án cụ thể, điển hình, gây dư luận xã hội.
Nhìn chung, có thể thấy rằng các công trình khoa học nghiên cứu về
chính sách hình sự, về tội phạm nói chung là khá nhiều. Tuy nhiên, quá trinh
thu thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về tội làm giả con dấu, tài liệu của
cơ quan, tổ chức được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cửu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội làm giả con
dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn
trong công tác xét xử tại địa phương, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về tội làm giả con dâu, tài liệu của cơ quan, tô
chức trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả trong thực tiễn xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đẻ đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nội
dung cơ bản sau:
- Lý luận cơ bản về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức;
- Thực tiễn xét xử tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ diễn ra như thế nào? Còn có gì vướng mắc khi áp
dụng luật, khi xét xử?
- Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tội làm giả con
dấu, lài liệu của cơ quan, tổ chức như thế nào?
- Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả công tác xét xử tội làm giả
con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức?
4. Những đóng góp mói về khoa học và ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
ihổng ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội làm giả con dấu, tài liệu
của cơ quan, tổ chức mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý
luận và thực tiễn liên quan tới tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ
chức trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về tội làm giả con dấu, tài liệu
của cơ quan, tổ chức trong mối tưomg quan so sánh với một số chế định tội
danh khác;
- Nghiên cứu, đánh giá, làm sáng tỏ bức tranh về tình hình xét xử tội
phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh Phú Thọ,
từ đó khái quát trên phạm vi cả nước; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn xét
xử cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sờ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đà đề
xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả xét
xử tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ờ Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp
luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành
tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ
thực tiễn đang công tác tại các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án hình sự về tội làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức được khách quan, đúng pháp luật.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn được triển khai nghiên cứu trên đối tượng là hành vi phạm
tội và người phạm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.
- I.uận văn nghiên cửii và giải quyết những vẩn đề xung quanh ché
định tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong luật hình sự
Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân địa phương và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế
nhằm đưa ra những kiến nghị, những giải pháp hoàn thiện luật thực định và
nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này.
- về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội làm giả con dấu,
tài liệu của cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian 5 năm
(từ năm 2009 đến năm 2014).
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con ngưòả, về xây dựng
Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng
và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ
quan, tổ chức.
Các phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch...
Từ đó tìm ra mối liên hệ giừa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù
hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng trong
thực tiễn đời sống xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương ỉ: Những vấn đề chung về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ
quan, tổ chức trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự với tội làm giả con
dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức tại tỉnh Phú Thọ và những đề xuất, kiến nghị.
Chương I
NHŨÌVG VÁN ĐÈ CHUNG VÈ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU
CỦA C ơ QUAN, TỐ CHỨC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH
sự VIỆT NAM
1.1. NH Ữ NG KHẢI NIỆM c ó LIÊN QUAN
1.1.1. Khái niệm con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
Con dấu - vật thường bằng đồng hoặc gỗ, trên bề mặt có khắc hình hoặc
chừ, dừig ấn lên văn bản, giấy tờ... để xác nhận một danh nghĩa nào đó [24, tr. 271 ].
Việt Nam và một số quổc gia còn sử dụng con dấu hiện nay quan niệm vể con
dấu rất được coi trọng. Con dấu có nguồn gốc từ Ấn triện, thể hiện quyền lực
của người mang nó. Thời kì phong kiến, mỗi vị quan đều được triều đình cấp
cho một cái ấn, gọi là Án triện, tượng trưng cho quyền lực mà vị quan ấy
nắm. Ân là phù hiệu của nhà quan, cũng có nghĩa là in, là để dấu vết lại, để
hợp nhau. Hoàng đế các triều đại - người trị vì đất nước thì có Ngọc tỷ để
truyền cho người kế vị ngai vàng (còn gọi là Ấn chỉ truyền quốc), truyền
thống này được kéo dài hàng ngàn năm trong lịch sử.
Đơn cử như Triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ quân chủ
phong kiến Việt Nam, bắt đầu từ niên hiệu Gia Long Nguyễn Phúc Ánh đến
Hoàng đế cuối cùng Bảo Đại Nguyễn Vĩnh Thụy. Ngôi vị Hoàng đế đều kế
thừa mô hình quân chủ chuyên chế cha tmyền, con nối của các nước phương
Đông, mà các triều đại phong kiến Việt Nam trước triều Nguyễn đã thực hiện.
Lễ đăng quang nhận bảo kiếm, Án truyền quốc của các vua Nguyễn diễn ra
hết sức trọng thể và mang đậm sắc thái chính trị. Hoàng đế triều Nguyễn cũng
như các vua chúa phong kiến Việt Nam trước đó đều lấy Bảo tỷ để biểu thị
cho quyền lực tối cao của mình và cả vương triều. Kim ngọc Bảo tỷ là ấn của
nhà vua dùng với ý nghĩa quốc gia trọng đại, ấn được làm bằng ngọc gọi là
Ngọc tỷ, ấn được đúc bằng vàng, bằng bạc, bằng bạc mạ vàng gọi là Kim Bảo
tỷ. Vì vậy, Kim ngọc Bảo tỷ là bảo vật quốc gia tượng trưng của đế quyền.
Dần chứng trên cho thấy rằng, quan niệm về con dấu (ấn) đã có trong tiềm
thức và sự thật lịch sử trong đời sống xã hội Việt Nam qua các thời kỳ, mồi
thời kỳ nó lại thể hiện giá trị khác nhau nhưng điểm chung là chiếm vị trí
quan trọng trong công tác quản lý xã hội của nhà nước.
Hiện nay, nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của con dấu trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật, quy định về con dấu, quản lý và sử dụng con dấu sao
cho có hiệu quả.
Tại Điều 1 Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính
phủ quy định về quản lý và sử dụng con dấu (sau đây gọi tắt là Nghị định số
58/2001/NĐ-CP) khẳng định:
Con dấu được sử dụng trong các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xà hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
hội quần chúng, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan, tổ chức
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là cơ quan, tổ
chức) và một số chức danh nhà nước. Con dấu thể hiện vị trí pháp
lý và khẳng định giá trị pháp lý đổi với các văn bản, giấy tờ của các
cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước [9].
Như vậy, con dấu là yếu tổ thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị
pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức
danh nhà nước. Giá trị pháp lý pháp lý của con dấu thể hiện ở việc, con dấu
được đóng (in, ấn) trên các văn bản, giấy tờ của cơ quan, tổ chức hoặc chức
danh nhà nước. Văn bản không có con dấu là nhừng văn bản không có giá trị
pháp lý và không có hiệu lực thi hành. Con dấu là thành phần biểu thị vị trí cơ
quan trong hệ thống bộ máy nhà nước, là một trong những yếu tố quan trọng
giúp cơ quan, tổ chức tự nhân danh mình thực hiện các giao dịch, trao đổi với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Con dấu là thành phần quan trọng giúp
các cơ quan, tổ chức tránh được tình trạng giả mạo giấy tờ.
Trong bất kỳ cơ quan, lổ chức nào cũng có một lĩnh vực công tác vô
cùng quan trọng, đó là công tác quản lý tài liệu, hồ sơ, sổ sách, văn bản, giấy
tờ. Công tác này bao gồm toàn bộ công việc liên quan đến đăng ký, thu thập,
bảo đảm vẹn toàn và phát huy giá trị các hồ sơ, tài liệu từ thời điểm hình
thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức cho đến khi bị tiêu
hủy hoặc được lựa chọn để bảo quản vĩnh viễn trong các lưu trữ lịch sử.
Trong thời đại công nghệ thông tin, điện tử hóa, tin học hóa như ngày nay thì
mỗi cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các tổ chức kinh tế muốn tồn tại và phát triển
bền vững phải có năng lực nhanh nhạy trong xử lý thông tin nói chung và
thông tin tài liệu nói riêng. Chính vì vậy, việc quản lý tài liệu có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Nó được ví như những huyết quản trong thân thể con người
bảo đảm cho dòng máu tốt được chảy đều, đúng, chính xác, đầy đủ và kịp thời
và liên tục trong cơ thể và lên bộ não, không để xảy ra ùn tắc, rò ri. Cũng
chính vì nắm bắt được vai trò này của tài liệu mà hiện nay, các đối tượng xấu
đã lợi dụng những kẽ hở trong công tác quản lý, bảo mật của các cơ quan, tổ
chirc để thực hiện các hành vi như đánh cắp, sao in trái phép, làm giả... để
thực hiện vào mục đích phạm pháp khác nhau.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa và giải thích về khái niệm tài liệu.
"Tài liệu - văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì" [24, tr. 852]. Hoặc
"tài liệu" là đơn vị thông tin được ghi lại không phụ thuộc vào hình thức vật
mang tin. Theo cách hiểu phổ biến ở một sổ nước tiên tiến, đặc biệt theo Tiêu
chuẩn quốc tế ISO 5489-1 "Thông tin và hệ thống tài liệu", khái niệm "Tài
liệu" (document) được định nghĩa như sau: Tài liệu "là thông tin được ghi lại
hoặc một đổi tượng có thể được xử lý như một đơn vị - một thể thống nhất".
Luật lưu trừ sổ 01/2011/QH13 ngày 11/11/2011 của Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lưu trữ, khái niệm tài liệu:
Là vật mang tin được hình thành trong quá trình hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết
kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ sách, biểu thống kê; âm bản,
dương bản phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi âm, ghi hình; tài liệu
điện tử; bản thảo tác phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác, nhật
ký, hồi ký, bút tích, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và
vật mang tin khác [34].
Như vậy, con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là những vật được sử
dụng để xác định tư cách pháp lý của cơ quan, tổ chức trong việc ban hành
các văn bản nhằm xác định giá trị chân thực của tài liệu trong quản lý nhà
nước, xã hội và quản lý kinh tế.
1.1.2.
Khái niệm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức
về ữiuật ngữ "làm giả", có nghĩa là "bắt chước ứiứ gì để lừa bịp" [23, ừ.520].
Trong khi đó, "giả" tức là "không phải thật mà là được làm ra với vẻ bề ngoài
giống như thật, thường là dùng để đánh lừa" [23, tr. 369].
Để xác định con dấu giả thì phải so sánh với con dấu thật của cơ quan,
tổ chức. Nhìn chung, làm giả con dấu của cơ quan, tổ chức có thể được hiểu
là hành vi xàn xuất, khắc, đúc đ ể có được con dấn giả hoặc hằng các thủ ắoạn
khác làm ra con dẩu giả, bắt chước mẫu con dấu đã được cơ quan cỏ thầm
quyền cho phép sản xuất, lưu hành hoặc không theo mẫu đó. Hay nói cách
khác, làm giả con dấu là bằng các thủ đoạn trải pháp luật khác nhau để cỏ
được con dấu tương tự như con dấu của cơ quan, tổ chức đã được cơ quan có
thẩm quyền cấp theo đủng trình tự quy định của pháp luật.
Tương tự như làm giả con dấu, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức
là hành vỉ in ấn, sản xuất trải phép các tài liệu hoặc giấy tờ khác theo mẫu
gốc hoặc không theo mẫu gốc cùa cơ quan, tổ chức.
l.ỉ.3 . Khái niệm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, hiện tượng này
mang thuộc tính xã hội - pháp lý, tính lịch sử - xã hội. Tội phạm luôn chứa
đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược
10
lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xà hội, xâm phạm đến quyền và các
lợi ích hợp pháp khác của con người... Bởi nguyên lý sinh tồn tự nhiên là đối
tượng bị tẩn công, xâm hại phải có động thái phản vệ để tự bảo vệ mình nên
Nhà nước và cộng đồng xã hội, dân cư tất yếu có những cơ chế, cách thức,
biện pháp nhằm chống trả, phòng ngừa tội phạm. Là một loại tội phạm được quy
định trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ
chức có nhừng điểm chung và khác biệt so với nhóm tội phạm cùng loại.
Khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm và các khái niệm, phạm
trù, chế định khác đều xuất phát, xoay quanh khái niệm này. Việc xác định tội
phạm trong luật hình sự là cơ sở để quy định hình phạt nhưng việc quy định
hình phạt xét cho cùng cũng là một phần của việc xác định tội phạm... Khái
niệm tội phạm là cơ sờ để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa
là mô hình pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy định
hình phạt tương ứng [18, tr. 8]. Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 đã
đưa ra định nghĩa rất rõ ràng về tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xă hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cổ ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [30 .
Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức trong Bộ luật hình
sự năm 1999 là tội phạm được tách từ tội giả mạo giấy chứng nhận, tài liệu
của cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội đã được quy định tại Điều 211 Bộ
luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, Điều 267 Bộ luật hình sự năm 1999 có
11
nhiều sửa đổi, bổ sung quy định người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy
tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm
lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân thì phạm vào điều luật này. Từ khái
niệm tội phạm nói chung được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì khái niệm "Tội ỉàm giả con dấu, tài liệu cùa
cơ quan, tổ chức" có thể được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người cỏ năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện việc làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức
hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đỏ nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc
cóng dân.
1.2.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIÉN TỘI LÀM GIẢ CON DÁU,
TÀI LIỆU CỦA C ơ QUAN T ỏ CHỨC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH s ự VIỆT NAM
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giành lại chủ quyền cho đất
nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa. Sau thắng lợi đó,
nhà nưóc ta đã han hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành quả cách
mạng. Nhừng nội dung được coi trọng, ưu tiên đó là chế độ kinh tế - nền tảng
kinh tế và trật tự quản lý hành chính nhà nước của chính quyền non trẻ. Các
quy định pháp luật đã phản ánh tưomg đối rõ nét các đặc điểm kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa cùng như kỹ thuật lập pháp của nước ta trong một giai
đoạn lịch sử, đặc biệt thể hiện rõ chính sách hình sự của nhà nước ta đổi với
các hành vi xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Thời kỳ này, ở nước ta
những quan hệ pháp luật hình sự - hành chính còn chưa có nhiều sự tách biệt.
Các Sắc lệnh quan trọng có thể kể đến như: sắc lệnh số 154/SL ngày
17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc ấn định
nhừng hình phạt trừng trị việc để tiết lộ bí mật. Sau đó, sắ c lệnh số 69-SL
ngày 10/12/1951 và Thông tư số 137-TTg ngày 10/12/1951 về việc giữ gìn bí
mật quốc gia được ban hành để bổ khuyết sắ c lệnh sổ 154-SL về việc giữ bí
12
mật quốc gia. Ngày 31/3/1955, Chính phủ ban hành Thông tư số 490-TTg về
bảo vệ cơ quan, bảo vệ tài liệu, cán bộ. Ngày 8/2/1960, Bộ y tế ban hành
Thông tư số 01-BYT/TT quy định mẫu cờ, dấu, phù hiệu kiểm dịch và chế độ
trang phục cho cán bộ làm công tác kiểm dịch tại các hải cảng, sân bay và các
cửa khẩu dọc biên giới. Ngày 30/11/1982, Hội đồng nhà nước ban hành pháp
lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia, quy định tài liệu lưu trữ quốc gia thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý; nghiêm cấm việc mua bán, trao đổi, cất
giữ, tiêu hủy trái phép tài liệu luu trữ quốc gia hoặc sử dụng vào các mục đích
trái với lợi ích của Nhà nước. Tài liệu riêng của các cá nhân, gia đình, dòng
họ và tập thể được Nhà nước đăng ký và bảo hộ, các cơ quan lưu trữ hướng
dẫn, giúp đỡ về mặt bảo quản.
Từ các văn bản pháp luật kể trên, có thể thấy hệ thổng pháp luật
liên quan đến vực hình sự của nước ta thời kỳ 1945 đến trước khi có Bộ luật
hình sự đầu tiên chưa có quy định tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan,
tổ chức.
1.2.2. G ia i đ o ạ n tỉr 198S đ ến k h i ban hành Bộ lu ậ t hình sự năm 1999
Vào những năm 1980, đất nước ta với nền kinh tể có nhiều sự thay
đổi, bắt đầu từ tư duy đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI (12/1986). Cùng với đó, nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung,
bao cấp, chủ yếu hợp tác với các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa thuộc Liên
Xô và Đông Âu (cũ) chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, định hướng xă hội
chủ nghĩa với việc cho phép và đẩy mạnh sự phát triển của nhiều thành phần
kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Chính điều này đà dẫn tới nhiều sự thay đổi của
xã hội, một yếu tổ thuộc kiến trúc thượng tầng cũng chịu ảnh hưởng đó là pháp
luật. Với sự phát triển của khoa học pháp lý nói chung và pháp luật hình sự nói
riêng, năm 1985 chúng ta đã ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên với 12 chương,
280 điều. Mục c , Chương VIII, phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 có
14 điều (từ Điều 205 đến Điều 217) đã quy định về các tội xâm phạm trật tự
13
quản lý hành chính. Lần đầu tiên, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985,
hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức được thể hiện tại Điều 211:
Tội giả mạo giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan nhà nước,
của tổ chức xã hội với nội dung: Người nào sửa chữa, làm sai lệnh
nội dung hoặc làm giả giấy chứng minh, hộ chiếu, giấy chứng nhận
hộ tịch, hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận khác của cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp
luật; hoặc làm giả con dấu, giấy tiêu đề hoặc giấy tờ khác của cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc sử dụng con dấu, giấy tờ đó
nhằm lừa dối cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm; trong trường hợp phạm tội có tổ chức hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [28].
Theo khoản 1 của điều luật này và căn cứ theo Điều 8 Bộ luật hình sự
năm 1985 thì những hành vi giả mạo giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan
nhà nước, của tổ chức xã hội thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng vì mức cao
nhất của khung hình phạt chỉ là đến 3 năm tù. Trong khi đó, tại khoản 2, quy
định những người phạm tội cỏ tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị
phạt đến 7 năm tù, thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong hơn mười
năm có hiệu lực, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bổn lần và
được thông qua vào các ngày 28/12/1989, ngày 12/08/1991, ngày 22/12/1992
và ngày 10/05/1997. Tuy nhiên, qua những lần sửa đổi, quy định tại Điều 211
vẫn được giữ nguyên. Điều đó chứng tỏ quy định này đã phát huy giá trị nhât
định trong việc ngăn chặn, phòng ngừa, đấu tranh chổng lại tội phạm giả mạo
giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội.
1.2.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
Bộ luật hình sự năm 1985, mặc dù đã tiến hành sửa đổi, bổ sung bốn
lần, nhưng trong tình hình mới, đã bộc lộ những hạn chê nhât định nên
14
không còn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy,
ngày 21/12/1999, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
X, tại kỷ họp thứ 6 đã thông qua Bộ luật hình sự mới: Bộ luật hình sự năm
1999. Có thể nói Bộ luật hình sự năm 1999 đã thể hiện toàn diện chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực từ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế... đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tạo cơ sở pháp lý cho đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung
và tội giả mạo giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội nói riêng.
So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 có rất
nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt, về cơ cấu các chương, các điều,
khoản. Các tội xâm phạm trật tự an toàn, trật tự công cộng tại chương VIII Bộ
luật hình sự năm 1985 đã được tách ra, chuyển các tội phạm vào từng nhóm
chế định cụ thể. Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính được quy
định tại chương XX (từ Điều 257 đến Điều 276). Tội giả mạo giấy chứng
nhận, lài liệu của cư quan nhả nước, của tổ chức xã hội đã dưực quy dịnh tại
Điều 211 Bộ luật hình sự năm 1985 đã được quy định lại và tách ra thành hai
tội phạm mới: Tội sửa chừa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ
quan, tổ chức (Điều 266) và Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ
chức (Điều 267).
Hành vi làm giả con dấu, tài liệu đã được quy định thành tội phạm
riêng biệt cho phù hợp với yêu cầu và thực tiễn đấu tranh phòng, chổng tội
phạm trong tình hình mới. Điều 267 Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sờ kế
thừa Bộ luật hình sự năm 1985 và đã có nhiều sửa đổi, bổ sung mà trước hết
việc đặt tên cho điều luật quy định về tội phạm đã nói lên điều này. Bên cạnh
đó, Điều 267 Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung một vài điểm như:
dùng khái niệm "tài liệu" thay cho khái niệm "giấy tiêu đề" vừa chính xác,
vừa phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chổng loại tội phạm này. Nhà làm
15
- Xem thêm -