PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Không dễ để nhận thấy nấm Bipolaris oryzae (B. oryzae) gây
hại trên hạt giống hay lây nhiễm làm giảm sản lượng của cây trồng ở
trên đồng ruộng, tuy nhiên có thể nhận thấy nấm bệnh đã phá hủy biểu
mô của hạt, làm giảm sức sống của cây mầm (Neergaard, 1966). B.
oryzae là nấm gây hại hạt giống lúa tiêu biểu có thể tồn tại bên trong
hạt rất nhiều năm, nấm có thể gây chết cây mầm hoặc gây ra vết bệnh
trên cây mầm (Ou, 1985). B. oryzae có thể tồn tại trên cây lúa ở tất cả
các giai đoạn phát triển, có thể gây hại trên lá mầm, phiến lá, bẹ lá, cổ
bông, phôi và hạt. Trên cây mạ nhiễm B. oryzae có thể gây ra các triệu
chứng thối vòng quanh lá mầm hoặc làm biến dạng lá sơ cấp và thứ
cấp. B. oryzae cũng có thể xâm nhập vào hạt qua lớp vỏ hạt, là nguyên
nhân gây ra “pecky rice” một thuật ngữ chỉ hạt bị đốm và biến màu
(Webster and Gunnel, 1992). Nấm B. oryzae đã không được chú ý
nhiều trong thời gian gần đây do không gây thiệt hại nặng về năng suất
và kinh tế, B. oryzae cũng không gây thành dịch hại như một số loài
nấm khác, tuy nhiên B. oryzae được coi là nấm gây bệnh trên lúa của
nông dân nghèo ở những vùng đất bị khô hạn và đất nghèo dinh dưỡng
(Zadoks, 2002). Theo kết quả khảo nghiệm và kiểm nghiệm giống cây
trồng hàng năm từ năm 1998 đến 2008 của Trung tâm khảo kiểm
nghiệm giống, sản phẩm cây trồng Quốc gia, Trung tâm đã nghiên cứu
các mẫu hạt giống không đạt chỉ tiêu chất lượng nảy mầm theo quy
chuẩn kỹ thuật Việt Nam tại phòng Bệnh hạt giống. Kết quả nghiên cứu
cho thấy trong số các loại nấm xuất hiện, B. oryzae là loài nấm đã được
tìm thấy trên toàn bộ các mẫu hạt giống này với tỷ lệ tương đối cao và
là nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ nảy mầm thấp, hạt bị chết, cây mầm
không bình thường và cây mầm không bình thường. Các nghiên cứu
của Trường Đại học Cần Thơ, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã
cho rằng B. oryzae có ảnh hưởng tới tỷ lệ nảy mầm của hạt giống lúa và
giai đoạn mạ trên đồng ruộng tại các tỉnh phía Nam. Các nghiên cứu
1
này cho thấy nấm B. oryzae không gây ra thiệt hại về năng suất nhưng
đã gây thiệt hại về số lượng và chất lượng hạt giống. Sản xuất lúa tại
Việt Nam thường bằng hai hình thức là gieo mạ sau đó cấy chuyển ra
ruộng hoặc gieo sạ trực tiếp trên đồng ruộng. Cả hai phương pháp này
đều có khả năng bị ảnh hưởng do hạt giống bị nhiễm B. oryzae gây ra,
lượng hạt giống sử dụng phải tăng lên để bù vào tỷ lệ hạt bị B. oryzae
gây hại. Đối với gieo mạ để cấy, tình trạng thiếu mạ xảy ra do hạt giống
bị chết bởi B. oryzae. Đối với phương pháp gieo sạ, B. oryzae có thể
gây mất khoảng dẫn tới tăng công lao động cấy dặm hoặc bị giảm năng
suất khi không bù được khoảng mất cây. Nếu sử dụng các giống lúa chỉ
cấy một vụ trong năm, giống có thời gian ngủ nghỉ dài, giống cổ truyền
phải để qua vụ, giống dự trữ Quốc gia hoặc với mục đích khác nhau, B.
oryzae có thể là nguyên nhân tác động dẫn tới giảm sức sống của cây
mầm. Với diện tích trồng lúa khoảng 8 triệu ha của Việt Nam, nếu hạn
chế được khả năng gây hại của nấm B. oryzae thì sẽ tiết kiệm được một
lượng lớn hạt giống lúa.
Hạt giống lúa chất lượng tốt là hạt giống ngoài ưu điểm vượt
trội về năng suất hay chất lượng thì phải đáp ứng các yêu cầu đặt ra về
độ ẩm, độ sạch, hạt khác giống và tỷ lệ nảy mầm. Để đảm bảo tỷ lệ nảy
mầm cao thì lô hạt giống lúa phải được loại bỏ các yếu tố gây bệnh như
hạt lép lửng chứa nguồn bệnh hoặc bản thân hạt giống không được
mang nguồn bệnh. Tuy vậy bệnh trên hạt giống lúa hiện nay chưa được
coi là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất hạt giống tại Việt
Nam, chưa có tiêu chuẩn cụ thể về tỷ lệ hạt nhiễm nấm là bao nhiêu thì
lô hạt giống đạt yêu cầu làm giống và được phép lưu thông trên thị
trường. Việc trao đổi mua bán hạt giống diễn ra rất thường xuyên và dễ
dàng nhưng việc quản lý bệnh trên hạt giống chưa được quan tâm đặc
biệt với nấm B. oryzae lan truyền qua hạt giống. Để có thông tin đầy đủ
và toàn diện, các thông tin được thực hiện trong luận án sẽ là cơ sở dữ
liệu để nghiên cứu và ứng dụng để tạo ra một hệ thống sản xuất hạt
giống lúa sạch bệnh trên toàn bộ các vùng trồng lúa của Việt Nam.
2
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Nghiên cứu xác định khả năng xâm nhiễm, gây hại của nấm
B. oryzae trên hạt giống lúa và các giải pháp phòng chống bệnh tại các
tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung Việt Nam.
1.2.2. Yêu cầu
- Có được thông tin về sự gây hại của B. oryzae trên đồng ruộng,
tỷ lệ hạt bị nhiễm nấm trên hạt giống lúa tại các tỉnh miền Bắc và ven
biển miền Trung.
- Xác định được quá trình xâm nhiễm của B. oryzae vào hạt
giống và ảnh hưởng của nấm tới khả năng nảy mầm của hạt giống.
- Xác định được một số đặc điểm sinh học, đặc điểm gây hại trên
hạt và sự đa dạng di truyền của nấm B. oryzae.
- Xác định được các biện pháp, chế biến và bảo quản hạt giống
lúa và các biện pháp xử lý hạt giống lúa để phòng trừ nấm B. oryzae.
1.3. Những đóng góp mới của đề tài
- Bổ sung số liệu về mức độ gây hại của nấm B. oryzae trên
đồng ruộng và hạt giống lúa sản xuất tại Việt Nam.
- Bổ sung các đặc điểm sinh học và đặc điểm vùng gen ITS của các
nguồn nấm thu thập từ các vùng sinh thái và từ các giống lúa khác nhau.
- Bổ sung các thông tin về vị trí của nấm B. oryzae trong cơ cấu
giống và canh tác hiện nay từ đó tìm ra các phương pháp hạn chế tỷ lệ
hạt giống lúa bị nhiễm B. oryzae và hạn chế sự gây hại của nấm B.
oryzae trên cây lúa.
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu nấm B. oryzae gây hại trên hạt giống lúa sản
xuất tại Việt Nam sẽ bổ sung dữ liệu khoa học về nấm B. oryzae hại lúa.
- Các kết quả thu được của đề tài sẽ là cơ sở để xây dựng tiêu
chuẩn hạt giống về tỷ lệ hạt nhiễm nấm được phép của lúa cũng như
xây dựng quy trình sản xuất hạt lúa giống có chất lượng cao.
3
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài bổ sung những nghiên cứu về nấm B. oryzae, là cơ sở để
xây dựng hệ thống quản lý hạt giống lúa ở các cấp giống nhằm cung
cấp nguồn giống lúa sạch bệnh cho sản xuất từ đó quản lý được quá
trình lan truyền và gây hại của B. oryzae.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hạt giống lúa sử dụng phổ biến trong sản xuất và các nguồn
nấm B. oryzae gây hại trên hạt giống lúa thu thập tại các tỉnh phía Bắc
và ven biển miền Trung Việt Nam.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về mức độ phổ biến, mức độ gây hại, khả năng lan
truyền, khả năng tồn tại trên hạt giống lúa, đặc điểm sinh học, đặc điểm
nuôi cấy, đa dạng di truyền của nấm B. oryzae cũng như nghiên cứu về
một số biện pháp xử lý hạt giống để phòng trừ bệnh.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Những nghiên cứu ngoài nước
2.1.1. Tên gọi và vị trí phân loại nấm B.oryzae
Nấm gây bệnh là Bipolaris oryzae (Brede de Haan) Shoemaker,
trước đó được gọi là Helminthosporium oryzae Brede de Haan hoặc
Drechslera oryzae (Brede de Haan), giai đoạn hữu tính được gọi là
Cochliobolus miyabeanus (Ito and Kurib) thuộc bộ Pyrenomycetales, lớp
nấm túi Ascomycetes (Ou, 1985). Nấm có phân loại Fungi, Ascomycota,
Pezizomycotina, Dothideomycetes, Pleosporomycetidae, Pleosporales,
Pleosporaceae, Bipolaris (Shoemaker, 1959).
2.1.2. Hình thái học của nấm B.oryzae
Theo Ou (1985), Brede là người đầu tiên mô tả hoàn chỉnh về
nấm B. oryzae. Sợi nấm và bào tử có từ 1đến 14 nhân. Trên môi trường
nuôi cấy, nấm có màu trắng xốp rồi xám nâu đen. Bào tử hữu tính rất ít
gặp, thường chỉ gặp ở cuối giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây, có
4
hình sợi dài, có từ 6 đến 15 ngăn, nằm trong quả thể có màu vàng nhạt
có thể tìm thấy trong rơm rạ.
2.1.3. Đặc điểm phát sinh phát triển của nấm B.oryzae
Sau mùa thu hoạch, nấm tồn tại trên tàn dư cây bệnh, trên rơm rạ,
hạt giống và ký chủ dại là các cây cỏ một lá mầm, trong điều kiện khô ráo
bào tử có thể tồn tại 2 năm và sợi nấm là 3 năm (Vũ Triệu Mân và Lê
Lương Tề, 2001). Theo Ou (1985), sợi nấm nằm trong mô bệnh là 3 năm,
với điều kiện thường bào tử có thể tồn tại trong đất 5 tháng ở nhiệt độ 350C
Nấm phát triển thích hợp ở 27- 30°C, bào tử nảy mầm tốt từ 25 30°C, phát triển trong điều kiện nhiệt độ từ 10 -410C với độ ẩm không
khí 60 -100%. Bào tử chết ở nhiệt độ từ 50 -510C và sợi nấm chết ở ở
nhiệt độ từ 48 -500C trong 10 phút. pH thích hợp cho nấm phát triển từ
6,6 -7,4, pH thích hợp cho bào tử nảy mầm từ 2,6 -10,9. Bào tử có thể
được sinh ở pH từ 4 - 10, trên môi trường nếu vượt quá 0,5% sucrose
và 0,1% pepton thì sự phát triển tản nấm và sự sinh sản bào tử sẽ bị hạn
chế (Shoemaker, 1959).
Bào tử nấm B.oryzae có 3 kiểu nảy mầm là: nảy mầm ở 2 đầu
của bào tử, nảy mầm ở tế bào giữa của bào tử và nảy mầm ở một đầu
của bào tử. Tỷ lệ các kiểu nảy mầm này phụ thuộc vào các loại môi
trường nuôi cấy, nhiệt độ nuôi cấy, loại ánh sáng và thời gian chiếu
sáng trong quá trình nuôi cấy (Dela, 2006).
Không tìm thấy sự liên quan giữa các vùng địa lý với sự đa dạng
của cấu trúc gen hay bệnh lý và khả năng gây bệnh của nấm (Kamal
and Mia, 2009). Nghiên cứu về biến đổi của gen và độc tính của nấm,
352 isolate đã được thu thập tại 11 địa phương của Philippin đã được
thống kê về mặt đa dạng sinh học. Kết quả cho thấy có sự đa dạng sinh
học, tại một địa điểm có thể có cả hai loại gen cổ điển và vô tính
(Burgos, 2013).
2.1.4. Độc tố và sự hình thành bào tử của nấm B.oryzae
Misra et al. (1962) đã tìm ra sự khác biệt về tính độc và sự hình
thành bào tử giữa hai ioslate phân lập được. Matuo (1948) cho rằng bào
tử từ cây lúa mọc trên dung dịch có ít hay không có kali thì độc tính cao
5
hơn. Hình thành bào tử đòi hỏi phải có cả hai giai đoạn tối và sáng, ánh
sáng xanh ức chế sự hình thành bào tử (Honda and Sakamoto, 1969).
B. oryzae tiết ra hai loại độc tố là Cochliobolin gây độc cho cây
mạ, hạn chế sự phát triển của rễ lúa ở nồng độ 30ppm; Ophiobolin gây
độc cho rễ và diệp lục, gây héo úa cây ở nồng độ 2-5ppm. Các độc tố
này có thể bị oxychlorua đồng làm bất hoạt. Nếu bệnh phát triển trên
môi trường ít hay không có kali, độc tính gây bệnh sẽ gia tăng. Từ một
bào tử hay nuôi cấy từ một tế bào ngọn, có thể tạo nên các dòng có độc
tính khác nhau (Shoemaker, 1959).
2.1.5. Cơ chế lây nhiễm của nấm B.oryzae lên hạt giống
Theo Nome et al. (2012), có 2 trường hợp xảy ra:
- Nhiễm bệnh toàn hạt giống: nấm xâm nhiễm bất kỳ phần nào
của hạt giống bởi hệ thống mạch dẫn hoặc trực tiếp bởi những vết
thương tự nhiên hoặc nhân tạo. Nấm lây nhiễm thông qua giai đoạn nở
hoa tạo hạt, bào tử của một số loại nấm nảy mầm và sợi nấm phát triển
đến phôi nơi chúng có thể tồn tại như một sợi nấm tiềm sinh không hoạt
động cho đến khi hạt nảy mầm. Khi hạt nảy mầm, điều kiện cho nấm
phát triển cũng xuất hiện.
- Mang nguồn bệnh thụ động: mầm bệnh dính vào hạt giống khi
thu hoạch hoặc sau thu hoạch bao gồm các u sưng, các hạch nấm… bộ phận
của cây hoặc các hạt đất có mang mầm bệnh của một tác nhân gây bệnh có
thể làm hạt giống nhiễm bệnh thứ cấp thông qua sự cọ sát trong bất kỳ quá
trình sản xuất hạt giống nào như thu hoạch, chế biến và đóng gói.
Bằng các biện pháp kỹ thuật Schroeder (1966) đã chứng minh sợi
nấm Drechslera oryzae nằm trong nội nhũ, các sợi nấm phát triển dọc
theo vách tế bào. Các phần bị nhiễm bệnh trên hạt: vỏ trấu, vỏ cám và
phôi của hạt lúa.
2.1.6. Biện pháp phòng trừ nấm B.oryzae
Theo Ou (1985), biện pháp phòng trừ tốt nhất là sử dụng giống
chống chịu bệnh và sử dụng hạt giống sạch bệnh. Xử lý hạt giống bằng
các phương pháp như vật lý, hóa học, sinh học để bảo vệ cây con không
nhiễm bệnh từ hạt giống truyền sang, qua đó làm giảm khả năng phát
6
sinh dịch bệnh trên cây trồng. Xử lý hạt giống để tăng tỷ lệ nảy mầm,
giảm khả năng truyền bệnh sang cây con, cây trồng không bị gây hại
bởi bệnh truyền qua hạt giống, để bảo vệ khi hạt nảy mầm và cây con
khỏi sự tấn công của nấm.
2.2. Những nghiên cứu trong nước
2.2.1. Đặc điểm của nấm B.oryzae
Bệnh đốm nâu (tiêm lửa) đã được nghiên cứu từ những năm 60,
70. Theo Vũ Triệu Mân và Lê Lương Tề (2001), bệnh tiêm lửa do nấm
B. oryzae gây hại chủ yếu trên lúa xấu, thiếu dinh dưỡng và các giai
đoạn sinh trưởng mà cây khủng hoảng dinh dưỡng ở các bộ phận già
hay thiếu dinh dưỡng, ở thời kỳ cuối mạ và lúa bị hạn, trên các lá già,
giai đoạn cuối khi mạ chuẩn bị nhổ cấy, trên lá già sau đẻ nhánh, trên
vỏ hạt bông lúa non lúc trỗ và đòng non khiến bông lúa bị lép. Mức độ
thâm canh càng cao bệnh càng ít gây hại, giống lúa dài ngày càng dễ bị
bệnh vì có nhiều giai đoạn sinh trưởng thiếu dinh dưỡng. Bệnh gây ít
tác hại khi ở mức độ nhẹ, khi bệnh nặng, vết bệnh nhiều sẽ làm lá cây
bị úa vàng khô héo.
2.2.2. Tình hình nấm B.oryzae gây hại trên hạt giống
Theo Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng
Quốc gia, trong các nghiên cứu từ năm 1998 đến năm 2008 trên các mẫu
hạt giống thu thập được ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung, nấm B.
oryzae được tìm thấy trên một số giống có chất lượng gạo ngon như
Tám, Hương thơm số 1, IR353-66. Tỷ lệ hạt nhiễm bệnh này cao nhất
là trên 80%, những mẫu hạt giống có tỷ lệ hạt nhiễm nấm B. oryzae đều
có tỷ lệ cây mầm bất bình thường cao, tỷ lệ nảy mầm thấp. Một số dòng
bố mẹ lúa lai tạo ra các giống lúa lai chất lượng cũng bị nhiễm bệnh với
tỷ lệ trên 60%.
2.2.3. Khả năng truyền bệnh của nấm B.oryzae trên hạt
B. oryzae là nấm bệnh truyền qua hạt giống, tất cả các phần của
hạt đều tìm thấy bào tử nấm. Phôi, nội nhũ, mày hạt, vỏ trấu trên, vỏ
trấu dưới, lớp vỏ cám đều có thể bị nấm bệnh tấn công và gây hại. Nấm
7
cũng có thể nằm bên trong hạt hoặc sát bề mặt hạt trong các lớp vỏ hạt
(Somsiri and Vu Van Ba, 2005).
2.2.4. Khả năng gây hại của nấm B.oryzae trên cây mầm
Nấm bệnh đã truyền qua cây mạ biểu hiện triệu chứng thành chín
kiểu khác nhau, các cây mạ này trở thành cây mầm không bình thường
không được tính vào tỷ lệ nảy mầm, có nghĩa là tỷ lệ nảy mầm chung của
lô hạt giống đã bị giảm đi đúng bằng tỷ lệ cây mang triệu chứng bệnh: Cây
mầm không có rễ; Không có rễ và bị thối ở thân mầm; Rễ ngắn; Thối thân
mầm; Thối mầm và thối rễ; Rễ sơ cấp bị biến màu nâu, không phân nhánh
và không có rễ sơ cấp; Mầm còi cọc vặn xoắn; Mầm nhỏ, yếu, úng nước;
Rễ sơ cấp nhỏ và yếu (Huỳnh Văn Nghiệp và Ashok, 2004).
2.2.5. Biện pháp phòng trừ nấm B.oryzae
Theo Phạm Văn Dư và cs. (2011), bệnh lem lép trong đó có nấm
B. oryzae chiếm tỷ lệ 4,9%. Các giống lúa cải tiến có tỷ lệ bệnh cao hơn
các giống lúa địa phương. Sử dụng phương pháp lựa chọn hạt giống
sạch bệnh và dùng dung dịch muối pha loãng 15% trước khi gieo sạ
trên ruộng, phương pháp này làm giảm tỷ lệ truyền bệnh qua hạt, tăng
năng suất từ 12 đến 15%.
Hiện nay việc xử lý hạt giống bằng thuốc hóa học đang được sử dụng
rộng rãi, sử dụng các loại dịch chiết thực vật cũng đang được áp dụng.
PHẦN 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vật liệu
- Mẫu hạt giống lúa thuần, lúa lai và các nguồn nấm thu thập tại
các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra theo QCVN 01-38:2010/BNNPTNT.
- Phương pháp lấy mẫu hạt giống theo ISTA (2010).
- Phương pháp kiểm nghiệm hạt giống theo ISTA (2010).
- Phương pháp nghiên cứu đặc điểm phân tử: hai mồi ITS1 và
ITS2 (White et al., 1990) đã được sử dụng để nhân toàn bộ vùng ITS
của các mẫu nấm. Tìm kiếm cơ sở dữ liệu Genbank bằng phần mềm
8
trực tuyến BLAST tại NCBI (the National Center for Biotechnology
Information). Phân tích trình tự gene được thực hiện bằng các phầm
mềm ClustalX và MEGA5.1.
- Phương pháp giám định nấm B. oryzae trên hạt giống lúa theo
Mathur and Olga (2003).
- Tính hiệu lực của thuốc theo công thức Abbott (1925).
- Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel, phân tích
phương sai (ANOVA) bằng phần mềm IRRISTAT 5.0.
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều tra tình hình nấm B. oryzae gây hại trên đồng ruộng
Trong cả hai vụ xuân và mùa của các năm 2010, 2011, 2012,
chúng tôi đã tiến hành điều tra trên 20 giống lúa thuần, 10 giống lúa lai
đang được trồng phổ biến. Các giống lúa này bao gồm có lúa nếp, lúa
tẻ, giống lúa thuộc nhóm chất lượng, giống lúa thuộc nhóm năng suất
cao, giống lúa cổ truyền và giống lúa mới được chọn lọc, lai tạo.
Với lúa thuần, mức độ nhiễm nấm của từng giống khác nhau, vụ
mùa mức độ nhiễm nấm cao hơn so với vụ xuân. Nấm B. oryzae luôn
tồn tại trên đồng ruộng, khả năng thâm nhập, gây bệnh luôn được duy
trì. Các vết bệnh do nấm B. oryzae gây ra đều tập trung tại các lá già và
lá bánh tẻ của cây lúa, triệu chứng bệnh bắt đầu xuất hiện ở các lá gần
bông và lá đòng vào thời điểm sắp thu hoạch. Đa số các giống có chỉ số
bệnh trên đồng ruộng thấp dưới 1%, tỷ lệ bệnh dưới 10%. Bị gây hại
nặng nhất là giống Bao thai lùn: vụ xuân tỷ lệ bệnh cao nhất là 10,5%
và chỉ số bệnh là 1,8%; vụ mùa tỷ lệ bệnh là 18,6% và chỉ số bệnh là
3,5% vào năm 2012, số lá bị nấm gây hại chủ yếu ở cấp bệnh 1.
Với lúa lai, kết quả cho thấy tất cả các giống đều nhiễm nấm B.
oryzae với chỉ số bệnh tương đối thấp, cao nhất trên giống HYT 100
(1,7%) vào vụ mùa năm 2012. Toàn bộ số lá điều tra bị nhiễm bệnh đều ở
cấp bệnh 1. Chỉ số bệnh của các giống qua 3 năm sự biến động về tỷ lệ
9
bệnh và chỉ số bệnh trên các giống không lớn. So với các giống lúa thuần
thì tỷ lệ bệnh và chỉ số bệnh của các giống lúa lai thấp hơn.
4.2. Tình hình bệnh do B. oryzae gây hại trên hạt giống lúa
Với hạt giống lúa thuần, tổng số 1200 mẫu hạt giống thu thập tại
các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung đã được giám định để điều
tra trong 3 năm. Tỷ lệ hạt nhiễm nấm của các mẫu thu thập không có
biến động nhiều qua các năm ngoại trừ một số mẫu có kết quả tăng đột
biến. Tỷ lệ mẫu nhiễm và tỷ lệ hạt nhiễm nấm ở vụ mùa cao hơn vụ
xuân. Tỷ lệ mẫu nhiễm nấm thấp nhất trên giống Q5 (18,3% trong vụ
xuân), tỷ lệ hạt nhiễm thấp nhất trên giống nếp Vải (1,6% tại vụ xuân
năm 2010). Tỷ lệ mẫu nhiễm nấm và tỷ lệ hạt nhiễm nấm trung bình
cao nhất trên giống IR 353-66 (tỷ lệ mẫu nhiễm nấm trung bình cao
nhất là 91,7% ở vụ mùa, tỷ lệ hạt nhiễm 23,7% tại vụ mùa năm 2012).
Với hạt giống lúa lai sản xuất trong nước, tỷ lệ mẫu nhiễm và tỷ
lệ hạt nhiễm nấm ở vụ mùa cao hơn vụ xuân. Các giống lúa lai có bố
mẹ sản xuất trong nước có tỷ lệ mẫu nhiễm nấm và tỷ lệ hạt nhiễm nấm
cao hơn các giống có bố mẹ nhập khẩu. Các giống có tỷ lệ hạt nhiễm
nấm không quá 5%, tỷ lệ này có biến động không đáng kể qua các năm.
Tỷ lệ hạt nhiễm thấp nhất trên giống TH3-3 được sản xuất năm 2010
(1,8%), 2011, và 2012 (1,9%); tỷ lệ hạt nhiễm nấm cao nhất xuất hiện
trên giống HYT 100 được sản xuất vào năm 2011 và LC 20 được sản
xuất vào năm 2012 với tỷ lệ 4,9%.
Với hạt giống lúa lai nhập khẩu, chúng tôi đã tiến hành điều tra
các mẫu lúa nhập khẩu vào nước ta tại vụ xuân và vụ mùa ba năm
2010, 2011, 2012 liên tục, kết quả cho thấy không có mẫu nào bị nhiễm
nấm B. oryzae
Với hạt giống lúa thu thập tại các vùng sinh thái khác nhau, tỷ lệ
hạt nhiễm nấm thấp nhất thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ nhiễm
cao nhất của vùng này là 8,3% vào năm 2012. Các tỉnh vùng Bắc trung
bộ có tỷ lệ hạt nhiễm nấm cao nhất (15,3% vào năm 2011). Sau đó là
các tỉnh vùng Tây bắc có tỷ lệ cao nhất là 10,0% vào năm 2010; vùng
Đông bắc có tỷ lệ cao nhất là 9,5% vào năm 2011. Ở tất cả các vùng, tỷ
10
lệ hạt nhiễm nấm không có sự biến đổi nhiều qua các năm điều tra, tỷ lệ
mẫu nhiễm nấm từ 36,6% đến 50%.
Với hạt giống lúa thu thập tại các chế độ và địa hình canh tác
khác nhau, chế độ canh tác một vụ lúa, một vụ cá có tỷ lệ hạt nhiễm
thấp nhất (tỷ lệ cao nhất là 1,5%), chế độ chuyên canh lúa tỷ lệ hạt
nhiễm cao nhất (25,5%). Đất sản xuất một vụ lúa, một vụ cá thường là
khu đất trũng (đầm), giàu dinh dưỡng, cây lúa phát triển tốt, đẻ nhánh
khỏe, các loại sâu bệnh khác cũng rất ít khi gặp. Sau khi gặt, tất cả các
tàn dư của cây đều bị ngập nước trong thời gian dài nên tỷ lệ mẫu nhiễm
nấm thấp đã hạn chế việc truyền bệnh sang vụ sau. Trên đất trồng lúa
luân canh sản xuất cây vụ đông (khoai tây, rau họ thập tự), tỷ lệ mẫu
nhiễm và hạt nhiễm nấm có nhiều hơn nhưng vẫn thấp hơn trên các chân
đất chỉ trồng lúa, cây vụ đông không phải là ký chủ của B. oryzae nên
cũng đã hạn chế được quá trình truyền bệnh trên đồng ruộng.
Các mẫu thu thập tại Nghệ An có tỷ lệ hạt nhiễm nấm lên tới
62,5%, khu ruộng này chuyên canh lúa và nằm trên khu vực cao, địa
hình dốc, khô hạn, khó khăn trong việc tưới tiêu. Quá trình chăm sóc
như làm cỏ, bón phân và công tác bảo vệ thực vật còn hạn chế, sự phát
triển của giống trên ruộng không đạt được mức tối đa, cây phát triển
kém dẫn đến nấm bệnh phát triển nhiều.
Tại Quảng Bình, mẫu thu tại ruộng chuyên canh lúa ven biển, đất
pha cát và bạc màu cũng có tỷ lệ hạt nhiễm lên tới 52,5%. Các mẫu thu tại
ruộng đất nhiễm phèn tại tỉnh này cho tỷ lệ hạt nhiễm 19,0%. Số mẫu
nhiễm trên mẫu kiểm tra cao nhất cũng ở 3 loại địa hình như trên. Trên đất
trũng có số mẫu nhiễm nấm thu thập được trên số mẫu kiểm tra thấp nhất
(1/10), tỷ lệ hạt nhiễm nấm trên loại đất này cũng thấp nhất (1,5%).
4.3. Một số đặc điểm sinh học, phân tử của nấm B. oryzae
4.3.1. Kiểu nảy mầm của bào tử nấm B.oryzae
Quá trình nảy mầm của bào tử nấm xảy ra sau 2 giờ ở nhiệt độ 250C
trong điều kiện đủ nước, ánh sáng nhẹ, không đòi hỏi yêu cầu gì đặc biệt.
Bào tử nấm nảy mầm theo 2 kiểu: nảy mầm ở 2 đầu của bào tử (70%) và
11
nảy mầm ở 2 đầu cùng tế bào giữa của bào tử (30%). Kết quả nghiên cứu
thu được phù hợp với nghiên cứu của Dela (2006). Tuy nhiên kiểu nảy
mầm ở một đầu của bào tử đã không quan sát thấy, có thể do sự đa dạng
sinh học nên đã có khác biệt giữa Việt nam và Philippin.
4.3.2. Ảnh hưởngcủa nhiệt độ đến sự phát triển của nấm B.oryzae
Ở các ngưỡng nhiệt độ khác nhau, sự phát triển của nấm B.
oryzae sau các ngày nuôi cấy có sự khác nhau rõ rệt, nấm phát triển rất
chậm ở ngưỡng 10oC và bị ức chế hoàn toàn ở ngưỡng 35oC, phạm vi
nhiệt độ thuận lợi cho sự sinh trưởng của nấm B. oryzae là 25 -30oC. Kết
quả nghiên cứu phù hợp với Shoemaker (1959) và các tác giả khác. Đây
là phạm vi nhiệt thường có trong điều kiện tự nhiên ở cuối vụ xuân và vụ
mùa miền Bắc khi cây lúa bước vào giai đoạn trỗ và chín.
4.3.3. Ảnh hưởng của môi trường đến sự phát triển của nấm B.oryzae
Môi trường thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của nấm B.
oryzae là PGA và MEA, đây là môi trường cung cấp nhiều cacbonhydrat
cho nấm phát triển. Nấm phát triển kém nhất trên môi trường WA và RTA,
hai loại môi trường này có thể không đáp ứng đủ dinh dưỡng cho nấm.
Bào tử được sinh ra sớm nhất với số lượng nhiều nhất trên môi trường
PGA. Môi trường WA nấm không sinh bào tử sau 7 ngày.
4.3.4. Ảnh hưởng của hàm lượng amylose và protein trong hạt giống
tới sự phát triển của nấm B.oryzae
Hàm lượng protein không thể hiện mối liên quan với tỷ lệ hạt
nhiễm bệnh. Tỷ lệ hạt nhiễm nấm cao thường xuất hiện trên các giống
có tỷ lệ amylose thấp và trung bình. Tuy nhiên mối quan hệ giữa tỷ lệ
hạt nhiễm nấm và tỷ lệ amylose chưa rõ ràng nên cần có nghiên cứu sâu
hơn để kết luận giống mẫn cảm với nấm B. oryzae phụ thuộc vào hai
chỉ tiêu này hay không.
4.3.5. Ảnh hưởng của thời gian tới khả năng lan truyền của nấm B.oryzae
Theo thời vụ, sau 3, 6, 9 tháng, hạt giống lúa có thể được sử dụng để
gieo trồng. Sau các khoảng thời gian này nhìn chung khả năng bảo tồn để
lan truyền của nấm không thay đổi. Trên các mẫu hạt giống có tỷ lệ hạt
nhiễm nấm thấp, 3 tháng sau thu hoạch và bảo quản tỷ lệ nhiễm B.oryzae
12
trên hầu hết các mẫu hạt giống lúa kiểm tra không thay đổi, sau 6 tháng tỷ
lệ nhiễm nấm tăng nhẹ (giống IRi 352 tăng 1,5%). Trên nhóm hạt giống có
tỷ lệ hạt nhiễm nấm cao, tỷ lệ hạt nhiễm nấm B. oryzae ổn định trong suốt
thời gian lưu giữ 9 tháng.
4.3.6. Đặc điểm phân tử tại vùng gen ITS của nấm B. oryzae
Hiện nay, vùng liên gien ITS (internally transcribed spacers) của
cụm gien rDNA là một trong các vùng gen phổ biến nhất để nghiên cứu
đa dạng và xác định nhiều loài nấm. Các rDNA của nấm được tổ chức
thành các đơn vị phiên mã. Mỗi đơn vị phiên mã có thể được lặp lại
nhiều lần trên bộ genome. Về cấu trúc, ở sinh vật nhân thật, các đơn vị
phiên mã thường lặp lại nhiều lần và kề nhau thành các cụm đơn vị
phiên mã. Một đơn vị phiên mã gồm các gen xếp theo thứ tự là 18S5.8S-28S. Xung quanh vùng gen 5.8S là 2 vùng ITS ký hiệu là ITS1 (ở
đầu 5’) và ITS2 (ở đầu 3’).
Hình 4.1. Sơ đồ vùng ITS của B. oryzae
Trình tự ITS1 và ITS 2 của nấm: >B.oryzae
AAGGTCTCCGTAGGTGAACCTGCGGAGGGATCATTAC
ACAACAAAATATGAAGGCCTGGCTTTCGCGGCC
GGCTGAAGTATTTTTTTCACCCATGTCTTTTGCGCACTTGTTG
TTTCCTGGGCGGGTTCGCCCGCCACCA
GGACCAAACCATAAACCTTTTTTTCTTATGCAGTTTCCATCAG
CGTCAGTAAAAACAATGTAATTATTAC
AACTTTCAACAACGGATCTCTTGGTTCTGGCATCGATGAAGA
ACGCAGCGAAATGCGATACGTAGTGTGA
ATTGCAGAATTCAGTGAATCATCGAATCTTTGAACGCACATT
GCGCCCTTTGGTATTCCAAAGGGCATGC
13
CTGTTCGAGCGTCATTTGTACCTTCAAGCTTTGCTTGGTGTTG
GGCGTTTTTTTGTCTCCCTCTTTCTGG
GAGACTCGCCTTAAAACGATTGGCAGCCGGCCTACTGGTTTC
GGAGCGCAGCACATTTTTTGCGCTTTGT
ATCAGGAGAAAAGGACGGTACTCCATCAAGACTCTACATTTT
TCACTTTTGACCTCGGATCAGGTAGGGA
TACCCGCTGAACTTAAGCATATCA
Tám mẫu nấm trên các loại hạt giống lúa khác nhau được thu
thập từ các tỉnh khác nhau (bảng 4.1) đã được giải trình tự để tìm kiếm
sự đa dạng trong vùng gen ITS. Đoạn nucleotide đọc được trên vùng
ITS là 539bp. Kết quả tìm kiếm các trình tự gần gũi trên GenBank cho
thấy loài gần gũi nhất là Cochliobolus miyabeanus có nguồn gốc Nhật
Bản, mã JN943398; đoạn so sánh 100%, mức đồng nhất trình tự 100%.
Bảng 4.1. Nguồn gốc các mẫu nấm B.oryzae thu thập được
STT Danh sách isolate/ Mẫu nấm
Địa điểm thu thập
1
BT7-V4/ Số 4
Ninh Bình
2
VL50-IV10/ Số 10
Hà Nội (Gia Lâm)
3
QN1-IV17/ Số 17
Bắc Giang
4
QR-III21/ Số 21
Hải Phòng
5
HT1-I24/ Số 24
Thái Bình
6
KD18-I248/ Số 248
Điện Biên
7
IR35366-V557/ Số 557
Hà Tĩnh
8
P6ĐB-III695/ Số 695
Thanh Hóa
Tìm kiếm trên Genbank có 23 trình tự gen gần gũi với 8 trình
tự đã được giải mã của Việt Nam. Các trình tự tìm thấy là Cochliobolus
miyabeanus gây hại trên họ hòa thảo như lúa, lúa dại, niễng, cỏ ngọt, cỏ
lồng vực, ngô, cá biệt gây hại trên chuối. Lựa chọn 20 mẫu B. oryzae và
10 mẫu loài Bipolaris khác trên Genbank để so sánh mức đồng nhất với
các mẫu B. oryzae thu thập tại Việt Nam. Trình tự gen của 8 mẫu nấm
thu thập trên 8 giống lúa tại 8 tỉnh khác nhau đã cho kết quả giống nhau
14
tại vùng gen ITS1 và ITS2. và đồng nhất với nhóm B. oryzae đã được
công bố trên thế giới từ 82,2% trở lên, đồng nhất với nhóm loài
Bipolaris khác đã được công bố trên thế giới từ 81,1% trở lên.
74
163DZAB016 (Mẫu số 24)
163DZAB020 (Mẫu số 695)
163DZAB010 (Mẫu số 4)
163DZAB018 (Mẫu số 248)
100
163DZAB019 (Mẫu số 557)
163DZAB015 (Mẫu số 21)
163DZAB014 (Mẫu số 17)
163DZAB012 (Mẫu số 10)
B.oryzae (JQ237248)
63 B.oryzae (GU222693)
B.oryzae (JQ517483)
76
B.oryzae (HM572291)
B.oryzae (HM131852)
B.oryzae (KF688970)
Cụm loài B.oryzae
B.oryzae (HM147247)
B.oryzae (JQ753706)
B.oryzae (HM147248)
B.oryzae (KJ522982)
B.oryzae (KJ563117)
9
B.oryzae (KC315929)
8
B.oryzae (JF693910)
B.oryzae (KJ371107)
B.oryzae (KC315942)
52
B.oryzae (KC315940)
80
B.oryzae (KC315943)
57
B.oryzae (KC315939)
B.cynodontis (JX256412)
B.chloridis (JN192372)
B.microlaenae (JN601032)
74
B.peregianensis (JN601034)
B.sativus (JX256418)
54
B.melinidis (JN601035)
74
B.victoriae (JN601027)
B.maydis (AF071325)
B.carbonum (AF158110)
84
57
B.zeae (AF081452)
0.005
Hình 4.2. Phân tích phả hệ dựa trên trình tự toàn bộ vùng ITS
của các mẫu nấm B. oryzae
Cây được xây dựng bằng phương pháp Neighbor-Joining (NJ). Giá
trị ở các nốt là giá trị thống kê boostrap dưới dạng % (1000 lần lặp) (ngưỡng
tin cậy nhìn chung là 75% có nghĩa trong 1000 lần lặp thì 750 lần các đơn vị
phân loại phân nhóm với nhau). Các mẫu B. oryzae của Việt Nam được đánh
dấu bằng dấu chấm và biểu diễn bằng mã giải trình tự.
15
Phân tích phả hệ dùng các trình tự mẫu và các trình tự của các
loài được xác định thông qua tìm kiếm Blast (hình 3.2). Các mẫu thu
được phân nhóm chặt chẽ với cụm loài tương ứng của chúng. Mức độ
đồng nhất của các mẫu thu thập tại Việt Nam với nhóm B. oryzae đã
được công bố trên thế giới từ 74% trở lên. Trình tự gen của 8 mẫu nấm
trên 8 giống lúa khác nhau thu được tại 8 tỉnh khác nhau đã cho kết quả
giống nhau tại vùng gen ITS1 và ITS2 cho thấy tại Việt Nam nấm B.
oryzae chưa tìm thấy sự đa dạng tại 2 vùng gen này. Để tìm ra đa dạng
sinh học của nấm B. oryzae cần có các nghiên cứu sâu hơn bằng các
phương pháp khác.
4.4. Đặc điểm gây hại của nấm B.oryzae trên hạt
4.4.1. Giai đoạn xâm nhiễm của nấm B. oryzae vào hạt
Theo dõi quá trình xâm nhiễm tự nhiên của nấm B. oryzae vào
hạt được tiến hành trên ruộng sản xuất hạt giống lúa Hương thơm số 1
tại Thái Bình vụ mùa năm 2012. Ruộng lúa lựa chọn để nghiên cứu ở
giai đoạn phân hóa đòng có tỷ lệ cây nhiễm nấm B. oryzae là 100%, chỉ
số bệnh là 7,9%. Để đảm bảo quá trình xâm nhiễm vào hạt không bị
ảnh hưởng, ruộng thí nghiệm không phun thuốc trừ bệnh. Bảy giai đoạn
phát triển hình thành hạt giống lúa đã được điều tra lấy mẫu bông mang
về phòng thí nghiệm để kiểm tra sự xuất hiện của nấm hạt, kết quả cho
thấy chỉ số bệnh của ruộng giống tăng dần từ giai đoạn phân hóa đòng
đến khi thu hoạch, các giai đoạn của quá trình hình thành hạt đều có sự
xuất hiện của nấm B. oryzae với hạt nhiễm nấm trên bông tăng dần cho
đến khi chín hoàn toàn, tỷ lệ hạt nhiễm nấm tăng từ 0,5 đến 6%.
Để đánh giá khả năng xâm nhiễm của nấm B. oryzae vào hạt ở
các thời điểm tạo hạt, các cây lúa sạch bệnh trồng trong chậu đã được
đặt ra ruộng lúa đang được theo dõi ở trên. Toàn bộ bông trong chậu thí
nghiệm được thu hoạch vào cuối giai đoạn phát triển để kiểm tra tỷ lệ
hạt nhiễm nấm. Tổng số 24 chậu lúa được gieo từ nguồn hạt giống đã
xử lý nấm bệnh và trồng cách ly với nguồn bệnh đã được sử dụng làm
16
thí nghiệm. Kết quả cho thấy các giai đoạn từ đẻ nhánh đến chuẩn bị trỗ
cây lúa có thời gian tiếp xúc với nấm bệnh lâu nhất nhưng B. oryzae
vẫn chưa xâm nhập được vào đòng nên không có bằng chứng cho thấy
nấm xâm nhập vào hạt. Tỷ lệ hạt nhiễm nấm tăng đột biến vào giai
đoạn trỗ 50% trở đi, tỷ lệ hạt nhiễm cao nhất vào giai đoạn lúa trỗ
100% và giảm dần vào các giai đoạn sau (bảng 4.2).
Bảng 4.2. Kết quả theo dõi mức độ nhiễm nấm B. oryzae
ở các giai đoạn hình thành hạt trên đồng ruộng
STT
Giai đoạn phát triển
Chỉ số bệnh
(%)
3,1
Tỷ lệ hạt nhiễm nấm
(%)
-
1
Đẻ nhánh
2
Phân hóa đòng
7,9
0
3
Chuẩn bị trỗ
7,9
1,5d
4
Trỗ 50%
8,0
6,5b
5
Trỗ thoát 100%
9,9
9,0a
6
Chín sữa
13,2
8,5a
7
Chín sáp
14,0
3,0c
8
Chín hoàn toàn
15,3
2,0d
Mỗi giai đoạn thực hiện với 3 chậu, mỗi chậu trồng 5 cây, các chậu
được đặt vào giữa ruộng bị nhiễm bệnh. Cuối giai đoạn thu các chậu này về
và đặt các chậu mới để thực hiện giai đoạn tiếp theo. Các ký tự khác nhau có
sự khác biệt ở mức ý nghĩa 0,05; CV=7,3%.
4.4.2. Vị trí tồn tại của nấm B. oryzae trên hạt giống lúa
Thu ngẫu nhiên các bông lúa từ ruộng lúa Hương thơm số 1 có
chỉ số bệnh lớn hơn 15%, chọn ba nhóm hạt có triệu chứng không biến
màu, biến màu nhẹ, biến màu và biến dạng. Tách các phần của hạt, đặt
các phần này trên giấy ẩm theo phương pháp Blotter. Kết quả thu được
cho thấy tất cả các phần vỏ trấu, phôi, vỏ cám và nội nhũ của cả ba
nhóm hạt đều xuất hiện nấm B. oryzae (bảng 4.3).
17
Bảng 4.3. Vị trí tồn tại của nấm B. oryzae trên hạt
Vị trí tồn tại của nấm
Đặc điểm mẫu
Vỏ trấu
Phôi
Vỏ cám Nội nhũ
Hạt không biến màu
Hạt biến màu nhẹ
Hạt biến màu và biến dạng
Ghi chú:
+
++
+++
+
++
+++
+
+
++
+
+
++
+
+
+
<10% số hạt bị nhiễm nấm tại vị trí kiểm tra
10-25% số hạt bị nhiễm nấm tại vị trí kiểm tra
>25% số hạt bị nhiễm nấm tại vị trí kiểm tra
4.4.3. Vị trí phát triển và gây hại trên hạt của nấm B.oryzae
Vị trí phát triển trên hạt của nấm có ý nghĩa rất lớn trong quá
trình nảy mầm của hạt. Song song với quá trình hạt giống lúa nảy mầm,
nấm B. oryzae cũng phát triển, nếu vị trí của nấm phát triển gần phôi
hạt thì khả năng cây mầm bị gây hại nặng là rất cao. Gây nguy hiểm
nhất đối với hạt giống lúa là nấm tồn tại và phát triển ngay tại phôi hoặc
các vị trí sát cạnh phôi, khi mầm phát triển là nấm lập tức tấn công gây
hại. Với mức độ nhiễm nặng, nấm có thể gây thối (chết) phôi ngay khi
hạt chưa kịp nảy mầm hoặc làm chết mầm của hạt ngay khi vừa nhú. Vị
trí ít gây hại hơn cả khi nấm phát triển ở phía cuối hạt nơi cách xa phôi
nhất, tuy nhiên cũng phụ thuộc vào mức độ nhiễm nấm của hạt.
Nấm B. oryzae gây hại trên hạt với các biểu hiện như sau:
- Gây chết hạt (hạt bị thối trước khi nảy mầm).
- Toàn bộ bề mặt hạt bị bao phủ một lớp nấm màu xám đen
- Mầm bị thối hoàn toàn.
- Rễ bị thối hoàn toàn.
- Mầm và rễ bị thối toàn bộ.
- Một phần mầm hoặc rễ bị thối.
Nấm gây hại trên hạt trong quá trình nảy mầm ở các cấp độ
khác nhau đã tạo ra các thương tổn khác nhau (hình 4.3).
18
Hình 4.3. Các dạng cây mầm hạt giống lúa HT1 bị nấm B. oryzae
gây hại
Mật độ bào tử xuất hiện trên hạt có ý nghĩa trong việc lan truyền
trên đồng ruộng. Mật độ bào tử dầy tức là số lượng bào tử nhiều, khả
năng lan truyền nhanh và mạnh, mật độ bào tử thưa, sợi nấm nhiều thì
khả năng lan truyền sẽ kém hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy bào tử
phát triển dày đặc xuất hiện với tần xuất nhiều hơn trên hạt bị nấm bao
phủ quá nửa bề mặt. Đối với hạt mang nấm phát triển dưới một nửa hạt
thì kiểu mật độ bào tử thưa xuất hiện nhiều hơn. Nghiên cứu xu thế
phát triển của nấm trên bề mặt hạt kết quả cho thấy nấm có xu thế phát
triển về phía phôi hạt với tỷ lệ cao ở tất cả các mẫu nghiên cứu.
4.4.4. Khả năng gây bệnh của các nguồn nấm B.oryzae thu thập tại
các tỉnh
Toàn bộ 24 mẫu nấm tham gia thí nghiệm đều cho kết quả tương
đối giống nhau về thời kỳ tiềm dục, khả năng lây bệnh và mức độ gây
hại. Thời gian xuất hiện triệu chứng bệnh đầu tiên sau khi lây nhiễm là
khoảng từ 3 đến 4 ngày. Tỷ lệ bệnh tương đối cao từ 74,5 đến 86,8%,
chỉ số bệnh từ 7,6 đến 10,3%. Không có sự khác nhau nhiều về độ độc
và khả năng gây bệnh của các nguồn nấm thu thập. Hạt mang nấm bên
trong hạt hay bám dính bên ngoài đều có khả năng gây hại tương tự
nhau, tỷ lệ hạt chết và cây mầm bất bình thường tương đương nhau.
19
4.4.5. Ảnh hưởng của tỷ lệ hạt nhiễm nấm B.oryzae đến tỷ lệ nảy
mầm của hạt giống lúa
Nấm tấn công trực tiếp vào phôi làm hạt không có khả năng nảy
mầm hoặc mầm bị chết. Cây mầm cũng có thể trở nên yếu ớt bất bình
thường hoặc bị nhiễm bệnh thứ cấp do có các vết bệnh nghiêm trọng tại
các vị trí như thân mầm và bao lá mầm. Các mẫu có tỷ lệ nảy mầm cao
đều có tỷ lệ hạt nhiễm nấm thấp, mẫu có tỷ lệ nảy mầm thấp có tỷ lệ hạt
nhiễm nấm cao tương đương tỷ lệ hạt chết và cây mầm bất bình thường
của các mẫu này (bảng 4.4, 4.5).
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của tỷ lệ hạt nhiễm nấm B. oryzae
đến tỷ lệ nảy mầm của giống Hương thơm số 1
Tỷ lệ (%)
Dung
Tỷ lệ hạt
Đặc điểm nảy
lượng Mầm Mầm Hạt
nhiễm nấm
Hạt
mầm của mẫu
mẫu
B.o (%)
BT
KBT KNM chết
Cao (> 80%)
23
91,0
5,0
0
4,0
3,6
Trung bình
36
78,0
17,0
0
5,0
15,7
Thấp (<50%)
4
42,0
54,0
0
4,0
56,5
Bảng 4.5. Ảnh hưởng của sự phát triển của nấm B. oryzae
trên hạt đến sức sống cây mầm
Sự phát triển của
nấm trên hạt
Tỷ lệ cây
mầm (%)
Toàn bộ hạt
Bị chết
Bị yếu
Bị chết
Bị yếu
Khỏe mạnh
Bị chết
Bị yếu
Khỏe mạnh
Trên một nửa bề
mặt hạt
Dưới một nửa bề
mặt hạt
>80%
100
0
57,2
21,4
21,4
38,0
37,0
25,0
20
Nhóm nảy mầm
50-80%
<50%
100
100
0
0
69,0
90,9
31,0
9,1
0
0
41,8
58,0
41,8
32,0
16,4
10,0
- Xem thêm -