TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN NGỌC DUYÊN
MSSV: 6095843
CHẤT TRIẾT LÝ TRONG NHỮNG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: ThS. HỒ THỊ XUÂN QUỲNH
Cần Thơ, 5/2013
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao, người
viết đã cố gắng hết sức mình. Tuy nhiên, bên cạnh việc nỗ lực của bản thân, người viết
còn nhờ sự giúp đỡ và động viên không nhỏ từ quý thầy cô và bạn bè để hoàn thành tốt
luận văn này.
Nhân đây, người viết xin dành trang đầu tiên để gửi lời cảm ơn chân thành và
biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô và các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ người viết suốt những
năm tháng trên giảng đường Đại học, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của cô Hồ Thị
Xuân Quỳnh trong giai đoạn đầy khó khăn và thử thách đối với người viết.
Mặc dù, người viết đã hết sức cố gắng nhưng vì khả năng và thời gian có hạn
nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự
đóng góp ý kiến chân thành của quý thầy cô.
Người thực hiện
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Phạm vi đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đôi nét về tác giả Nam Cao
1.1.1 Tiểu sử
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác
1.1.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám
1.1.2.2 Sau Cách mạng tháng Tám
1.1.3 Quan điểm nghệ thuật
1.1.4 Phong cách nghệ thuật
1.2. Vài nét về chất triết lý
1.2.1. Giới thuyết về chất triết lý
1.2.2. Cơ sở hình thành chất triết lý trong những sáng tác của Nam Cao
1.2.3. Chất triết lý trong tác phẩm văn chương
Chương II: BIỀU HIỆN CHẤT TRIẾT LÝ TRONG NHỮNG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
2.1. Triết lý về đời văn, nghề văn
2.2. Triết lý về nhân luân, thế sự
2.3. Triết lý về cái lương thiện và cái ác, cái xấu
2.4. Triết lý về miếng ăn và nhân cách con người
2.5. Triết lý về tình yêu, hạnh phúc
2.6. Triết lý về sự sống, cái chết
Chương III: PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
CHẤT TRIẾT LÝ TRONG NHỮNG TRUYỆN NGẮN CỦA
NAM CAO
3.1. Vận dụng những thành ngữ, tục ngữ
3.2. Thông qua ngôn ngữ nhân vật
3.2.1. Ngôn ngữ độc thoại
3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại
3.3. Ngôn ngữ trữ tình ngoại đề
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do đề tài
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người ở
nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học, là những câu
chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn văn học thì
số phận con người cũng được quan tâm với nhiều góc độ khác nhau. Như văn học thời kì
trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người cộng đồng. Trong khi đó văn học
hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân cụ thể. Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu
biểu là xu hướng văn học hiện thực phê phán quan tâm, khám phá sâu sắc đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của từng con người, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn
của từng số phận con người. Những nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 đã
có công rất lớn trong việc tái hiện một xã hội mà trong đó đầy rẫy những bất công tàn bạo
vô nhân tính. Bên cạnh Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… thì Nam
Cao xuất hiện với những nét nổi bật rất riêng trong các sáng tác của ông. Có thể nói Nam
Cao là một nhà văn lớn đã kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn
1930 – 1945. Ở Nam Cao, chúng ta bắt gặp một hiện tượng phổ biến trong tác phẩm của
ông, đó là đề tài hẹp mà tư tưởng và chủ đề rộng lớn. Vì thế, tác phẩm của Nam Cao chứa
đựng những giá trị hiện thực sâu sắc, đã được khẳng định qua mọi thời đại. Chính vì
những điều đó, Nam Cao cùng nhiều tác phẩm của ông đã được đưa vào giảng dạy ở
chương trình phổ thông và chiếm một thời lượng không ít. Như vậy, tài năng của ông đã
được khẳng định đúng với giá trị của nó.
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc ông đã tìm cho mình một hướng đi riêng trong
việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Sống trong xã hội đầy rẫy những rối ren, cám dỗ, một
xã hội xô bồ, sống vì đồng tiền hơn tình người, Nam Cao vẫn giữ cho mình một nhân
cách sống cao đẹp. Và qua các tác phẩm của mình, Nam Cao đã chứng tỏ là một nhà văn
từng trải và có kinh nghiệm sống rất phong phú. Nam Cao đi tìm những chân lí, triết lý về
cuộc đời ngay trong cuộc sống lấm láp bộn bề của thực tế cuộc sống đang diễn ra hàng
ngày và diễn đạt nó bằng hình thức nghệ thuật ngôn từ: truyện. Và mỗi một truyện của
ông là một chiêm nghiệm đầy triết lý về cuộc đời. Tác phẩm của ông phản ánh được
những hiện thực cuộc sống mang tính thời sự cao được nhiều người quan tâm. Đọc truyện
ngắn của Nam Cao viết trước 1945, người đọc sẽ có một cảm xúc rất mạnh khi lắng sâu
suy nghĩ, tuy không làm người đọc rơi nước mắt nhưng lại thấy nỗi đau quặn ở trong
lòng, căng thẳng trong trí óc.
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-1-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
Những suy tư day dứt của Nam Cao là những vấn đề bức xúc như dân trí, dân tình,
dân sinh và dân chủ. Vì thế những khái quát mang tính triết lý trong các tác phẩm của
Nam Cao rất cao. Nó như những thông điệp đấu tranh vì quyền sống của con người. Hay
đó là những suy nghĩ được vắt ra từ cuộc sống vất vả, lầm than, từ những giằng xé của
một tâm hồn trung thực cố bám sát vào cuộc sống và vươn tới chân lí. Do vậy, những
trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu văn học ở từng
thời điểm và từng giai đoạn khác nhau.
Họ nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội dung sáng tác, về tư tưởng, phong cách
và về bút pháp nghệ thuật. Và ở đây, qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy tính triết lý trong các sáng tác của Nam Cao là một vấn đề hết sức thú vị. Những suy
nghĩ, những nhận định có tính chất bao quát của Nam Cao về cuộc đời đã được nhà văn
thể hiện trong tác phẩm bằng một giọng điệu tâm lí riêng hết sức thâm thúy, chứng tỏ ông
là một người có cái nhìn rất sâu sắc. Nhận ra điều đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Chất triết
lý trong các sáng tác của Nam Cao” để nghiên cứu, đi sâu, phân tích, lí giải, một cách hệ
thống và toàn diện về vấn đề này. Việc nghiên cứu sẽ giúp người viết có thêm nhiều kinh
nghiệm trong việc cảm nhận cũng như phân tích tính triết lý được thể hiện như thế nào
trong các tác phẩm của Nam Cao. Như vậy nghiên cứu vấn đề này sẽ cho chúng ta thấy rõ
hơn vai trò, vị trí rất quan trọng của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực phê phán.
Đồng thời, góp phần khẳng định thêm những đóng góp của Nam Cao trong suốt tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc, điều này không một ai có thể phủ
nhận. Nam Cao đã thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và
phản ánh hiện thực. Ngay từ khi tên tuổi của Nam Cao được khẳng định qua tác phẩm Chí
Phèo, cho đến nay đã có hơn 200 bài báo và công trình nghiên cứu về Nam Cao cũng như
các sáng tác của ông. Trong đó có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến tính triết lý
trong các sáng tác của Nam Cao. Nhiều nhà phê bình nghiên cứu đã thâm nhập sâu vào
thế giới nghệ thuật của Nam Cao và nhận định: những triết lý sống trong sáng tác của
Nam Cao là một phong cách riêng của ông. Có nhiều ý kiến bàn luận đánh giá về vấn đề
này, có thể kể đến như sau:
Đầu tiên trong cuốn “Phong cách truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng”, Tạp
chí Văn học (số 2) 1997, thì Bùi Công Thuấn nhận xét: “Khuynh hướng triết lý là một
trong những yếu tố làm nên phong cách Nam Cao”. Trong các sáng tác của Nam Cao thì
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-2-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
triết lý là một đặc điểm khá nổi đậm, ông triết lý rất nhiều ở mọi khía cạnh của cuộc sống,
để qua đó ông đưa ra nhiều bài học bổ ích cho mọi người. Và Bùi Công Thuấn cũng đưa
ra kết luận: “Nam Cao là một cây bút tâm lý, triết lý, đó là một đặc trưng phong cách của
Nam Cao”[22; tr.65 – 68].
Đến cuốn “Văn học Việt Nam hiện đại (những chân dung tiêu biểu)” do Phong Lê
biên soạn, nhà xuất bản Văn học 1997, thì nhận xét về Nam Cao như sau: “Khi kiên nhẫn
hoặc nhẩn nha dõi theo lịch sử một đời, hoặc thâu tóm một đời vào một khoảng hẹp thời
gian, hoặc một tình huống truyện, tác giả như muốn nhằm vào một triết lý sống, một bài
học nhân thế”[12; tr.109].
Trong quyển “Nam Cao đời văn và tác phẩm”, do Hà Minh Đức biên soạn, Nhà
xuất bản Văn học 1998. Đây xem như là một công trình nghiên cứu giới thiệu về quá trình
sáng tác đồng thời đưa ra những nhận định sơ bộ về nhà văn Nam Cao.
Hà Minh Đức đã chỉ ra rằng: “Chất suy nghĩ và triết lý trong sáng tác của Nam
Cao là một mặt mạnh của ngòi bút góp phần tạo nên điểm riêng của tác phẩm”[10;
tr.234]. Qua những trang viết của mình, Nam Cao đã thể hiện chất triết lý về cuộc sống
của mọi tầng lớp xã hội. Tuy những triết lý đó chủ yếu được lấy ra từ những chuyện hằng
ngày trong đời sống nhưng những triết lý đều rất sâu sắc và có ý nghĩa rất lớn. Do đó,
chất triết lý trong các sáng tác Nam Cao nó là một mặt mạnh và tạo nên một phong cách
rất riêng ở Nam Cao.
Hà Minh Đức đã đưa ra cái nhìn bao quát, nhận thấy ở những phương diện nào
trong tác phẩm của Nam Cao cũng nổi lên tính triết lý: “Tác giả triết lý, nhân vật triết lý,
câu chuyện tự nó cũng toát lên tính chất triết lý. Nam Cao không thuyết lý dài dòng,
không biện luận một cách trừu tượng mà triết lý về cuộc sống và để cho cuộc sống gợi lên
ý nghĩa triết lý của nó” [10; tr.67]. Trong các tác phẩm của Nam Cao, những câu triết lý
về những vấn đề bình thường trong cuộc sống được viết ra không quá phức tạp mà nó hết
sức giản dị, rõ ràng, dễ hiểu. Triết lý của Nam Cao gắn liền với cuộc sống thường ngày.
Từ đó Nam Cao muốn đưa ra những quan điểm sống, những bài học nhân thế mà ông
muốn gửi gắm đến cho mọi người.
Không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra tính triết lý của Nam Cao, mà Hà Minh Đức còn
nói đến giá trị của các yếu tố triết lý trong các sáng tác của Nam Cao, Hà Minh Đức nhấn
mạnh: “Nam Cao không rơi vào lối viết luận đề. Chủ đề và ý nghĩa triết học của sáng tác
nổi lên nhưng không ở dạng sắp đặt trước. Sức thuyết phục chủ yếu của câu chuyện là ở
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-3-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
sự sống và phần máu thịt của câu chuyện. Ý nghĩa triết lý như sợi chỉ nhỏ chạy xuyên từ
ngọn nến nơi đặt điểm sáng của ngọn lửa sáng tạo tỏa ra tác phẩm” [10; tr.415].
Ngoài ra, để nói về tính triết lý của Nam Cao chúng ta còn có thể kể đến cuốn
“Nam Cao – Về tác gia và tác giả”, Nhà xuất bản Giáo dục 2007, tập hợp các bài giới
thiệu, phê bình, bình luận và nghiên cứu của các nhà phê bình nghiên cứu, các nhà giảng
dạy văn học, nhà văn được công bố trên các sách báo tạp chí về cuộc đời và văn nghiệp
Nam Cao. Trong cuốn sách này, có những bài viết đề cập đến một vài khía cạnh về tính
triết lý trong sáng tác của Nam Cao, đáng chú ý có thể kể đến bài viết của các tác giả sau:
Trần Đăng Suyền – người có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao và các tác
phẩm của ông trong cuốn “Nam Cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ
nghĩa lớn”, in trên Tập chí Văn học (Số 6) năm 1998, đã nhìn nhận “Trước Cách mạng
tháng Tám, không có một nhà văn nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm tâm lý, tổng hợp khái
quát cao về tình trạng chết mòn của con người như nhà văn lớn Nam Cao”[21; tr.67].
Hay trong cuốn “Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
2004, Trần Đăng Suyền cũng nhận định về chất triết lý của Nam Cao như sau: “Đọc Nam
Cao, ta bắt gặp tiếng nói của một con người mà vầng trán không bao giờ thanh thản còn
tâm hồn thì nặng trĩu ưu tư. Đặc điểm ấy của con người Nam Cao đã góp phần tạo nên
giọng điệu triết lý suy ngẫm sâu xa, một giọng điệu làm nên phong cách độc đáo trong
sáng tác của ông” [22; tr.240].
Trong khi phản ánh hiện thực, Nam Cao thường hay đi vào những chủ đề mang
tính suy ngẫm, thiên về truy tìm, đúc kết ra một triết lý cho cuộc sống. Khi đã khảm vào
tâm trí người đọc thật nhiều những chi tiết có vẻ vụn vặt về các số phận, cảnh đời, rồi ông
nhẹ nhàng đưa ra những câu khái quát, triết lý. Những khái quát triết lý đó đã được vắt ra
từ cuộc sống, là kết quả của cả một quá trình chiêm nghiệm đời sống của ông.
Và đến Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn “Nhà văn tư tưởng và phong cách”, Nhà
xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội 2001, thì nhận xét:
“Đọc Nam Cao, thấy ông hay triết lý, thích khái quát. Dĩ nhiên sức hấp dẫn không
thể có được nếu ông chỉ lặp lại những nguyên lý chung chung, quen nhàm. Nói cho đúng,
những lý lẽ ông nói ra không phải bao giờ cũng hay ho, chính xác cả, nhưng quả là
những tìm tòi, những phát hiện của riêng ông về cuộc sống, nghĩa là nó mang đẫm mồ hôi
của tâm não ông. Cho nên triết lý mà không khô khan, triết luận mà như mở ra những
chân trời thơ bát ngát” [14; tr.90].
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-4-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
Cuối cùng nói đến chất triết lý của Nam Cao, Bùi Thị Anh Thơ trong bài viết của
mình “Thành ngữ trong truyện ngắn Chí Phèo”, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ (Số 6) năm
2005, có đề cập đến triết lý sống trong các sáng tác của Nam Cao “Nét riêng nhân vật
Nam Cao là giàu suy lý, luôn triết lý trong mọi cách suy nghĩ, hành động của mình” và
đưa ra kết luận “Văn Nam Cao mang đầy sự chiêm nghiệm, triết lý” [25; tr.17 – 18].
Từ những ý kiến, nhận định trên, ta thấy yếu tố triết lý trong truyện ngắn Nam Cao
là một vấn đề được nhiều người quan tâm và đã có nhiều sự nghiên cứu. Khi nghiên cứu
về tính triết lý trong các sáng tác của Nam Cao – một trong những tác giả xuất sắc nhất
của văn học Việt Nam hiện đại chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều hay, bổ ích không phải
chỉ để hiểu kỹ hơn, đúng hơn một nhà văn mà còn giúp ta hiểu rõ hơn nhiều vấn đề có
tính triết lý sâu sắc mà tác giả muốn gửi gấm đằng sau mỗi câu chuyện. Và tính triết lý là
một đặc điểm phổ biến nổi bật trong các sáng tác của Nam Cao.
3. Mục đích yêu cầu
Trong dòng văn hiện thực phê phán thì chất triết lý là một đặc điểm nghệ thuật
được khá nhiều tác giả thể hiện trong văn của mình có thể kể đến như: Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Thạch Lam,… chất triết lý có ý vị sâu xa nhưng đều hướng người đọc
đến những chân lý, những thông điệp trong cuộc sống mà các tác giả muốn gửi đến người
đọc.
Nghiên cứu đề tài này, mục đích đầu tiên mà người viết hướng tới đó là tìm hiểu,
đánh giá và làm sáng tỏ được nét nổi bật, độc đáo về tính triết lý trong những sáng tác cuả
Nam Cao. Và để thấy được cái nhìn của tác giả về cuộc đời, nhận ra cái hay, cái sâu sắc
của Nam Cao khi thể hiện những triết lý trong các sáng tác của ông. Qua đó, người viết có
thể thấy được nét riêng trong những triết lý của Nam Cao so với các nhà văn khác cùng
thời, đó cũng là một nét tiêu biểu trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Từ đó, có thể
hiểu rõ hơn về chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao và thấy được cái nhìn của
Nam Cao về con người, về xã hội lúc bấy giờ, với những tình cảm, thái độ trân trọng, xót
thương của tác giả dành cho những kiếp người khốn khổ trong xã hội lúc bấy giờ.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài này còn giúp người viết củng cố thêm kiến thức
cho bản thân về nhà văn Nam Cao cùng các tác phẩm của ông, và làm hành trang quý báu
cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy sau này.
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-5-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
4. Phạm vi đề tài
Đề tài nghiên cứu về “Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao”, do vậy
phạm vi nghiên cứu chũ yếu tập trung ở phần “chất triết lý” trong những sáng tác của
Nam Cao. Cụ thể ở những truyện ngắn tiêu biểu như: Lão Hạc, Mua nhà, Chí Phèo, Tư
cách mõ, Một bữa no, Nửa đêm, Lang Rận, Sống mòn, Trẻ con không được ăn thịt chó…
Bên cạnh đó, người viết còn tập hợp, tham khảo những tài liệu, những công trình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài của mình để có được cái nhìn tổng quát hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết cần phải kết hợp rất nhiều thao tác khác nhau.
Trước tiên, người viết đã tập hợp và chọn lọc những tài liệu có liên quan đến đề tài. Song
song đó, người viết đã chọn một số tác phẩm tiêu biểu nhất để phân tích, nhìn nhận, đánh
giá làm nổi bật được chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao. Đồng thời, người viết
đã sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm khác cùng giai đoạn để
làm nổi bật được điểm khác biệt và cái hay, nét đặc sắc trong những sáng tác mang chất
triết lý của Nam Cao. Bên cạnh đó, trong quá trình khảo sát và nghiên cứu người viết còn
sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: tổng hợp, liệt kê… và các thao tác chứng minh,
phân tích, đánh giá… nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong bài viết này.
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-6-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đôi nét về tác giả Nam Cao
Nam Cao có một vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Những tác phẩm của Nam Cao phần lớn ra đời trong những năm Chiến tranh thế giới lần
thứ hai, đánh dấu bước phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong một thời
kỳ tưởng chừng như bế tắc. Nam Cao bước chân vào con đường văn chương khi trên văn
đàn, dòng hiện thực phê phán đã xuất hiện những nhà văn tiêu biểu: Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,… nhưng tên tuổi của Nam Cao không bị lu
mờ. Trên con đường sáng tạo nghệ thuật cuả mình, Nam Cao đã không giẫm lên lối mòn
của những người đi trước. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc
sống ngột ngạt, đen tối của xã hội thực dân phong kiến, và thể hiện sinh động thân phận
khổ đau, bế tắc của những người trí thức tiểu tư sản nghèo và nông dân những năm 1940
– 1945.
1.1.1. Tiểu sử
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1915 trong một gia
đình trung nông tại làng Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Bút danh Nam Cao do
ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng mà thành. Cha là Trần Hữu Huệ, sinh năm 1895 làm
nghề trạm trổ và bốc thuốc bắc. Sau cha ông trở thành chủ một hiệu đồ gỗ ở Hàng Đàn,
thành phố Nam Định, sau đó vì thua lỗ nên cửa hàng vỡ, lại trở về nghề ruộng. Mẹ là
Trần Thị Minh, sinh năm 1897 làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Làng Đại Hoàng của Nam
Cao ở một vùng xa phủ, huyện nên bọn cường hào chức dịch trong làng càng được dịp
hoành hành. Nơi đây hàng năm thường vẫn xảy ra những vụ kiện tụng lẫn nhau giữa
những bọn giàu có nhiều thế lực, và không ít cảnh những người nông dân phải rời bỏ làng
quê đi tha phương cầu thực. Những sự việc có thực diễn ra ở đây đã được ghi lại trên
trang sách của Nam Cao với dấu ấn nặng nề về một vùng quê đói nghèo tăm tối.
Nam Cao sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống khá chật vật, trong các
anh em, chỉ có mình Nam Cao được đi học. Đói nghèo, bệnh tật đeo đuổi và giày vò Nam
Cao ngay từ những năm còn nhỏ. Thi Thành chung trượt, Nam Cao theo một người cậu
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-7-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
làm thợ may vào Sài Gòn kiếm sống. Rời bỏ cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao
mang theo nhiều ước mơ và dự định lớn lao. Những tưỏng những miền xa quê hương sẽ
mở ra một chân trời mới lạ; nhưng rốt cuộc, bệnh tật lại trả Nam Cao trở về với nơi chôn
nhau cắt rốn. Câu chuyện này được tác giả kể lại trong Sống mòn: “Y vào Sài Gòn với một
người làng, mặc dầu rằng khí hậu nóng ẩm chẳng tốt tý nào cho căn bệnh của y. Ở Sài
Gòn, y kiếm sống bằng rất nhiều nghề, kể cả những nghề mà những người tự xưng là trí
thức không làm. Y trà trộn với phu phen, với thợ thuyền. Y mặc đồ bà ba, đi chích thuốc
hút ở nhà thương. Còn chút thì giờ thừa nào, y học rất chăm. Y đợi một dịp may mắn có
thể xin xuống làm bồi tàu để đi sang Pháp. Y sẽ sang đấy, để nhìn rộng, biết xa, để tìm
cách học thêm. Phải có một cái trình độ học thức khá cao. Phải luyện tài. Có học có tài y
mới đủ năng lực mà phụng sự cái lý tưởng cuả y. Tạng người y không cho y cầm súng
cầm gươm, y sẽ cầm bút mà chiến đấu… Y lận đận ở Sài Gòn ngót ba năm. Ngót ba năm
sống chật vật, sống nghèo nàn nhưng rất say mê. Cái mộng viễn du vẫn chưa thành thì
một trận ốm thập tử nhất sinh đã lại đem y về trả cho đất chôn nhau cắt rốn” [1; tr. 17 –
18].
Ở Sài Gòn về, Nam Cao ôn lại vốn học cũ và thi đậu Thành chung. Nam Cao định
xin đi làm công chức, nhưng vì bệnh tật nên không được chấp nhận. Một người trong họ
mở trường tư ở Hà Nội (trường tư thục Công Thanh, đường Thụy Khuê, Hà Nội), cần một
giáo viên có bằng trung học, Nam Cao được mời lên dạy học. Cuộc sống của một thầy
giáo khổ trường tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc thân phận của người tiểu tư sản trí thức
nghèo trong một xã hội ngột ngạt, bế tắc. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương,
trường bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề viết văn, làm gia sư, có khi thất
nghiệp phải về quê “ăn bám” vợ. Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc
bí mật cùng với một số nhà văn như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng,
Nguyễn Đình Thi,… Cũng từ đó, Nam Cao đã xác định được quan điểm và lập trường tư
tưởng của mình trong sáng tác gắn liền với “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi cơ sở Văn hóa
cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về quê và
tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.
Tháng 8 năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, và được
bầu làm Chủ tịch xã. Năm 946, Nam Cao được điều lên Hà Nội và công tác ở Hội Văn
hóa cứu quốc, Nam Cao làm thư ký tòa soạn tạp chí Tiên phong, cơ quan của Hội.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân Nam tiến vào vùng
Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc. Những năm kháng chiến chống thực dân
Pháp, Nam Cao vừa làm biên tập cho các báo Cứu quốc Việt Bắc, Cứu quốc trung ương,
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-8-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông tin tuyên truyền: viết tin, viết tài liệu giải
thích các chính sách, làm ca dao tuyên truyền, viết truyền đơn địch vận,… Cuối năm
1947, Nam Cao được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, đây là niềm vinh dự và
niềm vui lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người chiến sĩ cộng sản Nam
Cao.
Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam
Cao và đoàn công tác bị một toán địch phục kích. Ngày 30 tháng 11 năm 1951, Nam Cao
đã anh dũng hi sinh ở Mưỡu Giáp, Hoàng Đan, tỉnh Ninh Bình. Nam Cao ngã xuống giữa
lúc ông đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương. Chuyến đi đó nhà văn lấy tư liệu để
hoàn chỉnh tác phẩm Làng nhưng ông đã không kịp thực hiện được hoài bão và khát vọng
của cuộc đời mình. Sự ra đi của Nam Cao đã để lại một khoảng trống không gì bù đắp
nổi, đó là một sự mất mát lớn lao cho văn học hiện đại nói riêng và nền văn học Việt Nam
nói chung.
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên
vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may,
bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Năm 1937, ông gửi in trên Tiểu
thuyết thứ bảy, các truyện ngắn Nghèo, Đui mù. Trên báo Hữu Ích: Những cánh hoa tàn,
Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam
Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở
Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái
chết của con Mực trên báo Hà Nội Tân Văn với bút danh là Xuân Du và cũng gửi thơ in
trên báo này ký tên là Nguyệt.
Trong trào lưu hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945, Nam Cao nổi
lên như một nhà văn tiêu biểu và độc đáo. Là “người thư ký trung thành của thời đại”,
với một bút pháp riêng đầy tính sáng tạo, Nam Cao đã đặt ra trước người đọc hàng loạt
vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chát, những bi kịch đau đớn, vật vã. Thông qua những
sáng tác của mình, Nam Cao đã phản ánh được cái khung cảnh ngột ngạt, tăm tối của xã
hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Những tác phẩm của Nam Cao từ truyện ngắn
đầu tay nổi tiếng Chí Phèo đến tiểu thuyết Sống mòn là sự thể hiện trên nhiều bình diện
về số phận những con người, và hơn thế nữa, là cuộc sống cùng khổ của cả một tầng lớp
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
-9-
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
người, một giai cấp. Nam Cao viết nhiều, nhưng sáng tác của ông có thể quy về hai đề tài
chủ yếu: người nông dân, và người tiểu tư sản trí thức nghèo.
1.1.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám
Ở đề tài thứ nhất, gồm có những truyện viết về người trí thức nghèo tiêu biểu là:
- Những truyện không muốn viết (1942)
- Giăng sáng (1943)
- Đời thừa (1943)
- Quên điều độ (1943)
- Sống mòn (tiểu thuyết – 1944)…
Qua các tác phẩm đó, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí
thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945. Đó là những giáo khổ trường tư, những
nhà văn túng quẫn, viên chức nhỏ… Qua họ, ông nêu lên nhiều triết lý sâu sắc, có ý nghĩa
xã hội to lớn. Trí thức trong sáng tác của Nam Cao là những người có tài năng, tâm huyết,
biết tự trọng và ôm ấp hoài bão lớn lao, họ có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân
phẩm, muốn xây dựng một sự nghiệp với tinh thần cao quý; nhưng không thực hiện được
vì gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”. Hộ thiết tha viết
tác phẩm ăn giải Nô-ben; Thứ mong muốn được đóng góp công sức làm đổi thay nền giáo
dục để xã hội công bằng. Vậy mà cả hai đều bị dồn vào tình trạng “chết mòn”, phải sống
như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đề tài này, Nam Cao phê phán sâu sắc xã hội
ngột ngạt, phi nhân đạo bóp ngẹt sự sống, giết chết tài năng, tàn phá tâm hồn con người.
Ông cũng thể hiện thành công quá trình người trí thức tự đấu tranh, khắc phục mặt hạn
chế, họ khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, vươn lên giữ lối sống đẹp xứng
đáng là cuộc sống con người.
Ở đề tài thứ hai, Nam Cao viết chừng hai mươi truyện ngắn phản ánh cuộc đời tăm
tối, số phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là:
- Chí Phèo (1941)
- Trẻ con không được ăn thịt chó (1942)
- Lão Hạc (1943)
- Một bữa no (1943)
- Một đám cưới (1944)
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 10 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
Viết về đề tài này, Nam Cao dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt
Nam trước năm 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê
thảm. Ông đặc biệt quan tâm tới tình trạng nghèo đói và quá trình một bộ phận thấp cổ bé
họng bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì họ càng
bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường
tha hóa, lưu manh hóa. Viết về nông dân, Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân
phong kiến đã hủy hoại nhân hình, sói mòn nhân tính của những con người lương thiện.
Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, ông đã đi sâu vào nội tâm nhân vật
để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất và bản chất lương thiện cao cả của những người
ngay cả khi bị xã hội dập vùi, cướp mất cả nhân hình, nhân tính của người nông dân.
Đây đều là những đề tài quen thuộc, nhưng vì biết khơi những nguồn chưa ai khơi,
nên Nam Cao vẫn tạo được sự hấp dẫn. Viết về nông dân hay trí thức, sáng tác của Nam
Cao luôn luôn thể hiện nỗi băn khoăn day dứt trước số phận con người. Và qua đó ta thấy
các sáng tác của ông luôn chứa đựng những nội dung triết lý sâu sắc.
1.1.2.2 Sau Cách mạng tháng Tám
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về người nông dân, người
trí thức với “đôi mắt” mới. Nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến, nên có sự thay
đổi trong quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật. Trên cơ sở
những chuyển biến về thế giới quan và những quan điểm nghệ thuật, con đường sáng tác
của Nam Cao đã chuyển sang một chặng đường phát triển mới. Từ một nhà văn hiện thực
phê phán dần dần Nam Cao đã chuyển thành một nhà văn cách mạng. Cố nhiên bước
chuyển biến ấy không phải không gian khổ. Đó là một quá trình đấu tranh lâu dài để nâng
cao nhận thức, rèn luyện lập trường tư tưởng, tình cảm, dần dần khắc phục những sai lầm,
hạn chế của thế giới quan cũ.
Sau Cách mạng chúng ta thấy cái nhìn của Nam Cao về người nông dân không
còn giống như trước nữa. Nam Cao ngày càng nhìn thấy thực chất của người nông dân,
phẩm chất đạo đức và tinh thần đấu tranh cách mạng dũng cảm của họ. Nam Cao hết sức
thán phục những chiến công và cái chết anh hùng của một số thanh niên du kích trong
làng. Trong các bút ký như Chuyện biên giới, Vài nét ghi qua vùng giải phóng, Trên
những con đường Việt Bắc,… chúng ta cũng gặp nhiều hình ảnh nông dân tuy mới ở mức
phác họa nhưng cũng có thể nói lên cái nhìn mới mẻ của Nam Cao. Viết về vấn đề nông
dân thời kỳ này rõ ràng là ngòi bút cuả Nam Cao đã vượt khỏi tầm của một nhà văn hiện
thực phê phán.
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 11 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
Về đề tài trí thức tiểu tư sản với tác phẩm Đôi mắt, tác giả thể hiện một cái nhìn,
một quan điểm, một sự thay đổi đối với thời cuộc, có đi nhiều tìm hiểu nhiều và quan sát
nhiều mới có sự thay đổi cách nhìn cách nghĩ. Với Đôi mắt, Nam Cao đã sớm phác họa
ra, không phải bằng thứ ngôn ngữ của lý trí, mà bằng hình tượng đầy sức thuyết phục
nghệ thuật, hình ảnh của một nền nghệ thuật mới – nền nghệ thuật nhân dân, và một lớp
nhà văn mới – nhà văn của nhân dân.
Nhưng thời gian chứng tỏ: Đôi mắt trường tồn còn là vì nó gợi ra những suy nghĩ
về lẽ sinh tử của văn chương nghệ thuật. Như về quan hệ giữa nghệ thuật với nguồn sống
duy nhất vĩnh hằng của nó – quần chúng nhân dân. Như về vị trí của vấn đề đôi mắt, hay
đúng hơn, vấn đề tấm lòng người nghệ sĩ. Nam Cao rất đúng khi cho Độ băn khoăn: sao
Hoàng cứ ở mãi cái làng này, với đám cặn bã của giới thượng lưu này, sao Hoàng không
đi vào kháng chiến? Nhưng Nam Cao còn đúng, còn hay, còn lớn hơn nhiều nữa khi ông
cho Độ nghĩ về Hoàng: “Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát
lắm, ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản”.
1.1.3. Quan điểm nghệ thuật
Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Sự nghiệp của ông
bắt đầu bằng các trang văn lãng mạn. Lúc này, quan điểm sáng tác lãng mạn ảnh hưởng
đến Nam Cao khá rõ. Nhưng Nam Cao không dừng lại lâu ở thế giới mơ mộng, ảo tưởng,
mà chóng trở về với cuộc đời thực. Nhưng ở những người trẻ tuổi nhà nghèo, những cái
buồn thường phải sớm nhường chỗ cho những cái lo, nỗi lo cơm áo, bệnh tật, đói rét. Và
rồi, tác giả nhận ra: văn chương lãng mạn có phần xa lạ với đời sống lầm than, Nam Cao
không thích sự mơn trớn, vuốt ve: “Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối”.
Sự chuyển biến của Nam Cao từ xu hướng nghệ thuật lãng mạn đến quan điểm
hiện thực là cả một quá trình phấn đấu gian khổ nhưng dứt khoát. Để xác định cho mình
một quan điểm sống và viết đúng đắn, Nam Cao đã trải qua không ít những dằn vặt, băn
khoăn. Truyện Giăng sáng và Đời thừa đã thể hiện rất rõ điều này. Trong tác phẩm Giăng
sáng, Nam Cao đã thể hiện sinh động tâm trạng đấu tranh day dứt của nhà văn Điền giữa
hai con đường: mơ mộng và thực tế, lãng mạn và hiện thực, để rồi khẳng định sức mạnh
của văn học nghệ thuật chính là bắt nguồn từ đời sống và phục vụ đời sống. Qua Điền,
Nam Cao thiết tha khẳng định: “nghệ thuật có thể chỉ là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than”. Vì thế, văn nhân không được “trốn tránh” sự thật, mà “cứ đứng
trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 12 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
Trong các sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng, Giăng sáng được xem như bản
tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn. Hoàn toàn đúng như vậy. Nhưng có điều là quan điểm
nghệ thuật của nhà văn lớn luôn suy nghĩ về “sống và viết” trong suốt cuộc đời cầm bút
đó lại được ông phát biểu tương đối hệ thống, thể hiện một chiều sâu và tầm vóc bất ngờ
còn được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa. Nếu trong Giăng sáng, Nam Cao phê phán rất
thấm thía, rất hay thứ nghệ thuật lãng mạn thoát ly, coi đó là “ánh trăng giả dối”, và chủ
trương nghệ thuật chân chính phải trở về cuộc đời thực, thì trong Đời thừa, ông còn phê
phán cả thứ “tả chân” hời hợt, “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”. Với Nam Cao, ý
thức nghệ thuật của xu hướng hiện thực phải sâu sắc, phải mới mẻ hơn. Nhà văn không
chỉ đối lập thứ văn chương “giả dối” với văn chương chân thực, mà còn phân biệt đối lập
thứ “chân thực” bề ngoài với sự trung thực có chiều sâu của nghệ thuật chân chính.
Ý kiến của Nam Cao về “một tác phẩm thật giá trị “, “thật là một tác phẩm hay”
cho thấy tư tưởng nghệ thuật của nhà văn có một tầm vóc bất ngờ: “Một tác phẩm thật
giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung
cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại
vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người
gần người hơn” [3; tr. 87 – 88] (Đời thừa). Trước Cách mạng, Nam Cao đã coi trọng đôi
mắt tình thương và khẳng định: nhà văn phải là nhà nhân đạo. Qua Giăng sáng, Đời
thừa,… ông muốn văn học phản ánh cuộc đời của tầng lớp sống dưới đáy xã hội. Từ bi
kịch của Hộ, Nam Cao khuyên nhà văn tạm thời hi sinh nghệ thuật để giữ lối sống nhân
đạo. Nam Cao chủ trương văn học phải phản ánh chân thực và sâu sắc đời sống cực khổ
của nhân dân trên tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Một tác phẩm văn chương hay, có giá trị
phải chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc, mang nỗi đau nhân tình, tiếp sức mạnh cho
con người.
Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Đành
rằng, làm nghề gì cũng phải sáng tạo, nhưng yêu cầu này đối với các tác giả nghệ thuật
khắt khe hơn nhiều. Trong cuộc sống, sáng tạo là làm ra những sản phẩm tinh thần, vật
chất chưa từng có; nhà văn phải biết tìm tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những cái gì chưa có” [3; tr. 79] (Đời thừa). Đối lập với sáng tạo là sự cẩu thả, cẩu thả
trong nghề văn chẳng những “bất lương” mà còn “đê tiện”. Mà nhà văn phải là con
người chân chính, phải có lương tâm, có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình,
không được dối trá, chạy theo đồng tiền: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự
bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” [3; tr. 78] (Đời
thừa).
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 13 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
Nam Cao đã thực hiện ba quan điểm trên trong từng trang sách. Ông không chỉ xây
dựng được những tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu (trước chưa có, sau chưa thấy)
mà còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện tượng nông dân lương thiện tha hóa thành
quỹ dữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác theo quan điểm hiện thực phê
phán. Và sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục sáng tạo theo quan điểm tích cực, song
ông đã có cái nhìn toàn diện hơn về hiện thực. Tác phẩm Đôi mắt là một bản tuyên ngôn
khác của Nam Cao. Đọc Đôi mắt chúng ta buồn cười và thương hại cho con người trí thức
lạc lõng chứ chúng ta không hoài nghi, bi quan. Những con người như Hoàng không thể
cản bước tiến của lịch sử và cũng không làm cho ta nghi ngờ sự tiến bộ của những sinh
viên, công chức sung vào Vệ quốc quân, những bác sĩ đang mải mê đi sâu vào quần
chúng để học họ và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ. Rõ ràng là,
với Đôi mắt, Nam Cao đã đứng trên quan điểm một người cách mạng để nhìn nhận và phê
phán những cái cũ trong con người trí thức. Theo ông, phải có đôi mắt của tình thương
mới thấu hiểu được bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động; nhờ giác ngộ về vai trò cách
mạng của quần chúng nhân dân, Nam Cao không chì nhìn họ bằng đôi mắt của tình
thương mà còn cảm phục. Với tập nhật ký Ở rừng, Nam Cao lại nói cho chúng ta hiểu rõ
hơn những chuyển biến của ông. Tập nhật ký Ở rừng nói về hình ảnh một người thanh
niên tiểu tư sản sôi nổi nhiệt tình cách mạng đang rèn luyện để vươn lên theo kịp với thời
đại, đang phấn đấu với một tinh thần lạc quan, tin tưởng. Đã xa lắm rồi cái không khí
nghẹn ngào, u uất của cuộc sống đen tối, nặng nề trong các tác phẩm Nam Cao trước
Cách mạng, cái tâm trạng đau xót, chán chường của những người tiểu tư sản không tìm ra
lối thoát. Tác phẩm Ở rừng nói về cuộc sống phơi phới, thanh thoát của người tiểu tư sản
đã chọn đúng con đường cần phải chọn và đang vững bước tiến lên. Trong nhiều truyện
và bút ký khác chúng ta cũng gặp những mẩu phác họa về những thanh niên tiểu tư sản
như vậy.
Tóm lại qua việc thể hiện một số đề tài quen thuộc của Nam Cao trước cũng như
sau Cách mạng, chúng ta thấy rõ sự chuyển biến trong bản thân con người nhà văn cũng
như sự chuyển biến trong ngòi bút của Nam Cao. Khi nói tư tưởng Nam Cao chuyển biến,
thì trước Cách mạng, Nam Cao cũng đã có khá nhiều quan điểm tiến bộ trong cách nhìn
và cách thể hiện cuộc sống. Nhưng rõ ràng khi có ánh sáng của cách mạng, của Đảng thì
Nam Cao càng phát huy hơn nữa những ưu điểm vốn có của mình, Nam Cao đã tự nguyện
đặt cách mạng lên trên nghệ thuật. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tụy
trong mọi công tác phục vụ kháng chiến, ông nêu quyết tâm: “Sống đã rồi hãy viết”,
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 14 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
“Sống” là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh “tuyên truyền viên
nhãi nhép” đem ngòi bút phục vụ công nông binh (Đôi mắt, Ở rừng). Ông vui vẻ nhận ra
“góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ
thuật cao hơn”. Quan điểm tiến bộ trên đây giúp Nam Cao thành nhà văn cách mạng,
nghệ sĩ chân chính của thời đại.
1.1.4. Phong cách nghệ thuật
Trong số các tác giả hàng đầu của văn xuôi hiện thực giai đoạn văn học 1930 –
1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,… thì Nam Cao đến với
làng văn không sớm nhưng sáng tác của ông để lại những dấu ấn đặc sắc về phương diện
nghệ thuật. Nam Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa dạng, mới
mẻ độc đáo. Sức mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước hết ở sự chân thực trong nội
dung và trong hình thức nghệ thuật. Nam Cao đặc biệt tài năng trong việc xây dựng
truyện kiểu kết cấu tâm lý. Cốt truyện ít sự kiện, ít biến cố, nhưng tiếp cận với truyện
ngắn Nam Cao như Mua nhà, Giăng sáng, Đời thừa,… độc giả được tiếp cận vào thế giới
nội tâm đầy giằng xé và từ đó ngẫm ra những triết lý có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Không chỉ mới mẻ trong kết cấu, văn Nam Cao tạo sức hấp dẫn lâu bền ở việc sử
dụng ngôn ngữ. Sống nhiều ở nông thôn, lại hiểu sâu sắc không chỉ đối tượng người nông
dân mà ông còn “đi guốc trong bụng” các nhà trí thức tiểu tư sản. Do đó, ngôn ngữ của
Nam Cao rất gần gũi với đời sống, biểu đạt một cách chính xác, chân thực đời sống của
hai đề tài mà ông khám phá. Viết về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Viết về người tri thức là viết theo dòng suy nghĩ của nhân vật.
Viết về nông dân hay trí thức, Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của họ và
đặc biệt hứng thú với việc khám phá “con người trong con người” (sau vẻ bề ngoài của
Chí Phèo, thị Nở, lang Rận… còn có một con người khác mà chỉ những ai cố công tìm
hiểu mới phát hiện được). Ông quan niệm “bản tính cốt yếu của sự sống là cảm giác và
tư tưởng” (Sống mòn). Cảm giác, tư tưởng càng sâu sắc thì sự sống càng cao. Vì thế, Nam
Cao đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của
những hoạt động bên ngoài.
Với quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm.
Ông có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Tâm lý nhân vật thành trung tâm
chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể hiện những
quá trình tâm lý phức tạp (quỹ dữ thức tỉnh; hiện tượng dở say dở tỉnh; cá tính chấp chới
giữa thiện – ác, hiền – dữ…). Để diễn tả những diễn biến tâm lý, Nam Cao thường sử
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 15 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
Chất triết lý trong các sáng tác của Nam Cao
dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thành, sinh động. Đối với Nam Cao, cái quan
trọng nhất của tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố, hoàn cảnh mà là con
người trước sự kiện, biến cố. Nam Cao không tốn công miêu tả, phân tích hoàn cảnh, mà
những hoàn cảnh, sự kiện, tình tiết chỉ đóng vai trò khiêu khích, để cho nhân vật bộc lộ
những nét tính cách, tâm lí của mình. Tác phẩm Đời thừa không hướng ngòi bút vào việc
miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lí của con người trước gánh
nặng áo cơm làm mai mọt tài năng và xói mòn nhân cách. Nam Cao còn phân tích quá
trình tích tụ những biểu hiện tâm lí nhỏ nhặt nhất của nhân vật, làm nảy sinh những phẩm
chất mới trong tâm hồn con người. Trong Chí Phèo, Nam Cao đã phân tích tâm lí của Chí
Phèo từ lúc tỉnh dậy cho đến lúc được thị Nở cho ăn cháo hành, từ bâng khuâng, bàng
hoàng, thức tỉnh lương tri cho đến lo lắng, khát khao hạnh phúc để làm rõ được bản chất
lương thiện vẫn còn sống trong tâm hồn Chí.
Phong cách nghệ thuật của Nam Cao còn thể hiện ở những đề tài mà ông chọn viết.
Nhiều tác phẩm của Nam Cao được dệt nên từ những “cái hằng ngày” nhỏ nhặt, xoàng
xĩnh liên quan đến đời sống riêng tư của các nhân vật. Từ cái sự tầm thường quen thuộc
trong đời sống hàng ngày của “những chuyện không muốn viết”. Thế nhưng qua đó, các
tác phẩm của Nam Cao lại làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, triết lý sâu sắc về
con người, cuộc sống và nghệ thuật chân chính. Bi kịch của đời thường, của những cái vặt
vãnh hàng ngày, qua ngòi bút của Nam Cao, đã trở những bi kịch vĩnh cửu.
Về hình thức Nam Cao có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình sắc lạnh. Nam
Cao là nhà văn có giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát. Truyện Nam Cao luôn thay
đổi giọng điệu, trong đó có hai giọng điệu cơ bản nhất: giọng tự sự lạnh lùng với những
đại từ mang sắc thái dửng dưng hay khinh bạc: y, thị, hắn…và giọng trữ tình sôi nổi tha
thiết với những thán từ “chao ôi!”, “hỡi ôi!”. Hai giọng văn tuy đối lập nhưng chuyển
hóa qua lại tạo sự hài hòa làm nên chất giọng riêng của Nam Cao. Qua những điều đó cho
ta thấy, Nam Cao là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo với tài miêu tả phân
tích nội tâm nhân vật bậc thầy, ông đã nêu lên những triết lý nhân sinh sâu sắc, có sức
khái quát lớn, xứng đáng là một nhà văn xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam.
1.2. Một vài nét về chất triết lý
1.2.1. Giới thuyết về chất triết lý
Theo Đại từ điển Tiếng việt, “Triết lý” là quan niệm chung và sâu sắc nhất của con
người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Cùng với sự ra đời của triết lý là sự xuất hiện
các khái niệm về triết gia, triết học. Triết học là môn học nghiên cứu những qui luật
GVHD: ThS. Hồ Thị Xuân Quỳnh
- 16 -
SVTH: Nguyễn Ngọc Duyên
- Xem thêm -