Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Về cách giải nghĩa từ tiếng việt (qua quyển từ điển đại nam quốc âm tự vị của hu...

Tài liệu Về cách giải nghĩa từ tiếng việt (qua quyển từ điển đại nam quốc âm tự vị của huỳnh tịnh của)

.PDF
103
44
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- NGUYỄN THỊ PHƯỢNG UYÊN VỀ CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ TIẾNG VIỆT (QUA QUYỂN TỪ ĐIỂN ĐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ CỦA HUỲNH TỊNH CỦA) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGHÀNH: NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: 60.22.01 NHDKH: TS. ĐỖ THỊ BÍCH LÀI TP. HỒ CHÍ MINH – 2012 MỤC LỤC DẪN NHẬP Trang ………………………………………………………………… 3 1. Đối tượng nghiên cứu, lí do lựa chọn đề tài ………………………………..3 2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài ………………………………………………5 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ……………………9 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiển ……………………………………………..11 5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………...11 6. Bố cục luận văn ……………………………………………………………13 CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ 1. Khái niệm từ điển, từ điển học, phân loại từ điển …………………………..14 1.1. Từ điển ……………………………………………………………14 1.2. Từ điển học ………………………………………………………..18 2. Khái niệm từ, ngữ. Phân loại từ xét về mục đích cấu tạo …………………..20 2.1. Khái niệm Từ, phân loại từ ………………………………………...20 2.2. Khái niệm Ngữ ……………………………………………………..22 2.3. Khái niệm về Câu …………………………………………………...24 2.4. Khái niệm về Thành ngữ …………………………………………...24 3. Nghĩa của từ và phương pháp miêu tả nghĩa của từ …………………………25 3.1. Nghĩa của từ …………………………………………………….25 3.2. Phương pháp miêu tả nghĩa của Từ. ……………………………..26 4. Đôi điều giới thiệu về tác giả Huỳnh Tịnh Của và hoàn cảnh ra …………...27 đời của tác phẩm Đại Nam Quốc Âm Tự Vị. 4.1. Giới thiệu về Huỳnh Tịnh Của …………………………………...27 4.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Đại Nam quấc âm tự vị ………...28 TIỂU KẾT ………………………………………………………………32 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC VÀ CẤU TẠO CỦA CÁC MỤC TỪ TRONG QUYỂN TỪ ĐIỂN ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ 1. Tổng quan về cấu trúc của quyển từ điển …………………………………33 1.1. Đối tượng và tính chất của quyển từ điển …………………………..36 1.2. Cấu trúc của quyển từ điển ………………………………………….38 2. Cấu tạo của các mục từ có trong quyển từ điển …………………………...40 2.1. Phạm vi mục từ ………………………………………………………40 2.2. Các loại mục từ ………………………………………………………42 2.2.1. Mục từ là từ đơn …………………………………………...44 2.2.2. Mục từ là một từ ghép ……………………………………..48 2.2.3. mục từ là láy ………………………………………………..49 2.2.4. Mục từ là một từ ngẫu hợp …………………………………49 2.2.5. Mục từ là một ngữ ………………………………………....50 2.3. Chính tả ………………………………………………………………….52 Tiểu kết CHƯƠNG III: CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ TIẾNG VIỆT TRONG QUYỂN TỪ ĐIỂN ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ 1. Nguyên tắc giải nghĩa chung của quyển từ điển …………………………..62 1.1. Giải nghĩa bằng một từ ……………………………………………..62 1.2. Giải nghĩa bằng một ngữ ……………………………………………65 1.3. Giải nghĩa bằng một câu …………………………………………….70 2. Cách giải nghĩa các nhóm từ cụ thể trong đại nam quốc âm tự vị ………….75 2.1. Nhóm từ cổ ……………………………………………………………78 2.2. Nhóm từ đã có sự biến đổi so với hiện tại ……………………………..80 2.3. Giải nghĩa các thành ngữ - tục ngữ …………………………………..83 3. Nhận xét chung về cách giải nghĩa từ tiếng việt ở giai đoạn cuối ……………93 thế kỷ XIX qua cách giải nghĩa của Đại Nam quấc âm tự vị. TIỂU KẾT KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 DẪN NHẬP 1. Lí do lựa chọn đề tài Cũng giống như tôn giáo, ngôn ngữ là một dạng kiến trúc thượng tầng tồn tại bền vững, trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện hoàn hảo, đáp ứng được tất cả các nhu cầu truyền tải thông tin của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng như vậy là vì nó song hành cùng con người, từ lúc mới xuất hiện cho đến tận ngày nay và chưa bao giờ đánh mất vai trò của mình. Phương tiện giao tiếp này được bổ sung và hoàn thiện dần theo lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ cổ xưa đến tận ngày nay. Ngôn ngữ cũng cần có sự phát triển và không thể tồn tại lằm ngoài quy luật phát triển, sự biến đổi của ngôn ngữ diễn ra tuần tự dần dần và chịu sự ảnh hưởng từ sự biến đổi xã hội. Tiếng việt không nằm ngoài quy luật biến đổi ấy, bắt đầu từ thời kỳ ngàn năm bắc thuộc,Việt Nam chịu ảnh hưởng nền văn hóa Trung Hoa, tư tưởng Nho gia nên chữ viết của người Việt lúc bấy giờ là chữ Hán và đến sau khoảng thế kỷ thứ 10 thì xuất hiện thêm chữ Nôm, một dạng chữ tượng hình dễ viết dễ nhớ hơn chữ hán. Tuy có nhiều ưu điểm hơn nhưng chữ Nôm vẫn chỉ sử dụng giới hạn trong một bộ phận nhất định và không được các học giả tri thức yêu chuộng, chữ Nôm tồn tài song song với chữ Hán nhưng vẫn không thể chiếm ưu thế hơn chữ Hán. Đến thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây phương đầu tiên đến Việt Nam và giao tiếp với ngôn ngữ Việt, rồi vì nhu cầu mà bắt đầu ghi lại tiếng Việt dưới dạng chữ La tinh. Từ những mẫu tự La Tinh đầu tiên đã tạo tiền đề để sau một thế kỷ chữ quốc ngữ đã ra đời phát triển rực rở dưới sự đón nhận rộng rãi từ mọi tầng lớp nhân dân đánh bật chữ Hán và chữ Nôm trở thành ngôn ngữ chính thức mà ngày nay ta hay gọi là chữ quốc ngữ. Cũng giống như mọi ngôn ngữ, chữ quốc ngữ đi từ thô sơ ban đầu đến sự hoàn thiện như ngày nay là cả một quá trình,tìm hiểu về cách giải nghĩa của từ tiếng việt giai đoạn đầu chính là cách ta nhìn nhận rỏ hơn về quá trình phát triển của tiếng Việt 4 Trong buổi bình minh của nền văn học chữ Quốc Ngữ, khi mà chữ Hán – Nôm vẫn chiếm vị thế tộc tôn trên văn đàn, chữ Quốc Ngữ còn bị khoát áo ngoại xâm, bị giới tri thức Nho gia thời bấy giờ đồng loạt bài trừ, những ai có ý định tiếp nhận hay sử dụng chữ Quốc Ngữ đều bị cho là có xu hướng thân Tây, bán nước. Trong hoàn cảnh ấy Huỳnh Tịnh Của cùng với Trương Vĩnh Ký hai học giả tiếp nhận nền giáo dục Tây phương hiện đại nhận thức rỏ sử tiến bộ và ưu việt của chữ Quốc Ngữ đã dũng cảm đứng lên làm ngọn cờ tiên phong đưa chữ Quốc Ngữ tiếp cận gần hơn với người Việt bản địa, đóng góp rất nhiều công lao trong việc phổ biến chữ Quốc Ngữ vào quảng đại quần chúng. Không nhìn nhận sự việc theo quan điểm chính trị, chúng ta phải khẳng định Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Ký thật sự là hai người có công rất lớn đối với sự ra đời và thông dụng của chữ Quốc Ngữ ngày nay. Vậy mà trong khi học giả Trương Vĩnh Ký được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và nhận định khá đầy đủ, số lượng sách báo nói về nhà văn Ki- Tô giáo này cũng nhiều thì Huỳnh Tịnh Của được nhắc đến ít hơn, sơ sài hơn và cho đến hiện giờ số lượng những bài nghiên cứu tường tận về cuộc đời và sự nghiệp biên khảo của ông cũng còn rất hạn chế. Do đó công lao của ông cho văn hóa dân tộc còn chưa được tôn vinh đúng mức. Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều tác phẩm hay cho nền văn học đầu thế kỷ XIX, đáng kể nhất chính là bộ tự điển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị tác phẩm đưa tên tuổi của ông trở thành bất tử. Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ra đời vào năm 1898 những năm cuối cùng của thế kỷ XIX nên có rất nhiều học giả đã xếp bộ tự điển này vào giai đoạn đầu thế kỷ XX để tiện bề so sánh với các bộ tự điển ra đời cùng thời kỳ này cách nhau chỉ đỗ vài thập kỷ. Tuy nhiên là tác phẩm tự điển giải nghĩa tiếng Việt bằng tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị có cái nhìn hướng nghiên cứu xác hơn, gần hơn với ngôn ngữ tiếng Việt những năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX so với các tác phẩm cùng thời, đặc biệt là vốn phương ngữ Nam Bộ và thành ngữ - tục ngữ phong phú được sử dụng trong tác phẩm là một kho tàng vô giá cho những học giả muốn nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ thời kỳ đầu. 5 Tiếng Việt là ngôn ngữ muôn hình vạn trạng, sự kỳ diệu và phức tạp của tiếng Việt thể hiện qua cách biến hóa của 26 chữ cái. Sự hình thành phát triển của các từ ngữ thật kỳ diệu, có những chữ ra đời ngay từ ngày đầu trải qua ba thế kỷ vẫn không hề có sự thay đổi về cả cách viết lẫn ý nghĩa ban đầu của nó và cũng có rất nhiều chữ tiếng Việt ngày nay ta sử dụng ý nghĩa hiện tại của nó đã xa rời hoàn toàn với nghĩa ban đầu, có rất nhiều từ ngữ xưa mà ngày nay ta không còn dùng đến nữa hay những từ mà đôi lúc ta tưởng là mới hóa ra ông cha ta đã dùng nó từ rất lâu. Sự kỳ diệu khi nghiên cứu lịch sữ của ngôn ngữ, từ sự hình thành, ra đời, phát triển và biến đổi của ngôn ngữ cho đến việc vay mượn, sự đồng hóa ngôn ngữ ngoại lai. Tất cả những yếu tố đó như những mãnh ghép đa dạng ghép thành một bức tranh ngôn ngữ hiện đại đầy màu sắc mà ở đây chúng tôi chỉ có thể đi vào tìm hiểu sơ lược về những mãnh ghép đầu tiên về sự hình thành và biến đổi của tiếng việt ở giai đoạn cuôi thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thông qua việc khảo sát bộ tự điển mà theo chúng tôi là đại diện tiêu biểu nhất cho hình ảnh ngôn ngữ thời kỳ này, bộ Đại Nam Quốc Âm Tự Vị. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Việc nghiên cứu từ điển nói chung và từ điển xuất bản ở Việt Nam nói riêng đã được giới ngôn ngữ học quan tâm đến rất nhiều, việc khảo sát, nghiên cứu, nhận xét về một quyển từ điển nào đó hầu như là một công việc luôn đi sát theo sau khi có một quyển từ điển được ấn hành. Có rất nhiều tác giả lớn, nhiều quyển từ điển có giá trị về mặt nghiên cứu lịch sữ cũng như ứng dụng thực tế như cuối thế kỷ XIX đến nữa đầu thế kỷ XX thì ta có những nhà từ điển lớn : J.Bonnet, M.Genibrel, Huỳnh Tịnh Của, Đào Văn Tập, Thanh Nghị, Văn Tân, Hội Khai Trí Tiến Đức…giai đoạn nữa sau thế kỷ XX đến hiện nay thì có: Hoàng Phê, Vương Lộc, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Văn Hành, Chu Bích Thu, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Ngọc Trâm, Đào Thản, Bùi Khắc Việt, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Đức Tồn, Lê Khả Kế, Phạm Hùng Việt, Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Nhã Bản…đã có nhiều công trình nghiên cứu bàn luận về các tác phẩm từ điển ra đời ở Việt Nam. 6 Đại Nam Quốc Âm Tự Vị là tác phẩm từ điển giải thích tiếng Việt đầu tiên ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà phong trào sử dụng chữ quốc ngữ đang được cổ súy và phát triển rầm rộ. Trước khi có bộ từ điển này thì ta chỉ có một vài quyển từ điển đối dịch tiếng Việt như: Dictionnarie Annamitico – Tatium ( 1899) của J.Bonnet, Dictionnarie Annamite – Francais ( 1896) của M.Genibrel và Annam – Lusitan – Latin xuất bản ở Roma năm 1651 ( thường gọi là từ điển Việt – Bồ - La), đây là quyển từ điển đối dịch tiếng Việt cổ nhất thường do các cố đạo Tây Ban Nha sử dụng trong việc truyền giáo ở Việt Nam ngày trước. Trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ XX, cùng thời với quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của còn có bốn quyển từ điển tiêu biểu là: Việt Nam Tự Điển ( 1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức; Tự Điển Việt Nam Phổ Thông (1951) của Đào Văn Tập; Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức; Việt Nam Tân Từ Điển( 1952) của Thanh Nghị;. Những quyển từ điển này đều mắc nhiều lỗi khác nhau và chưa đạt đến trình độ là một quyển từ điển giải thích nghĩa tiếng Việt hoàn chỉnh tuy nhiên nó cũng có những đóng góp to lớn tích cực cho công cuộc xây dựng và biên soạn bộ từ điển tiếng Việt hoàn chỉnh về sau. 1.Từ Điển Tiếng Việt đây là công trình của một nhóm nghiên cứu do Văn Tân chủ biên, xuất bản đầu tiên năm 1967 và tái bản có bổ sung và chỉnh lý vào năm 1994. 2. Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức, xuất bản năm 1970 3. Từ Điển Tiếng Việt của Viện nghiên cứu ngôn ngữ học, quyển này được biên soạn dưới sự chỉ đạo của GS Hoàng Phê, xuất bản năm 1988 và sau đó tái bản có chỉnh lý nhiều lần. Đây được xem là quyển từ điển có uy tín nhất trong giai đoạn hiện nay. Giai đoạn từ nữa cuối thế kỷ XX đến hiện nay, ngành từ điển học phát triển rầm rộ, số lượng các tác phẩm từ điển ra đời ngày một nhiều và phong phú trên tất cả các lĩnh vực không chỉ đáp ứng nhu cầu tra cứu mà góp phần trong công tác hướng dẫn, giảng dạy. Các nhà biên soạn từ điển đương đại đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu của đại đa 7 số đọc giả và người nghiên cứu từ điển. Tuy nhiên do sự hạn chế về dung lượng nên trong luận văn này chúng tôi chỉ xin dẫn ra ba quyển từ điển giải thích mà chúng tôi cho là hoàn chỉnh nhất hiện nay. Còn về các bài nghiên cứu của các tác giả đương đại luận văn xin liệt kê ra đây một số tác phẩm tiêu biểu sau: 1. Hoàng Phê, Nguyễn Ngọc Trâm, Một số vấn đề về từ điển học ( Qua việc biên soạn Từ điển tiếng Việt) Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1993. 2. Vương Lộc, Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta, Tạp chí Ngôn ngữ số 3, năm 1993. 3. Đỗ Hữu Châu, Một số ý kiến về việc giải nghĩa từ trong Từ điển tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 2, năm 1969. 4. Đọc Từ điển tiếng Việt phổ thông Tập I, Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1991. 5. Đại từ điển tiếng Việt, Một công trình nghiêm túc và thiết thực, Báo Nhân dân 19/3/1999. 6. Nguyễn Văn Tình, Từ điển tiếng Việt năm 2000, những thành tựu đáng ghi nhận, Báo Nhân dân ngày 12/12/2000. 7. Nguyễn Ngọc Trâm, Một vài nhận xét về cấu trúc vĩ mô của Từ điển giải thích tiếng Việt ,( trong Một số vần đề về từ điển học), Nxb KHXH HN, 1997. 8. Chu Bích Thu, Một số nét về cấu trúc vĩ mô của Từ điển giải thích trong Một số vấn đề về từ điển học, Nxb KHXH HN, 1997. 9. Đào Thản, Hệ thống các kiểu chú trong Từ điện tiếng Việt, (trong Một số vần đề về từ điển học), Nxb KHXH HN, 1997. 10. Bùi Khắc Việt, Vấn đề thu thập và giải thích thuật ngữ trong từ điển (trong Một số vấn đề về từ điển học), NXb KHXH HN. 1997. 11. Nguyễn Đức Tồn , Về phương pháp biên soạn Từ điển đồng nghĩa tiếng Việt (trong Một số vần đề về từ điển học), Nxb KHXH HN , 1997. 8 12. Lê Khả Kế, Một vài suy nghĩ về Từ điển song ngữ, (trong Một số vấn đề về từ điển học), Nxb KHXH HN , 1997. 13. Nguyễn Văn Tu, Về việc giải thích từ nhiều nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 2 , 1969. 14. Hoàng Văn Hành ( Chủ biên) - Từ điển Từ Láy tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1994. - Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb KHXH HN, 1994. 15. Hoàng Phê, Phân tích ngữ nghĩa, Tạp chí Ngôn ngữ số 5, 1975. 16. Phạm Hùng Việt, Về việc biên soạn từ điển cở lớn trên cơ sở ứng dụng thông tin để xây dựng ngân hàng dữ liệu và hổ trợ cho công tác biên soạn, Tạp chí Ngôn ngữ số 15, 2002. 17. Nguyễn Nhã Bản, Từ điển phương ngữ - một dạng thức đối chiếu đặc biệt, Tạp chí Ngôn ngữ số 5, năm 2000. 18. Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Tâm, Từ điển Trung – Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 4, 1992. Ngoài ra cũng phải kể đến một số luận án, luận văn đi sâu nghiên cứu về Từ điển như: 1. Phạm Xuân Chương, Nhận xét về cấu tạo và cách đối dịch trong quyển Từ điển giải thích thuật ngữ Công nghệ thông tin Anh – Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học KHXH&NV, 2006. 2. Nguyễn Bích Vân, Khảo sát về cấu tạo và cách giải nghĩa của quyển Từ điển Y học Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học KHXH&NV, 2004. 3. Nguyễn Thị Thanh Thúy, Trường từ vựng - ngữ nghĩa và cách đối dịch trong quyển Từ điển Máy tính Anh – Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học KHXH&NV, 2007. 4. Đặng Thái Minh, Từ điển Điện tử tần số tiếng Việt, với các tiện ích phục vụ ngôn ngữ học so sánh, Luận án tiến sĩ, trường Đại Học KHXH&NV, 1999. 9 5. Trương Thùy Hương, Khảo sát về cấu tạo và cách đối dịch của quyển Từ điển Danh từ từ thư viện thông tin Anh – Việt, Luận văn thạc sĩ, trường Đại Học KHXH&NV, 2006. 6. Lê Thị Diệu Anh, Xây dựng Từ điển Ẩn dụ tiếng Việt, Luận văn thạc sị, trường Đại Học KHXH&NV, TPHCM, 2009. 7. Lê Thị Minh Nghuyệt, Cấu trúc vị mô và cấu trức vi mô của Từ điển song ngữ, chuyên nghành Y học, Luận văn thạc sĩ, trường Đại Học KHXH&NV-TPHCM, 2004. 8. Nguyễn Thị Hường, Về vấn đề xây dựng Từ điển đối chiếu thuật ngữ Y học Anh - Việt và Việt - Anh, Luận văn thạc sĩ, trường Đại Học KHXH&NV TPHCM, 2003. Riêng về các tác phẩm nghiên cứu về Huỳnh Tịnh Của và đại Nam Quốc Âm Tự Vị thì cho đến nay ngoài công trình nghiên cứu; Huỳnh Tịnh Của và công trình biên soạn bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Nguyễn Văn Y ra thì chỉ còn một số bài viết hay một số tác phẩm khái quát chung chung về cuộc đời, sự nghiệp và một số tác phẩm tiêu biểu của ông chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề Cấu tạo và cách giải nghĩa của các từ trong quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Vì vậy có thể nói luận văn của chúng tôi là công trình đầu tiên nghiên cứu về đối tượng này. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1 . Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Để đánh giá đúng về một quyển từ điển nào đó ta phải xem xét nó trên nhiều yếu tố khác nhau, có nhiều học giả, tác giả, nhà biên soạn từ điển đã đưa ra nhiều tiêu chí để đánh giá khác nhau. Luận văn xin trích ra đây quan điểm đánh giá của tác giả Chu Bích Thuỷ, trong 12 tiêu chí chung nhất mà tác giả đưa ra chúng tôi đã thu thập và trình bày một cách ngắn gọn thành 6 tiêu chí sau đây: 1. Có bảng từ đầy đủ nhất theo yêu cầu của người dùng 2. Có những thông tin bách khoa cung cấp kiến thức chung cho người dùng 3. Có cách giải thích dễ hiểu, có ví dụ minh hoạ cách sử dụng trong ngữ lưu 4. Có các thông tin về chính tả, cách phát âm, về phong cách sử dụng 10 5. Có các giải thích về ngữ cố định ( Thành ngữ, Tục ngữ) 6. Có các thông tin về ngữ pháp như từ loại, về các phụ lục cần thiết như đơn vị đo lường, dụng cụ phương tiện. Xuất phát từ quan điểm đánh giá như vậy về đối tượng nghiên cứu, luận văn của chúng tôi hướng đến những mục đích và nhiệm vụ chính sau đây: 1. Khảo sát, phân tích, nhận xét về phương diện cấu tạo của quyển từ điển, cụ thể là: khảo sát, phân tích, nhận xét các loại mục từ, số lượng mục từ, chính tả của quyển từ điển. 2. Khảo sát, phân tích, nhận xét và thông qua đó hướng tới mục đích làm sáng tỏ về cách giải nghĩa của quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cụ thể là xem xét vấn đề này trên phương diện cách thức giải nghĩa. 3. Từ kết quả nhận xét trên, đưa ra nhận định về cách giải nghĩa chung cho từ tiêng vIệT cuối thế kỷ XIX. Từ ba nhiệm vụ trên đây luận văn của chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện thêm một nhiệm vụ nữa, đó chính là từ những nghiên cứu của mình chúng tôi sẽ đi đến nhận định về công lao của soạn giả Huỳnh Tịnh Của trong hoạt động làm phong phú hơn cho vốn từ vựng nước nhà. Tuy nhiên do sự giới hạn về dung lượng công trình và thời gian thực hiện cũng như hạn chế về mặt năng lục của người thực hiện nên nhiệm vụ này chỉ có tính chất bước đầu. 3.2 . Phạm vi nghiên cứu Khi bàn về cách giải nghĩa của từ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX thông qua quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, luận văn chủ yếu muốn hướng đến việc xây dựng cách giải nghĩa của từ tiếng Việt nữa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX trên cơ sở nghiên cứu quyển Từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của. Trong quá trình nghiên, cứu luận văn còn nghiên cứu tổng quan về cấu trúc của quyển từ điển và cấu tạo của các mục từ có trong quyển từ điển trên. 11 Tuy nhiên, muốn nhận định đúng mức giá trị của bộ từ điển này, luận văn sẽ đặt nó vào vị trí thời gian và không gian khi nó xuất hiện, nếu trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có so sánh nó với một vài bộ từ điển ra đời sau này thì cũng chỉ là muốn làm cho mọi người hiểu rỏ nghĩa của một số từ cổ, từ lạ mà ngày nay gần như không còn dùng đến hoặc nghĩa của nó đã biến đổi nhiều và cũng muốn nhận rỏ cái tài làm tự điển của nhà văn biên khảo Huỳnh Tịnh Của chứ không bao giờ nên căn cứ vào đó mà phê phán giá trị tác phẩm. Để giúp mọi người có một cái nhìn tương đối đầy đủ, chính xác mà không phải mất qua nhiều thời gian, mỗi điểm nhận xét về cấu tạo hay cách giải nghĩa của tác phẩm chúng tôi chỉ đưa ra một số dẫn chứng tiêu biểu vừa đủ, không quá dài để mọi người hiểu rỏ hơn về cách cấu tạo và cách giải nghĩa từ tiếng Việt mà tác giả sử dụng trong quyển từ điển này. 4. Ý nghĩa lý luận và thực tiển Việc nghiên cứu về cách giải nghĩa của từ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX thông qua quyển từ điển Việt Nam Quấc Âm Tự Vị có những ý nghĩa lí luận và thực tiển sau: 4.1. Ý nghĩa lí luận Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần khẳng định thêm lý thuyết xây dựng từ điển, các công việc và nhiệm vụ cần thiết nhất cho việc biên soạn một tác phẩm từ điển. 4.2. Ý nghĩa thực tiển Qua kết quả khảo sát, phân tích và nhận xét của công trình này, có thể có những điều bỏ ích cho việc sửa chữa, bổ sung về hai phương diện cấu tạo và cách giải nghĩa của quyển từ điển đó. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. phương pháp thống kê 12 Trong luận văn này chúng tôi sủ dụng phương pháp thống kê đối với các nhiệm vụ: thống kê mục từ, thống kê các loại mục từ xét về mặt cấu tạo, về cách giải nghĩa. Từ các con số thống kê có tính định lượng sẽ đưa ra những nhận xét có tính định chất về vấn đề được đặt ra. 5.2. phương pháp miêu tả phân tích cấu trúc ngữ pháp Một trong những nhiệm vụ của luận văn là khảo sát mặt cấu tạo của quyển từ điển, vì vậy ngữ liệu của quyển từ điển cũng được xử lý từ góc độ cấu tạo, cấu trúc ngữ pháp cho nên luận văn của chúng tôi đã vận dụng phương pháp miêu tả, phân tích cấu trúc ngữ pháp. 5.3. phương pháp phân tích ngữ nghĩa Muốn khảo sát, phân tích, nhận xét về các vấn đề giải nghĩa, cách thức giải nghĩa trong quyển từ điển nói trên chúng tôi còn vận dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa trong quá trình xử lý tư liệu từ đó đưa ra kết luận về đối tượng. 5.4. phương pháp so sánh đối chiếu Đề tài nghiên cứu mà luận văn chúng tôi hướng đến là cách giải nghĩa của tiếng Việt cuối thế kỷ XIX thông qua quyển từ điển Đại Nam Quốc Âm Từ Vị. Tuy rằng đây là một quyển từ điển giải thích đơn ngữ nhưng do tác phẩm này ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nên từ ngữ và cách giải nghĩa trong quyển từ điển này còn có nhiều từ rất lạ và hiện nay có khi không còn dùng đến hay một số nét nghĩa đã phai nhạt ít nhiều vì vậy luận văn sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu ngữ nghĩa với một vài từ điện hiện đại nhằm mục đích giúp người đọc hiểu rỏ hơn nghĩa của các từ cổ và cách thấy được sử chuyển biến của ngôn từ. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong nghiên cứu đó chính là không bao giờ suy diễn bất kỳ điều gì mà không căn cứ trên những dữ kiện xác thực, trình bày thành thực những gì mình tim hiểu được, nêu ra những quan điểm nghiên cứu của bản thân trên cơ sở tìm hiểu, tiếp thu kiến thức giáo khoa và thông tin có sẳn. 6. Bố cục của luận văn 13 Luận văn của chúng tôi gồm 120 trang, ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận ra luận văn có ba chương chính như sau: Chương I có tiêu đề là: “Một số vần đề chung về lý thuyết cơ sở”. Trong đó chúng tôi trình bày một số khái niệm chung về từ, cách giải nghĩa của từ, khái niệm về từ điển, từ điển học và giới thiệu sơ lược về quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Chương II có tiêu đề: “Tổng quan về cấu trúc của quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Và cấu tạo của các mục từ trong quyển từ điển đó”. Trong đó chúng tôi trình bày các vấn đề về bẳng từ, mục từ, chính tả, về cấu tạo của quyển từ điển và các trường từ vựng ngữ nghĩa có trong quyển từ điển. Chương III có tiêu đề là: “Cách giải nghĩa từ tiếng Việt qua quyển từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của”. Trong đó, chúng tôi trình bày các phương pháp giải nghĩa theo nghĩa chung của quyển từ điển, giải nghĩa các trường hợp từ cổ, từ địa phương, các thành ngữ tục ngữ có trong quyển từ điển. Nêu ra một số đánh giá mang tính cá nhân về cách cấu tạo và cách giải nghĩa của bộ tự điển. 14 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ 1. KHÁI NIỆM VỀ TỪ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HỌC VÀ PHÂN LOẠI TỪ ĐIỂN Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã lựa chọn và nhất chí với quan điểm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp trình bày trong quyển Cơ sở ngôn ngữ học đại cương (2008), Nxb KHXH, ngoài ra cũng tham khảo thêm ý kiến của các tác giả; Mai Ngọc Trừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến đã trình bày trong quyển Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (2006), Nxb Giáo Dục, về các khái niệm sau đây: Từ, Ngữ, Câu, Thuật ngữ, Từ điển giải thích, Từ điển đối chiếu. 1.1 Từ Điển 1.1.1. Định nghĩa Theo tác giả Phạm Hùng Việt (trong chuyên đề Một số vấn đề về từ điển và từ điển học, giảng dạy tại lớp Cao học chuyên nghành Ngôn ngữ học), trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về từ điển, có thể dẫn ra đây một vài định nghĩa sau: - Từ điển là loại sách xử lí từng đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ (hoặc đặc trưng nào đó của một số từ ngữ), được sắp xếp theo một trật tự nhất định để dễ tra tìm, thường là trật tự chữ cái, mô tả từ ngữ về chữ viết, phát âm, nguồn gốc và lịch sử, hoặc một mặt nào đó. Ở những từ điển loại lớn, ngoài thông tin được cung cấp còn kèm theo ví dụ trích dẫn văn học. - Từ điển là một tập hợp các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ hoặc một lĩnh vực hoạt động của con người, được sắp xếp theo trật tự chữ cái, mỗi đơn vị được cung cấp một lượng thông tin nào đó về ý nghĩa, đồng thời cung cấp cách sử dụng phổ biến - Từ điển là sách tra cứu của các từ (hoặc hình vị, tổ hợp, kết hợp cố định…) được sắp xếp theo một trật tự nhất định (với các loại từ điển khác nhau), giải thích ý 15 nghĩa các đơn vị, cung cấp các thông tin khác về chúng, dịch chúng sang ngôn ngữ khác hoặc cung cấp thông tin về đối tượng mà chúng biểu thị. - Quyển sách giải thích và liệt kê các từ của một ngôn ngữ hoặc dịch các từ đó ra một hoặc nhiều ngôn ngữ khác và thường sắp xếp theo thứ tự a, b, c. Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về từ điển như: Từ điển là sách tra cứu các từ ngữ, xếp theo thứ tự nhất định. (Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nguyễn Như Ý Chủ biên, Nxb Giáo Dục, tái bản lần thứ 4, 2005.) Trong luận văn này, chúng tôi nhất trí với định nghĩa của tác giả Hoàng Phê trong quyển Từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển, 2005) Từ điển là sách tra cứu tập hợp các đơn vị ngôn ngữ (thường là đơn vị từ vựng) và sắp xếp theo một thứ tự nhất định, cung cấp một số kiến thức cần thiết đối với từng đơn vị. 1.1.2. Phân loại từ điển Từ điển thường được chia làm nhiều loại, nhưng có hai loại từ điển phổ biến là từ điển giải thích và từ điển đối chiếu. Từ điển giải thích: hay còn gọi là từ điển một ngôn ngữ. Nhiệm vụ của từ điển này là giải thích ngữ nghĩa, cách sử dụng các từ trong một ngôn ngữ, ví dụ như từ điển giải thích tiếng Việt, từ điển giải thích tiếng Anh, từ điển giải thích tiếng Nga, v.v… Từ điển đối chiếu: đây là loại từ điển đối chiếu các từ của một ngôn ngữ nào đó với một hoặc nhiều ngôn ngữ khác. Từ điển đối chiếu hai ngôn ngữ gọi là từ điển song ngữ, từ điển đối chiếu ba ngôn ngữ gọi là từ điển tam ngữ, từ điển đối chiếu nhiều ngôn ngữ gọi là từ điển đa ngữ. Ngoài ra từ điển đối chiếu còn có thể đối chiếu từ toàn dân với từ địa phương, v.v… 1.1.3. Đặc điểm của từ điển 16 Các định nghĩa trên đây có cách trình bày, diễn đạt, phân tích khác nhau, nhưng đều tập trung phản ánh một số đặc điểm của từ điển. Cũng theo tác giả Phạm Hùng Việt, từ điển có những đặc điểm chính sau đây: a). Đặc điểm về mục đích sử dụng: Từ điển là sách tra cứu hoặc còn gọi là sách công cụ. Nếu ở các sách thông thường nội dung được trình bày từ đầu đến cuối, các chương, phần liên kết với nhau theo trật tự logic, thì trong từ điển mỗi mục từ được xử lý riêng biệt và độc lập tương đối. Người sử dụng không đọc từ điẻn từ đầu đén cuối mà chỉ cần tìm tòi lời giải thích cho chính điều cụ thể đang đặt ra. Để phục vụ tra cứu, các đơn vị trong từ điển được sắp xếp thao một trật tự nhất định, thường là trật tự hình thức để người đọc dễ tìm kiếm. b). Đặc điểm về tính khách quan, chuẩn mực của thông tin: Thông tin trong từ điển – một loại sách tra cứu, phải có tính khách quan, tính tiêu chuẩn. Từ điển không phải là một công trình sáng tác, các thông tin trong từ điển không phải là những kiến giải, những luận chứng, ý kiến cá nhân mà là sự đúc kết hiểu biết từ tri thức truyền thống của nhân loại, từ thực tế sử dụng ngôn ngữ, từ thành quả và kết quả nghiên cứu ngôn ngữ hiện thời. Nói cách khác, thông tin trong từ điển có tính chất giáo khoa, tính điển chế. c). Đặc điểm về cung cấp thông tin: Đơn vị được cung cấp thông tin trong từ điển là kí hiệu ngôn ngữ như từ, hình vị, tổ hợp từ cố định,… có nghĩa là từ điển cung cấp thông tin về ký hiệu. Tuy nhiên, từ luôn gắn với sự vật mà nó hiển thị. Nghĩa của từ được hình thành trong nhận thức của người nói qua sự liên tưởng giữa vỏ ngữ âm của từ với khái niệm và sự vật mà nó biểu thị. Do đó trong từ điển vừa có những thông tin về ký hiệu, vừa có những thông tin về sự vật. Điều này thể hiện rỏ nhất trong từ điển giải thích, từ điển song ngữ. Loại từ điển chỉ cung cấp thông tin về kí hiệu là từ điển chính tả, từ điển viết tắc, từ điển ngữ pháp… và chỉ cung cấp thông tin về sự vật là từ điển bách khoa, từ điển chuyên môn… 17 d). Đặc điểm về cấu trúc: Từ điển là một công trình cấu trúc đôi. Bên trái cuốn từ điển, xét theo chiều dọc, là bảng kê danh mục từ ngữ được xếp theo một trật tự nhất định. Danh mục này được chọn lựa theo yêu cầu, mục đích tính chất của quyển từ điển và tạo thành cấu trúc chặt chẽ trong toàn bộ quyển từ điển, gọi là cấu trúc vĩ mô. Cấu trúc vĩ mô của từ điển là một chỉnh thể nghiêm ngặc, mỗi đơn vị tồn tại trong đó đều có lí do quan hệ với những đơn vị khác. Bên phải cuốn từ điển là khối ngữ liệu được cắt ngang với một đoạn văn bản độc lập, tạo thành cấu trúc vi mô. Cấu trúc vi mô biểu thị toàn bộ hệ thống thông tin khác nhau, và những hệ thống này được lấp đầy bởi những thông tin cụ thể trong mỗi từ cụ thể.. Có những sách tra cứu mà lý do nào đó tính chất điển chế bị hạn chế, tính hệ thống trong cấu trúc còn tùy tiện, lỏng lẻo, thì người ta không gọi là từ điển (sổ tay dùng từ, sổ tay phương ngữ,…). Ngược lại có những tác phẩm không mang tên từ điển, không sắp xếp theo trật tự hình thức, nhưng lại là từ điển đích thực chẳng hạn; Nhĩ Nhã của Trung Quốc biên soạn cách đây hơn 3000 năm, sắp xếp theo đề tài, là quyển từ điển ý niệm xưa nhất thế giới; Cũng được sắp xếp theo đề tài, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn là từ điển bách khoa đầu tiên của Việt Nam. 1.1.4. Công dụng của từ điển Trên thế giới có nhiều người gọi từ điển là thầy giáo không dùng lời. gọi là thầy giáo vì từ điển dạy con người nhiều điều, cho ta kiến thức, hiểu biết trong suốt cả đời. Những tri thức, thông tin mà từ điển cung cấp thể hiện cụ thể ở mấy dạng sau: a). Cung cấp thông tin liên quan đến các mặt từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chử viết, phát âm… Giúp người đọc nắm chắc và nhuần nhuyễn phương pháp biểu đạt của ngôn ngữ, nâng cao trình độ ngữ văn. Đó là công dụng của từ điển một thứ tiếng (từ điển đơn ngữ). 18 b). Cung cấp kiến thức để sử dụng một ngôn ngữ khác (trong đó có mức độ: đọc hiểu được, dịch xuôi, giao tiếp, dịch ngược hoặc viết bằng ngôn ngữ khác). Đó là công dụng của từ điển song ngữ. c). Cung cấp hiểu biết sâu sắc về một lĩnh vực, đó là công dụng của từ điển bách khoa. d). Cung cấp hiểu biết về thuật ngữ chuyên môn, từ ngữ khoa học kỹ thuật trên cơ sở nắm vững tiếng mẹ đẽ. Đó là công dụng của từ điển chuyên môn. Trong số những từ điển ngôn ngữ, loại từ điển giải thích chuẩn có vai trò quan trọng trong việc tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ. Tính tiêu chuẩn hóa của loại từ điển này thể hiện ở mọi thông tin được cung cấp: Các đơn vị được chuẩn hóa về chử viết phát âm, về nguồn gốc từ nguyên, về đặc điểm ngữ pháp và lời giải thích nghĩa. 1.2 Từ Điển Học 1.2.1 Định nghĩa Từ điển học là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu về lí luận và kĩ thuật biên soạn các loại từ điển. (Một số vần đề về từ điển và từ điển học) Đây là một nghành học quan trọng của ngôn ngữ học ứng dụng. Mặt dù trên thế giới, từ điển đã tồn tại trải qua mấy ngàn năm và ngày càng phát triển phong phú đa dạng, nhưng lí luận về từ điển học mới chỉ hình thành hơn nữa thế kỷ nay gắn với tên tuổi L.Sherba, Kacaret, L.Zgusta… Lí luận từ điển học tập trung nghiên cứu và giải quyết vấn đề cơ bản là: Loại hình của từ điển và các loại từ điển Nghiên cứu về cấu trúc vĩ mô của từ điển Nghiên cứu về cấu trúc vi mô của từ điển Ngoài ra gần đây các nhà ngôn ngữ học còn tập trung nghiên cứu về các vấn đề lịch sữ từ điển và nhất là vấn đề công nghệ biên soạn từ điển, tức là việc áp dụng những phương pháp của công nghê thông tin vào công tác từ điển. 1.2.2. Vị trí của từ điển học
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan