Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm họ...

Tài liệu Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học

.PDF
114
15
118

Mô tả:

k>4 H 5 ' 59Ỷ MA - ? Đ Ạ I H Ọ C Q U Ố C G IA H À N Ộ I K H O A LU ẬT M A I PHONG TỘI • T ổ CHỨC HA.MI BẠC » HOẶC • GÁ BẠC: » MỘT SỐ IỈIIÍA C Ạ \II PIIiíl» LÝ HÌNH s ự VÀ • t • TỘI PIIẠM IIỌC • I • CHUYÊN NCỈÀNH: L U Ậ T H ÌN H s ự MÀ SỔ: 6 0 .38.40 LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT HỌC • « • • NGƯỜI HƯỚNCĨ DẪN KHOA HỌC: LS. PCS. TS. P H Ạ M IiỔ N G HẢI -j£ i HOC QUỎC G iA HÀ NỘI ị TRUNG TÁM ĨHÒNG TIN ĨH Ư VIỆN h HÀ NỘI - 2006 N/-L0Ị.4444 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự 2. BLHS: Bộ luật hình sự 3. CNXH : Chủ nghĩa xã hội 4. TANDTC: Toà án nhân dân tối cao 5. MĐGTHiN: Mức độ gia tâng hàng năm 6. MĐGTBQN: Mức độ gia tăng bình quân năm MỤC LỤC T rang MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH VỂ TỘI T ổ CHỨC ĐẢNH BẠC 0I 5 H O Ặ C G Á B Ạ C T R O N G L U Ậ T H ÌN H s ự V IỆ T N A M 1.1 Khái quái lịch sử phái tl ien của Luậl hình sự về tội tổ chức đánh 5 bạc hoặc gá bạc trước khi BLHS 1985 có hiệu lực. 1.2 Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo quy định của BLHS 1985 '1 1.3 Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo quy định của BLHS 1999 15 1.4 Phân biệt tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và một sô' tội phạm 24 khác 1.5 Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong pháp luật hình sự một số 26 nước trên thế giới C H Ư Ơ N G 2. T Ì N H II ÌN H , N G U Y Ê N NH  N VÀ Đ IỂ U K IỆ N CỦ A T Ộ I T Ổ C H Ú C Đ Ả N H BẠC H O Ặ C G Ả BẠC 30 2.1 Khái quát tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc ở 30 nước ta trong thời gian gần đây 2.1.] Thực trạng và điền biến của tội phạm tổ chức đánh bạc, gá bạc 32 2.1.2 Cư cấu và tính chất của tình hình tội phạm lổ chức đánh hạc 33 hoặc gá bạc 2.1.3 Hình thức, quy mô, phương tiện, công cụ, phương thức, thủ 36 đoạn, địa điểm, ihừi gian phạm tội. 2.1.4 Đặc điểm VC nhân than người phạm tội 47 2.1.5 Vấn đề tội phạm ẩn 50 2.2 Một số nguyên nhún và điều kiện của tình hình tội phạm tổ chức 52 đánh bạc hoặc gá bạc trôn địa bàn nước ta 2.2.1 Nguycn nhân vổ dieu kiện kinh lế - xã hội 53 2.2.2 Nguyên nhân và (lieu kiện trôna quản lý nhà nước trên một số 55 lĩnh vực 2.2.2.1 Về quản lý dân cư 55 2.22.2 57 V é lĩn h v ự c q u ả n lý k in h d o a n h , d ịc h v ụ 2.2.2.3 Lĩnh vực quản lý các phương tiện truyền thông 63 2.2.3 Nguyên nhân diều kiện thuộc lình vực tAm lý - xã hội 2.2.4 Nguyên nhân và điều kiện thuộc về chính sách pháp luật 65 và 68 những tổn tại trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luậl. 2.2.5 Nguyên nhún và diều kiện thuộc về văn hoá, giáo dục 71 2.3 Dự hát) tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong 75 thời gian tới C H Ư Ơ N G 3. C Á C G I Ả I P H Á P N  N G C A O H IỆ U QU Ả CÔ N G T Á C ĐÂU TR A N H PH Ò N G C H Ố N G T Ộ I PH Ạ M T ổ CHỨ C ĐÁNH BẠC H O Ặ C GÁ BẠC Ở NƯỚC TA T R O N G TÌNH HÌNH HIỆN NAY 3.1 80 K0 Các quan diem về đâu tranh phòng chống tội phạm cờ bạc ỏ' Nước ta hiện nay 3.2 Giải pháp ve kinh lế - xã hội 83 3.3 Giai pháp vé quan !ý Nhà Nước trên một số lĩnh vực g6 3 .3 .1 G iai pháp về q u án lý dân cư 86 3.3.2 Quán lý hoạt động của các phương tiện truyền thông 88 3.3.3 Đối với hoạt dộng quan lý kinh doanh dịch vụ 88 3.4 Lĩnh vực văn hoá, giáo dục 3.5 Giai pháp về pháp luật và nâng cao hiệu quả của các cơ quan bảo 91 07 vộ pháp luật 3 . 6 G i a i p h á p v ề t â m lý - x ã h ộ i Ị02 KẾT LUẬN 104 DANH MỤCTÀI LIỆU THAM KHẢO « 108 PHẦN M Ở ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đe tài. Sau hai mươi năm đất nước đổi mới, hội nhập kinh tố quốc 1C, cùng với chủ trương, dường lối đúng đắn -của Dane, Nhà nước, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xúy dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống nhân dân dược nâng caơ về mọi mặt. Bên cạnh những thành quả đã đạt dược, mặl trái của nền kinh tế thị trường cũng lác dộng tiêu cực đến đời sống xã hội, kco llico sự gia lăng không ngừng của tệ nạn xã hội, trong đó có tệ nạn cờ bạc. Tệ nạn cờ bạc dang từng ngày, từng giờ làm ánh hướng đến nếp sống văn minh của người dân trên địa bàn ca nước, làm tha hoá một bộ phận không nhỏ dân cư, gây ra thiệt hại vật chất, linh thần cho nhiều gia đình, đồng thời là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Thống kê của các cơ quan chức năng cho thấy, tộ nạn cờ bạc diễn biến hết sức phức lạp và có xu hướng gia tăng. Lực lượng Công an trcn toàn quốc trong 5 năm vừa qua (2001-2005), đã khám phá 20.456 vụ cờ bạc, xử lý 85.328 đối lượng. Sự gia tăng của các đối tượng cờ bạc kéo theo sự gia lang của các đối tượng tổ chức đánh bạc, gá bạc. Với phương thức và thủ đoạn tinh vi, các đối tượng tổ chức đánh bạc không ngừng mớ rộng địa bàn hoạt động ra mọi vùng miền trôn toàn quốc, lôi kéo thêm nhiều người tham gia, số lượng liền và lài sản thanh toán tại các sòng, sới bạc ngày càng lớn. Các đối lượng này không chỉ hoại dộng trong nước mà còn phát tricn thành các tổ chức lội phạm, cấu kết với các đối urợng tại nước ngoài để lổ chức đánh bạc. Trước thực trạng phát triển ngày càng gia tăng của lệ nạn cờ bạc, Đảng và Nhà nước đã và dang tiến hành nhiêu phương pháp khác nhau để đấu tranh phòng ngừa đối với tệ nạn cờ hạc, nhất là tội phạm tổ chức đánh bạc, gá bạc. Tuy nhiên, những phương pháp đến nay vẫn chưa thực sự hữu hiệu đã ảnh hưởng đến hiệu qua của cuộc đấu tranh này. Từ những lý do trên, việc nghiên cứu về tội phạm tổ chức đánh bạc, gá bạc tìm ra những nguyên nhân điều kiện phạm tội, phương thức thủ đoạn phạm tội, hiểu đúng quy định của pháp luật về tội phạm lổ chức đánh bạc, gá bạc, đe lừ dó đưa ra phương pháp đấu tranh phù hợp, nhằm hạn chế lội phạm này là vấn đề có ý nghĩa iý luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài "T ộ i tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc: M ột sô khía cạnh pháp lý hỉnh sự và tội p h ạ m h ọ c " làm đề tài nghiên cứu. 2. T ình hình nghiên cứu Trong những năm vừa qua, các nhà khoa học (lã có nhiều công trình nghiên cứu về loại lội phạm này và được tic cập đến nỉìicu trong các bài viết trên báo chí, tạp chí chuyên ngành luật, các cồng trình khoa học. Điển hình như các công trình: Đc tài KX. 04.14 năm 1992 của Tổng cục Canh sát - Bộ Công an với nội dung “Đổi mới các chỉnh sách xã hội nhầm khắc phục lệ nạn xã hội trong diều kiện kinh tế thị trường \ đề tài cấp Bộ của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật năm 2000 với nội dung “Những luận cứ khoa học cho các ịỊÌải pháp phòng chống các tệ nạn x ã hội ở nước 1(ỉ\ L uận án T iến sỹ của tác gia Phan Đình Khánh - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001 “Tăng cường đấu tranh phồng chống tệ nạn xã hội bằng plìáp luật ở Việt Nam hiện n a y \ Luận văn Thạc sỹ của Cao Thị Oanh - Đại học Luût Hà Nội với đẻ tài "Dấu tranh phalli’ chống các tội phạm cờ bạc trên địa bàn tlìành p h ố Hò Nội năm 2002". Ngoài ra còn có các công trình, đóng góp của một số tác giá Ihông qua các bài viết về hoàn thiện các quy định về tội phạm cờ bạc trong pháp luật hình sự. Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên mới chí nghicn cứu khái quát hoặc tập trung nghiên cứu về mặt lý luận, địa bàn cụ thể hay tiếp cận vân đổ từ góc độ của các hiện pháp nghiệp vụ cụ thể để đấu tranh, phòng chống tội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc dưới góc độ là hai tội phạm trong những tội phạm về cờ bạc (hao gồm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc), mà vẫn chưa làm rõ quy định và các dấu hiệu pháp lý hình sự, cũng như phân tích những hạn chế của chính sách và các biện pháp mà cơ quan có thẩm quyển đang úp dụng dể đấu tranh phòng chống tội phạm đang diễn ra. Từ đó tìm ra những phương thức, thủ đoạn, hình thức tổ chức của tội phạm. Chính vì vậy, cần phải có những những nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về loại tội phạm này trcn 2 địa bàn nước ta từ gốc độ lý luận và thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống lội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong những nãm qua để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và nhiệm vụ báo vệ trật tự xã hội trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và lội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nói riêng, mục clích của luận vãn là nghiên cứu một cách long Ihế vì» loàn diện những vốn dề vé lội phạm lổ chức (lánh bạc hoặc gá bạc. Đồng thời di sâu vào những vấn đề trọng tâm trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong thời kỳ hiện nay. Các vấn ílé được nghiên cứu từ 2 khía cạnh: Khía cạnh pháp lý và tội phạm học. Dưới góc độ pháp lý: Luận vãn nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận của pháp luật hình sự VC tội lổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Dưới khía cạnh tội phạm học, nghicn cứu lình hình tội phạm lổ chức đánh bạc hoặc gá bạc ở nước ta trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, nhân thân người phạm tội, đưa ra các thông số, các số liệu về thời gian, địa bàn, phương tiện thủ đoạn phạm tội, những hậu quả mà tội phạm đã gây ra cho xã hội, đưa ra những dự báo về lình hình tội phạm trong thời gian tới. Phân tích các biện pháp mà các cơ quan bảo vệ pháp luật đang áp dụng để phòng chống hiện nay’ từ đó nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống trong thới gian tới. Để thực hiện mục đích trôn, luân văn cần phải hoàn thành các nhiệm vụ sau: - Về mặt lý luận: nghiên cứu, phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc ( Điều 249 BLHS 1999 ) - Vc mặt thực tien: Phân tích làm rõ tình hình tội phạm tổ chức đánh hạc hoặc gá bạc cũng như thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này ở nước ta, chỉ ra những hạn chế của các biện pháp này, nguyên nhân và điều kiện, phương thức thủ đoạn phạm tội để từ đó đưa ra các biện pháp đấu iranh phòng chống tội phạm này. 3 4. Đối tưọìig và phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghicn cứu các vấn đề: Lịch sử phát triển của Luật hình sự vé tội tổ chức đánh bạc hoặc eá bạc. Cúc dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tình hình cỉiền biến của tội phạm trong thời gian tới, nguyên nhãn và dieu kiện của tội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gấ bạc, những phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác dấu tranh phòng - chống trong tình hình hiện nay. 5. Cơ sở, pillion^ pháp nghiên CÍÍÌ1 Các ván (Je cùa luận văn dược nghiên cứu dựa trên cư sơ phương pháp luận của của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hổ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước VC Nhà nước pháp quyền, các phương pháp khoa học nhií: phương pháp thống kê, lịch sử, logic, điều tra xã hội học, so sánh đối chiếu ... 6. Đicm Iìiứi của đề tài Nghiên cứu tội phạm tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc một cách loàn diện và có hệ thống trên cơ sử lý luận, diễn biến của lội phạm cũng như thực tiên công lác đấu lỉanh phòng chống của các cơ quan tư pháp, chính sách, quan điểm của Nhà nước liiộn nay cũng như trong thời gian tới. Ncu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu Iranh phòng chông tội phạm lổ chức đánh bạc hoặc gá hạc Irong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Luận vãn được bớ cục gồm phần mở đầu, 3 chương với 14 mục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo 4 CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH VỂ TỘI T ổ CHÚC ĐÁNH BẠC HOẶC GÁ BẠC TRONG LUẬT HÌNH s ự VIỆT NAM 1.1. Khái quát lịch sử phát triển của Luật hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trước khi BLHS 1985 có hiệu lực. Trong lịch sử phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam ở góc độ giữ LÙ11 trật tự, xã hội phong kiên đã đề cộp đến vân đc cờ bạc trong các Bộ luật lớn như Lè triều hình luậl (Luật llồng Đức), Hoàng Việt Hình luật (Luật Gia Long), và các bộ luật này đều quy định cấm hành vi cờ bạc. Đối vríi những người chủ mưu cám đầu việc đánh bạc, pháp luật đều quy định hình phạt nặng. Tại Điều 188, Bộ luật Hồng Đức (Lê triều hình luật) có quy định như sau "Ai tụ tập (lánh hực thì bị cìánli 70 trượng, biếm ba tư, phạt ba quan tiền, thưànq cho ke tô'cáo. NíỊiíòi dứng đầu hay túi pliạm tội đánh bạc thì tăng một bực tội. Ké a tùng ỹíim một bực tội. Tiền trong sònq bạc ân thua và văn tự mua bân d ể cìáììlì bạc đều Iihập câng khố. Đang khi quốc tang mà đánh bạc thì thêm một bực tội. Nếu sinh sự trong đánh bạc thì bị xử riêng Sau khi giành được chính quyền lừ thực dân Pháp, chính quyền mới được thành lập dã nhận thức rõ sự nguy hiểm của các hành vi cừ bạc đối với xã hội và sự an nguy của chính quyền non trẻ, với mục đích ngăn chặn tay địch và những phán tứ thuộc giai cấp bóc lột lúc bấy giờ mới bị hạn chế vé mặt bóc lột, chưa bị thủ tiêu, díing cò bạc vào những mục đích phá hoại, đáu độc, bóc lột nhân dân, làm cho một số người sao lãng nhiệm vụ cách mạng. Văn bán pháp luật hình sự đầu tiên của nước ta quy định về các tội cờ bạc là Sắc lệnh so 168/SL ngày 14/4/1948. Văn bản này thể hiện đường lối xử lý cứng rắn, thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với loại tội phạm này, đặc hiệl dối với những dối tượng lổ chức đánh bạc. Các tội về cờ bạc mang tính chất liệt kc các hành vi, chưa phần định rõ các tội phạm cờ bạc cụ thể. Tại Điều 2 của sắc lệnh quy định về hành vi tổ chức đánh như sau : - Hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi tổ chức một cuộc đánh bài, đánh hạc, một trò chơi đã được nêu tại Điều I: (Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù có 5 lính chất may rủi hay là có thể dùng trí khôn dể tính nước mà dược thua bằng tien hoặc những cuộc đánh đố nhau vì liền, những cuộc sổ số bằng tiền hay bang đổ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phcp trước thì đều bị coi là hành vi đánh bạc) không cứ ớ nơi nào. - Sắc lệnh chưa quy định VC hành vi gá bạc nhưng vối quy định đối với trú cá những người mà cho mượn địa điểm để tổ chức đánh bạc, không cần biết cổ thu lợi hay kliỏnu đều bị xử lý như là người tổ chức đánh bạc. Tại Điều 11 quy định: Hành vi của những người chủ lìlià vì lình cám tic cho người khác (lánh bài, đánh bạc trong nhà mình không phụ thuộc vào việc có thu lợi hay không đều bị xử lý như là người tổ chức đánh bạc . - Sắc lệnh cũng quy định những người giúp người khác tổ chức những cuộc chơi nói trên, những người quản lý, người làm cái, lấy hồ, những người làm công khác giúp trực tiếp vào cuộc chơi đều bị coi là tòng phạm của người tổ chức đánh bạc Hình phạt được áp dụng dối với người tổ chức đánh bạc, gá bạc: - Điểu II của Sắc lệnh quy định hình phạt đối với người tổ chức đánh bạc, người gá bạc là tù lừ 2 năm đến 5 năm và phạt bạc (phạt tiền) từ 10.000 dồng đến lOO.OOOđ. - Ngoài hình phạt chính, diều luật còn quy định hình pliạt bổ sung có the áp dụng đối với người phạm tội là bị quản thúc từ 1 năm đến 10 năm. Đường hướng xct xử của Toà án cũng dược quy định lại Điều IV, sắc lệnh này đó là: - Dù rằng Toà án xét có tình trạng nên giảm, cũng bắt buôc phải áp dụng hình phạt tối ihiểu về tù và tiền nói trong Điều II và Điều III trên đây. Toà án phai phạt vừa tù và tiền mà không cho bị can hưởng án Irco. - Nếu cỏ trường hợp tái phạm, các hình phạt sẽ lũng gấp dôi. Có thể thây rằng sắc lệnh này mặc dù chưa phân biệt rõ các hành vi cờ bạc, nhưng Irong quy định đã có phân hoá để xử lý đối với những đối tượng lổ chức, gá bạc và những người đánh bạc. Hình phạt dược áp dụng đối với các tội phạm về cờ bạc là rất nghiêm khắc, đặc biệt đối với những người tổ chức và gá bạc bao gồm hình phạt chính bị áp dụng đồng thời cả phạt tù và phạt tiền, hình phạt bổ sung đuợc áp dụng là quán thúc từ 1 năm đến 10 năm. Ngoài ra còn áp dụng biện pháp tịch lliu tất cá các đồ vật, tiền dùng để đánh bạc. 6 Cùng với sự thay đổi của đất nước, vấn đề ngăn chặn hàn tay của địch và các phần tử bóc ỉộl sử dụng cờ bạc với mục đích chống phá chính quyền không còn được đại ra. Sau khi ra đời một thời gian, sắc lệnh 168/SL đã thu được nhiều kết qua, nhưng với tình hình mới đó là việc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì một số quy định của sắc lệnh đã không còn phù hợp và cần thiết phải tiến hành những sửa đổi. Năm 1957, Thông tư 30Ỉ/VHH - HS ngày 14/1/1957 và Thông tư 2098/VHH - MS ngày 31/5/1957 cua Bộ Tư pháp về việc hài trừ tộ nạn cờ bạc đã giai quyết một phẩn những vướng mắc của sác lệnh 168/SL. Tại Thông tư 301/VHH- HS, dường lối xử lý các tội cờ bạc đã có sự giảm Iihç với phương châm “ lây giáo dục làm chính Trên tinh thần đó, ihông lư cũng dưa ra đường lối xử lý của các cơ quan tư pháp đối với việc tổ chức đánh bạc, dó lầ "Khổng nhất thiết phải bắt được quả tang đánh bạc mới có thể truy lố được. Có the viện chứng bằng bất kỳ hình thức nào để chứng minh là bị can đã tổ chức hoặc đã đánh bạc nhưng cần phải thận trọng trong trường hợp này. Có bằng chứng rõ ràng thì mới truy tố, không nên suy !uộn hoặc chí dựa vào lời khai của một vài nhân chứng (Phần B mục I). Thông tư này xác định chỉ truy tố đối với các đối tượng: - Bọn tổ chức, bọn chứa gá, bọn sóc cái, bọn hồ lỳ, bọn canh gác chuyên sống VC nghề cờ hạc. - Bọn con bạc chuycn sống vẻ nghề cờ bạc hoặc đã được cảnh cáo rồi mà vẫn tiếp tục chơi coi thường pháp luật. Quy định này đã thu hẹp đối với các đối tượng bị xử lý về tội cờ bạc, bao gổm các đối tượng tham gia vào lổ chức, chứa gá bạc và người đánh bạc là đối tượng có kèm theo những đặc điểm về nhân thân thì mới xem xét để xét truy tố. Thông tư cũng quy định đường lối phân hoá trong chính sách hình phạt đối với các đối tượng phạm lội. Cụ thể là: “Đối với nhữiiỊỊ bọn trên thì .xửphạt mức tối thiểu, trường hợp tội lìậiiq mới nên phạt trên mức tối thiểu". So với đường lối xử lý của sắc lệnh 168/SL, đường lối xử lý trong thông tư này đã giám nhẹ đáng kể đối với những đối tượng tham gia cờ bạc, nhưng đối với đối 7 tư ợ n g tổ c h ứ c , g á b ạ c và đ ố i tư ợ n g th a m g ia v iệ c tổ c h ứ c th ì VC d ư ờ n g lố i x ử lý vẫn giữ nguyên . Tại Thông tư số 2098 ngày 31/5/1957 một lần nữa lại nêu ra cách vận dụng Sắc Lệnh 168/SL trong điều kiện mới thông tư này xác định những nội dung chính sau: - Về mức hình phạt: Đối với những Irường hợp phạm tội lìhẹ mà nếu phạt bị can mức tối thiểu là 01 năm tù thì nặng quá nhưng nếu chí cảnh cáo ở Plìònu công lố thì nhẹ quá. Thông tir này cũng nêu lên đường lối xử lý là pliai cân nhắc giữa truy tố và không truy tố. Nếu thấy truy tố lù cần thiết để làm hậu thuẫn cho việc giáo dục thì cứ đưa ra truy tố và đề nghị với Toà án xử phạt mức tối thiểu. Nếu xct thấy không cần thiết thi phải truy tố thì cánh cáo ở phòng công tố rồi tha cho bị can. Mức phạt tien vẫn giữ nguyên theo quy định lai sắc lệnh 168-SL - Ve vấn đé quán thúc: Thônií tư nêu tinh thần mới là dối với các đối tượng phạm lội cờ bạc thi không cần thiết phải xử phạt thêm quản thúc. - Vé vấn dẻ tịch thu lang vật: Thông tư khẳng định rõ thêm quy định của Sắc lệnh 168/SL là chỉ tịch thu số tiền trên bàn hoặc irôn chiếu bạc mà không lịch thu liền trong túi đổ tránh tình trạng lạm dụng lịch thu cả tiền không phái dùng để đánh bạc hoặc được bạc, cũng không dược tịch thu đồ vật do tiền được bạc mua dược. Ngày 8/1/1968, TAND Tối cao tại bản Tổng kết số 9/NCPL hướng dẫn đường lối xét xử các lội cờ bạc. Hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc được hướng dẫn xử lý tại bán tổng kết này là hành vi qây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn người khác vào vòniỊ phạm pháp đ ể vụ lợi. Tuy nhiên, cũng phân hiệt đối với mứ' «tộ của hành vi: Đối với hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc nhưng thuộc những Irường hợp không có dộng cơ trục lợi, không thu hồ, chia hồ (không nguy hiểm đáng kể cho xã hội) thì không cần thiết phai xử lý vé hình sự. Đây là những trường hợp nể nang, cam tình bè bạn, bà con mà một vài líìn cho người khác đánh bạc trong nhà mình hoặc tổ chức đánh bạc trong nhà mình nhưng chí là để tạo cơ hội cho bản thân tham gia đánh bạc, thoả mãn tính máu mê của mình (trường hợp này chí xử lý về hành vi đánh bạc, còn hành vi tổ chức, chứa, gá bạc chỉ để đánh giá lượng hình). Có thể nhận thấy rằng việc xử lý hình sự đối với các đối tượng phạm tội cờ bạc theo tinh thán đó ỉà hành vi tổ chức, chứa I>á cờ bạc nguy hiểm hơn hành vi đánh bạc. Tại văn bản này, lần đầu tiên quy định hình thức xử phạt tù cho hướng án treo được quy định dối với những người phạm tội cờ bạc thuộc những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng. Vé hình phạl này vẫn dựa trôn cơ sở hình phạt của sắc lệnh I68/SL, luy nhiên có hướng dan xử lý đối với hình phạt tiền, xử phạt quán chế và xử lý Umg vật. Vấn đổ phạt tien: Bản lổng kêì số 9/NCPL xác định phạt liền có the là hình phạt chính hoặc hình phạt phụ, tuv nhiên hình phạt này chỉ nên áp dụng với ur cách là hình phạt chính trong những trường hợp cá biệt như tội phạm nhẹ, hoàn cảnh gia đình đáng chiếu cố đặc biệt (luổi già, bệnh tật...)- Bản tổng kết cũng dưa ra quan điểm dó là Toà án phái xử phạt liền nặng đối với nlỉữtìiỊ dổi tượng cờ hực clỉuvên lìíỊlìiệp hav bán clutyên nghiệp, những tên cờ gian bạc lận, nliữniỊ IHỊƯỜÌ tổ chức, thu hồ, tìhữnọ, tên cờ bạc sát phạt nhau lớn. Tuy nhiên, mức liền phạt phái tuỳ thuộc vào tính chất, hành vi của đối tượng, đổng thời cán xét đến khá năng kinh tế hiện tại của từng bị cáo để bản án cỏ thê’ thi hành được và việc phạt tiền không ánh hưởng nhiều đến sinh hoạt của gia đình họ. Vổ hình thức xử phạt quan chế, Bán lổng kết nêu ra đường lối chung đó là khônc, xử phạt quán chế đối với nhân dân lao động và nói chung là đối với những người có nhân thân không xấu, chỉ vì máu mê hay cơ hội mà phạm tội cờ hạc. Đồng thời, cần phải phạt quán chế đối với các đối tượng địa chủ cuá bac thì bị phạt cảnh cáo, cái tạo không giam ,1>iữ đến 01 năm hoặc bị phạt tù lừ 6 thátĩíỊ đến 03 hăm. Phạm lội trong trường hợp tái phạm lìỊỊiiy hiểm thì bị phạt tù từ 2năm ill’ll 7 năm " Ngoài ra, lại Khoán 2, Khoan 3 Điều 218 BLHS 1985 quy định các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm này bao gồm: “Có thể bị phạt quản ch ế hoặc cấm cư trú từ ! năm đến 5 năm ” và “ bị phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 5 triện (ìồỉìiị và có thể bị ticỉì thu một phần tài sản" Với cách thức quy định tại Điều 200 BLHS năm 1985 cho thấy, mặc dù (tược quy định tại cùng mội điều luật, nhưng tội đánh bạc dược phân định rõ rệt với tội tổ chức đánh bạc và lội gá bạc bằng cách quy định cụ thể ở 2 khung hình phạt khác nhau với chế tài cụ thể khác nhau. Đây chính là một điểm tiến hộ trong cách quy định của BLHS năm 1985 so với các văn bản pháp luật thời kỳ trước Khoan 2 Điều 200 quy định về tội tổ chức đánh bạc và tội gá bạc với dấu hiệu bất buộc là có hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc. Theo cách quy định của diều luật và các văn bản hướng dẫn thì ''Hành vi tổ chức đánh hực là rã rê, lòi kéo , dụ dỗ...người khác tham gia đánh bạc, vai trờ của đối tnựnx 1(1 chức (ỉáiìlì bạc lủ kở chủ mưu cầm đầu cuộc đánh bạc, đứng đẩu các ổ nhóm cỉưởniỊ (lây cờ bạc. ỈỊàiỉh vi gá bạc dó là hành vi cho thuê mượn địa diêm do mình quân /ý, sỏ hữu có thu tiên hồ clê cho các đối tượng cờ bạc làm tu rí sát phạt". Các hành vi định tội này để phân biệt đối với người có hành vi (.lánh bạc, cũng như những hành vi vi phạm hành chính Hình phạt (lược áp dụng đỏi với tội tổ chức đánh bạc, gá bạc là cảnh cáo, cái tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm Khoản 2 cũng quy định lình tiết định khung hình phạt tái phạm nguy hiểm thì khung hình phạt với hình phạt tù lừ 2 năm đến 7 năm. Ngoài ra hình phạl phụ là hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú lừ 01 năm đến 5 năm. Hình 12 phạt lien được áp dụng là hình phạt phụ là từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng. Người phạm tội còn có thổ bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sán Điều 200 BLHS năm 1985 cho chúng ta thấy rõ sự kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật hình sự giai đoạn trước về các tội phạm này. Đó là việc vẫn quy định hình thức xử lý nghiêm khấc hơn đối với.những dối tượng lổ chức đánh bạc, gá bạc Trước hết, đến thời kỳ này Nhà nước ta vần kế thừa quan điểm nhận lliức vê lính nguy hiếm cho xã hội của các hành vi cờ hạc, đổng thời, xác định các hành vi cờ bạc hao gồm đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc (tại các văn han pháp luật giai đoạn trước, mặc dù nhà làm luật chủ yếu liệt kê chi tiết các hành vi phạm lội nhưng thực chất cũng bao gồm các hành vi này gọi chung đó là tội phạm vé cờ bạc) Mặt khác, cùng cần khẳng định rằng, quy định về các tội cờ bạc trong BLHS năm 1985 cũng thể hiện bước tiến quan trọng trong kỹ thuật lập pháp hình sự. Cùng với sự ra đời của Phần chung BLHS, trong đó bao gồm những quy định chung VC lội phạm và hình phạt, Điều 200 BLHS quy định một cách ngắn gọn, khoa học về các hành vi phạm tội (hành vi đánh bạc, hành vị tổ chức đánh bạc và hành vi gá hạc) mà không cần liệt kê dài dòng về từng dạng hành vi cụ thể cũng niur không cần dưa vào dieu luật hành vi của những người dồng phạm khúc (những hành vi này đã được quy định cụ thể tại phẩn chung của Bộ luật). Sự thay đổi này làm cho quy định về các tội cờ bạc trở thành ngán gọn, dễ hiểu và khoa học Tuy nhiên, quy định tại Khoán 2, Điều 200 BLHS cũng còn những hạn chế nhất định, làm phát sinh những vướng mác Irong quá trình áp dụng pháp luật hình sự để dấu tranh phòng chống đối với các đối tượng tổ chức đánh bạc trong tình hình xã hội nước ta thời điểm này. Đíiy lạ thời kỳ đất nước thay đổi nhiéu mặl trong dời sống xã hội, diễn biến của tình hình tội phạm với sự xuất hiện của nhiều ổ nhỏm cờ bạc, số lượn ti và mức độ quy mô tổ chức của những vụ cờ hạc không ngừng tăng lên. Sự hạn chế thể hiện trên một số điểm sau: Các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc cùng được quy định trong mội điều luật mặc dù các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc gần như không có 1 3 điểm chung với các đấu hiệu câu thành tội tổ chức đánh bạc và tội gá bạc. Vì vậy, tuy dã dược sắp xếp ớ 2 khung khác nhau nhưng rõ ràng cách quy định này không khoa học. Còn tổn lại là các quy định không chỉ rõ ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm dối với các hành vi cờ bạc. Cách quy định này dẫn íìến những quan điếm khác nhau xung quanh vấn đề phạm vi xử lý về hình sự đối với các tội cờ hạc. Mặc dù quy định của Điều 200 phải dược đặt trong tương quan với những quy định chung vé tội phạm, cụ the là phai dựa trên linh thần của Khoan 3 Điều 8 BLHS năm 1985: “NhữiỉíỊ hanh vi tuy có (làu hiệu của tội phạm nhuiìíỊ tính chất HỊịuy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì kltâng phải là tội phạm và dược xử ìỷ hàm> các biện pliáp khác ” nhưng những người áp dụng pháp luật lại có thê có các quan điểm khác nhau khi xác định ranh giới giữa nguy hicm đáng kổ và nguy hiểm không đáng kể dối với các hành vi cờ bạc. Đôi với những tội hoàn toàn có thể tạo ra sự phân định rõ ràng trong luật giữa những trường hợp là tội phạm với những trường hợp không phái là tội phạm như các lội cờ hạc thì việc quy định chung chung như trôn chính là một sự hạn chế. Đối với điều luật này, cũng cần bàn đến các quy định lình tiết định khung tăiìs nặng. Tại đoạn 2 Khoản 2 Điều 200 quy định: “Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tủ t ừ 2 năm đến 7 năm ”. Quy định này cũng dẫn tiến 2 cách hiểu khác nhau xung quanh vấn đề tình tiết định khung tàng nặng này được áp dụng cho cả 3 tội hay chỉ được áp dụng cho tội tổ chức đánh bạc và lội gá bạc. Như vậy, cư cấu của Điều 200 đã không đủ rõ ràng để tạo ra một cách hiểu thống nhất. Sự quy định tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đối với hiệu quả áp dụng điều luật trong thực tiễn. Ngoài ra, còn có the thấy chế tài được quy định cho các tội cờ bạc (bao gồm hình phạt chính được quy định tại Điều 200 và hình phạt bổ sung được quy định tại khoan 3 Điều 218) còn tương đối nhẹ, chưa (lủ đổ răn đe, phòng ngừa những hành vi thực hiện loại tội phạm này. Ngược lại, việc quy định hình phạt bổ sung quan chế hoặc cấm cư trú đối với những người phạm tội cờ bạc 1 4 là không phù hợp, thiếu ý nghĩa thực tế và tính khả thi. Mặc khác, chỉ riêng lình tiết phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung lăng nặng thì chưa (lủ bao quát hết những trường hợp phạm tội mà mức độ ní»uy hiểm cao hơn dáng kể so với những trường hợp khác. Tóm lại, với sự ra đời của BLHS năm 1985, những quy định của iuậl h ì n h s ự VC c á c t ộ i c ờ b ạ c d ã t h e h i ệ n n h ữ n g t i ế n b ộ q u a n t r ọ n g s o v ớ i g i a i đ o ạ n Irước. Những tiến bộ dó góp phần quan irọng vào hoạt dộng đấu tranh phòng chông các lội phạm này trong suốt thời kỳ gần 15 năm kc từ khi BLHS năm 1985 có hiệu lực thi hànlì. Tuy nhiên, quy định về các tội cờ bạc trong thời kỳ này vẫn chưa phải là một sán phẩm hoàn thiện. Các quy định quá khái quát, gọn nhẹ và chưa the hiện hết những nội dung cần thiết đã tạo ra những lúng túng, vướng mắc trong quá trình áp dụng. 1.3 Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo quy định của BLHS 1999 Khác với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luột hình sự năm 1999 quy định tách riêng giữa lội đánh bạc và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Hành vi lổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc vần (lược quy định tại cùng một điều luật (Điều 249). Việc tách tội đánh bạc và gá bạc thành 2 điều luậl ricng là nhằm cá thể lioá Irách nhiệm hình sự đối với người phạm tội do yêu cầu của thực liễn dấu tranh phòng chống tội phạm về cờ bạc trong tình hình mới. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại diều 249 BLHS như sau: 1. Người nào tố chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc dã bị xử phạl hành chính vì hành vi quy định tại diều này và Điều 248 Bộ luật này hoặc dã bị kết án về mội trong các tội này, chưa dược xoá án tích mà còr. vi phạm, thì bị phạt tiền lừ 10 triệu dồng đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. 2. Phạm tội thuộc mộl trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm tiến 10 năm: a. Có tính chất chuyên nghiệp b. Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn c. Tái phạm nguy hiểm 15 3. Người phạm lội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 100 triệu (lồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sán. Tại điều luật này quy định bao gồm hai tội danh tổ chức đánh bạc và gá bạc. Đicu 249 BLHS quy định mặt khách quan của tội phạm này qua dấu hiệu hành vi phạm tội và các dieu kiộn xử lý VC hình sự dối với người thực hiện hành vi phạm tội. Khách th ể của tội phạm: Đó là quan hộ xã hội được pháp luật hình sự báo vệ tránh khói sự xíun hại có lính chAÌ lội phạm, nhưng bị tội phạm xAm hại đến và gây tiên (hoặc có thể gây nên) llìiẹt hại đáng kể nhất định. Đối với người tổ chức đánh bạc, gá bạc bằng hành vi tổ chức, tạo điều k i ệ n VC đ ị a đ i ế m c h o c á c c o n b ụ c s á t p h ạ t , đ â y là những h à n h v i l á c đ ộ n g » 'ê u cực đốn trật tự, nếp sống văn minh của xã hội, làm huỷ hoại nhân cách của người phạm tội, (hiệt hại về vậl chất linh thán cho nhiều cá nhan, gia dinh và là nguyên nhân phát sinh của nhiều tội phạm khác. Do vậy khách thể của tội tổ chức đánh bạc, gá bạc là trật tự công cộng. Mặt khách (Ịiutn của tội phạm: Được hiểu là mặl bên ngoài của sự xúm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được hảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thê hiện cách sử sự có lính chất tội phạm Irong thực tế khách quan. Tội phạm tổ chức đánh bạc, hoặc gá bạc quy định hai hành vi khách quan khác nhau nhưng có liên quan đến nhau dó là hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi của người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, lụ lập, lôi kéo ...người khác tham gia trò chơi có được thua bằng liền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, chủ thể của hành vi tổ chức đánh bạc là người giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu, lỏi kéo những người khác thực hiện hành vi đánh bạc (số lượng người (ham gia đánh bạc í( nhất phai từ hai người trở lên). Trôn thực tế, nhũng 11 lĩ ười thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc Ihường thực hiện hành vi này dưới hình thức xây dựng, thiết lập cúc sòng bạc, tụ điểm, các đường dây đánh bạc có sự quán lý chặt chẽ, bố trí lực lượng canh gác, lực lượng duy trì trật tư, phục vụ cho hoạt động đánh bạc. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan