TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGŨ VĂN
NGUYỄN THỊ LIÊN
TỔ CHỨC TRẰN THUẬT
TRONG TIẺU THUYẾT THOẠT KỲ THỦY
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
KHÓA LUẬN TỔT NGHIỆP ĐẠI HỌC
•
•
•
•
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHÙNG GIA THẾ
HÀ NỘI - 2015
L Ờ I CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo,
TS. Phùng Gia Thế - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, đặc
biệt là các thầy cô trong tô Lí luận văn học và các bạn sinh viên trong nhóm khóa
luận đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
Khóa luận được viết bằng niềm yêu thích đặc biệt với vấn đề nghiên cứu,
người viết đã có nhiều cố gắng tìm tòi nhất định, song chắc chắn không thế tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô
và các bạn để khóa luận hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Liên
L Ờ I CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo,
TS. Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Các tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Ket quả khóa luận chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu
nào.
Neu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Liên
MỤC LỤC
MỞ Đ À U .................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đ ề ..................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên c ứ u .................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................... 9
6. Đóng góp của khóa luận...................................................................................................... 9
7. Bố cục của khóa lu ậ n ...........................................................................................................9
NỘI D U N G ............................................................................................................................. 10
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRẰN THUẬT H Ọ C ........................10
1.1. Khái niệm trần thuật........................................................................................................10
1.2. Các yếu tố cơ bản của trần thuật.................................................................................. 12
1.2.1. Người kể chuyện và ngôi trần thuật......................................................................... 12
1.2.2. Điểm nhìn trần thuật.................................................................................................... 14
1.2.3. Ngôn ngữ trần th u ậ t.................................................................................................... 18
1.2.4. Giọng điệu trần thuật................................................................................................... 19
Chương 2. NGƯỜI KẺ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẰN THUẬT TRONG
TIẺU THUYẾT THOẠT K Ỳ THỦY CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG.................... 23
2.1. Người kể chuyện và sự phối hợp các điểm nhìn....................................................... 23
2.1.1. Trần thuật ngôi thứ b a .................................................................................................23
2.1.2. Sự di chuyển điếm nhìn trần thuật - trao điểm nhìn cho nhân v ậ t..................... 25
2.2. Điêm nhìn không gian và thời gian........................................................................... 30
2.2.1. Điểm nhìn không gian................................................................................................ 30
2.2.2. Điểm nhìn thời gian..................................................................................................... 33
Chương 3. PHƯƠNG THỨC VÀ KĨ THUẬT TRẰN THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT THOẠT K Ỳ THỦY CỦA NGUYỄN BÌNH P H Ư Ơ N G ...........................38
3.1. Ngôn ngữ trần th u ậ t....................................................................................................... 38
3.1.1. Ngôn ngữ đời thường, thông tụ c ...............................................................................38
3.1.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, lạ hóa, giàu chất t h ơ ..................................................... 39
3.1.3. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.............................................................................. 40
3.2. Giọng điệu trần thuật......................................................................................................45
3.3. Một số thủ pháp trần th u ậ t............................................................................................47
3.3.1. Thủ pháp lắp ghép, phân m ả n h ................................................................................ 47
3.3.2. Tạo những hình ảnh và mô típ trần thuật mang ý nghĩa biểu tượng................51
KÉT L U Ậ N ........................................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞĐẰU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trần thuật là một phương diện cơ bản của phương thức tự sự, gắn liền với
toàn bộ quá trình tô chức nghệ thuật của tác phâm. Trần thuật liên quan tới mọi cấp
độ trong tác phẩm, chi phối mạnh mẽ đến mạch vận động của tác phẩm, cùng bố cục
kết cấu, cho ta nhìn thấy diễn biến cốt truyện, tâm lý, hành động nhân vật, giọng điệu
trần thuật, điểm nhìn trần thuật nhất định trong tác phẩm... Tìm hiểu một tác phẩm từ
góc độ trần thuật là một biện pháp tối ưu để khám phá hình thức tổ chức sinh động và
phức tạp của nó để từ đó tiếp cận phong cách nghệ thuật của nhà văn.
1.2. Nằm trong dòng chảy đổi mới văn học từ sau năm 1986, tiểu thuyết Việt
Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, minh chứng cho sức sống mãnh liệt
của thể loại. Người cầm bút phải đối diện với những yêu cầu bức thiết của thời đại “thời của tiểu thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp): “Mỗi nhà tiểu thuyết, mỗi cuốn tiểu
thuyết phải sáng tạo ra một hình thức riêng. Không tôn trọng những hình thức bất
biến, mỗi cuốn sách mới cần xây dựng cho mình những quy luật vận động đồng thời
sản sinh ra sự diệt vong của chúng” (Alain Robbe Grillet). Cũng từ đây, tiếu thuyết
đã trở thành nhân vật quan trọng bậc nhất trên sân khấu văn học Việt Nam hiện đại.
Từ sau năm 1986, tiểu thuyết Việt Nam đã dung nạp vào bản thân nó những
yếu tố của chủ nghĩa hậu hiện đại: sự xáo trộn giữa hư và thực, giữa cái huyền bí
siêu nhiên với đời thường; tính chất hỗn loạn và sự bất ổn của trật tự đời sống;
những kiểu cấu trúc mới: mảnh vỡ tự sự, liên văn bản, gián cách, không gian, thời
gian huyền ảo,... Các yếu tố này đã được các nhà tiểu thuyết đương đại Việt Nam
tiếp nhận và sáng tạo, góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng một diện mạo mới
cho nền văn học nước nhà.
Cũng như các cây bút văn xuôi khác trên văn đàn đương đại Việt Nam như:
Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Dương Thu Hương, Nguyễn Việt Hà, Bảo Ninh,...
Nguyễn Bình Phương đã có những nỗ lực tìm hướng đi mới cho tiểu thuyết. Với
quan niệm “Nghệ thuật tiêu thuyết, ở một chừng mực nào đỏ, là nghệ thuật của một
1
sự nối kết các điêm chính với nhau chứ khống phải sự nhân nại đi theo lộ trình tuần
tự, đều đặn của thời gian và sự kiện ”, Nguyễn Bình Phương đã viết trong sự trôi dạt
cảm xúc, đào sâu vào miền vô thức của con người. Tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương có những khác lạ về kết cấu, cách xây dựng nhân vật,... và đặc biệt là ở tổ
chức trần thuật.
1.3.
Với thể loại tiểu thuyết, tô chức trần thuật, có thể xem là một trong những
yếu tố quan trọng nhất trong phương thức khai thác đời sống của nhà văn. Trần thuật
chi phối mạnh mẽ mạch vận động của tác phấm, cùng bố cục, kết cấu tác phấm, cho
ta thấy vị trí, góc nhìn của người trần thuật và mọi diễn biến tâm lí, hành động nhân
vật, diễn biến cốt truyện... Nó cũng chính là yếu tố cơ bản thể hiện ý thức cách tân
thế loại của nhà văn. Bởi vậy, tô chức trần thuật được nhiều nhà phê bình tập trung
nghiên cứu và trở thành con đường để giải mã giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác
phẩm. Bàn về tầm quan trọng của trần thuật, G. N. Pospelov - nhà nghiên cứu văn
học người Nga, đã cho rằng: “Đóng vai trò quyết định trong loại tác phâm tự sự là
trần thuật” [16, tr.66].
Trong các gương mặt tiểu thuyết Việt Nam đương đại, bạn đọc đã khá quen
thuộc với nhà văn Nguyễn Bình Phương. Nguyễn Bình Phương là một cây bút đã có
nhiều thể nghiệm độc đáo, gặt hái được nhiều thành công trên cả hai phương diện nội
dung và hình thức nghệ thuật, góp phần vào công cuộc đổi mới tiểu thuyết Việt Nam
đương đại. Tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du, Nguyễn Bình Phương bắt đầu vào
nghề từ năm 1986. Những nỗ lực đổi mới, cách tân của nhà văn được ghi nhận qua một
loạt những tiếu thuyết: Vào cõi (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vẳng
(1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỳ thủy (2004), Ngồi (2006). Đó đều là những tác
phẩm thể hiện một lối viết rất mới lạ, mở ra một hướng tiếp cận mới cho bạn đọc.
Thoạt kỳ thủy là một trong những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu đã góp phần tạo
nên vị trí và những đánh giá cao của giới nghiên cứu, của bạn đọc dành cho Nguyễn
Bình Phương. Đây là một tiểu thuyết có dung lượng ngắn nhưng đằng sau số lượng
câu chữ không nhiều ấy chất chứa bao bí ấn, huyễn hoặc, thậm chí khó hiếu đối với
bạn đọc. Nhà phê bình Thụy Khuê trong bài viết: “Thoạt kỳ thủy trong vùng đất
2
Cậm Cam hoang vu của Nguyên Bình Phương” đã nhận xét: “Thoạt kỳ thủy là một
cuốn tiêu thuyết khác thường, khó đọc, bởi lối hành văn và cẩu trúc truyện rất lạ,
một thứ “thoạt kỳ th ủ y ” trong văn chương mang dấu ấn sáng tạ o ”. Quả vậy, trong
tiểu thuyết này, Nguyễn Bình Phương đã thể hiện tài năng của một nét bút đầy biến
hóa, đào sâu vào miền vô thức của con người bằng một nghệ thuật trần thuật linh
hoạt và sáng tạo.
1.4.
Khẳng định vai trò quan trọng của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết,
tác giả khóa luận sẽ đi sâu tìm hiếu vấn đề này qua việc lựa chọn đề tài: “Tô chức
trần thuật trong tiêu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyên Bình Phương”. Thực hiện đề
tài này, tác giả khóa luận muốn cập nhât thông tin trong nhà trường ĐHSP về một
hiện tượng văn xuôi đang được đông đảo bạn đọc quan tâm và qua đó góp phần khắc
phục một phần sự chia cắt giữa văn học nhà trường với đời sống văn học đương đại
phức tạp luôn đặt ra nhiều thách thức mới cho người nghiên cứu. Đồng thời, thực
hiện đề tài này cũng là dịp để người viết học tập, rèn luyện, trau dồi kĩ năng nghiên
cứu cả về thao tác lẫn thư duy trong phân tích tác phẩm văn học, từ đó, góp phần
phục vụ đắc lực cho công việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu văn học sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Bình Phương xuất hiện trên văn đàn với tư cách không chỉ là một
nhà thơ, mà ông còn là một nhà văn tài năng ở các thể loại như: truyện ngắn, tản
văn,... và đặc biệt đáng chú ý ở lĩnh vực tiêu thuyết. Chính ở địa hạt tiểu thuyết mà
tên tuổi của nhà văn trở nên quen thuộc trong đời sống văn học Việt Nam đương
đại. Sáng tác của Nguyễn Bình Phương ngay từ khi ra đời đã gây xôn xao dư luận
và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu khoa học.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyễn Bình Phương
Các bài báo viết về Nguyễn Bình Phương khá nhiều từ báo mạng đến báo
viết, chẳng hạn được giới thiệu qua các báo: Pháp luật, Văn hóa, Văn nghệ trẻ,...;
trên các trang Webside: http://www.evan.com.vn; http://www.tienve.org;...; bên
cạnh đó còn có các bài báo cáo khoa học, luận văn tốt nghiệp đại học, luận văn cao
học Ngữ văn...
3
Trong số các bài báo viết về Nguyễn Bình Phương, đáng chú ý ta có thế kế
đến như: Một sổ đặc điêm nôi bật trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương, bài của
tác giả Trương Thị Ngọc Hân được đăng tải trên webside http://www.tienve.org.
Bài viết đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Bình
Phương: cách lựa chọn hiện thực là những mảng tự sự phân mảnh, sử dụng kết cấu
xoắn ghép nhiều mạch truyện song song, sử dụng đan cài các yếu tố kỳ ảo... Đánh
giá của tác giả bài viết sẽ là những gợi ý quan trọng cho người nghiên cứu sau này.
Hay có thể kể đến bài báo của tác giả Phạm Xuân Thạch đăng trên báo Văn nghệ số
ra ngày 25/11/2006 cho rằng Ngồi “là một tiểu thuyết bắt người ta suy nghĩ và làm
điều ấy, nó xứng đáng là một tiểu thuyết và là một tiểu thuyết xuất sắc”.
Đoàn Minh Tâm trên báo Văn nghệ trẻ số ra ngày 14/1/2007 với bài:
“Những đặc trưng của bút pháp huyền ảo trong tiêu thuyết N g ồ i” đã khái quát bút
pháp của Nguyễn Bình Phương trong tiểu thuyết này ở ba dạng: bút pháp huyền ảo
phi lí của Kafka, bút pháp huyền ảo siêu nhiên và huyền ảo tâm lí. Qua đó giúp
chúng ta thấy được những ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tự nhiên,
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đậm nét trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương nói
riêng và trong sáng tác văn chương nói chung.
Trên Webside http://chimviet.fr.free và trên trang web cá nhân của Thụy
Khuê (http://thuykhe.fr.free) cũng đã đăng tải khá nhiều các bài nghiên cứu về tiếu
thuyết của Nguyễn Bình Phương như: Những yếu tổ tiểu thuyết mới trong tác phâm
Trí nhớ suy tàn, Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiêu thuyết Những đứa trẻ
chết già, Tính chất hiện thực linh ảo âm dương trong tiêu thuyết Người đi vẳng,
Những đặc trưng của bút pháp huyền ảo trong tiêu thuyết Ngoi,... Những bài viết
này đã chỉ ra nét nổi bật nhất trong từng tác phẩm của Nguyễn Bình Phương. Mỗi
bài viết là những nhận xét, đánh giá xác đáng, là những phát hiện có tính chất gợi
mở cho những người nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương.
Một số bài viết đã đưa ra nhận định chung hoặc tìm hiểu những nét độc đáo ở
các phương diện khác nhau như: hiện thực, vô thức, ý thức, bản năng, tâm linh, giấc
mơ,... trong từng tiểu thuyết cụ thể của Nguyễn Bình Phương như:
4
Tác giả Nguyễn Chí Hoan có bài: “Những hành trình qua trổng rỗng” đã
quan tâm đến vấn đề kĩ thuật trong tiểu thuyết Ngồi ở lối kết cấu lập thể, kết cấu thời
gian đồng nhận, lối hành văn với sự giản yếu của các câu văn. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh
Hùng với bài: “Người đi vẳng, ai đọc Nguyên Bình Phương? Hay nôi cô đơn của tiêu
thuyết cuối thế k ỷ ” đã có phát hiện “nhân vật của Nguyễn Bình Phương giấu kín
những ám ảnh của mình và sống với nó”. Tác giả Phùng Gia Thế cũng có sự quan
tâm đáng kể đến tiểu thuyết của Nguyễ Bình Phương với các bài tiêu biểu như: “Cảm
nhận tiêu thuyết Nguyên Bình Phương”, “Cảm quan đời sông và những cách tân
nghệ thuật trong tiều thuyêt Nguyên Bình Phương”, “Những dấu hiệu hậu hiện đại
trong tiêu thuyết Nguyễn Bình Phương”. Ngoài ra có thể kể đến tác giả Hoàng
Nguyên Vũ với bài: “Một lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương”; Đoàn cầm Thi với
“Người đàn bà nam: từ “Thiếu nữ ngủ ngày”, đọc “Người đi vẳ ng” của Nguyên
Bình Phương”', “Nghệ thuật tự sự trong tiêu thuyết của Nguyên Bình Phương” của
Hoàng Thùy Linh; “Tiêu thuyết hiện đại - Sự hội ngộ các tư duy tiêu thuyết hiện đại
trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương” của Nguyễn Phước Bảo Nhân;...
Là một cây bút trẻ trên văn đàn văn học Việt Nam đương đại nhưng Nguyễn
Bình Phương đã sớm tạo ra một sức hút đối với các sinh viên chuyên ngành, những
bạn đọc chuyên nghiệp, những nhà nghiên cứu,... Có thể kể đến luận văn thạc sĩ của
Hồ Thị Bích Ngọc với đề tài “Nguyên Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thê
loại đê hiện đại hóa tiểu thuyết”, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2008. Hay
các luận văn như: “Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiêu thuyết Nguyên
Bình Phương” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền khoa Văn học, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn; “Những cách tân nghệ thuật trong tiêu thuyết của
Nguyễn Bình Phương” của Vũ Thị Phương; Nguyễn Thị Phương Diệp với khóa
luận tốt nghiệp “Yeu tố kì ảo trong tiêu thuyết Nguyễn Bình Phương” và luận văn
thạc sĩ “Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phư ơng”... tất cả đều đi sâu khai thác
những đổi mới, cách tân sáng tạo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Ngoài ra, có rất nhiều công trình khoa học không lấy tiêu thuyết của Nguyễn
Bình Phương làm đối tượng nghiên cứu duy nhất nhưng nhìn chung, đa số các công
5
trình nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn từ cuối những năm 90 của thế kỉ
trước đến những năm đầu thế kỉ XXI đều ít nhiều khảo sát các tiểu thuyết của nhà
văn này. Chẳng hạn, Hoàng c ẩ m Giang trong luận văn thạc sĩ (Đại học Quốc gia
Hà Nội): “Cấu trúc thê loại tiêu thuyết Việt Nam đầu thê kỷ X X I ” đã phát hiện ra
kiểu nhân vật ký hiệu - biếu tượng, nhân vật biến mất trong tiếu thuyết Nguyễn
Bình Phương; Phùng Phương Nga với ‘'Nhận diện thi pháp thê loại tiêu thuyết mới
ở Việt Nam sau 1 9 9 0 “Những cách tân nghệ thuật trong tiêu thuyết Việt Nam
đương đại (giai đoạn 1986 - 2006)” của Mai Hải Oanh; “Tiêu thuyết Việt Nam
những năm đầu thế k ỉ X X I ” của Cao Thị Hà; Bùi Thanh Truyền “Yeu to kì ảo trong
văn xuôi đương đại Việt N a m ”;... Tất cả đều khảo sát tương đối nhiều trên tác
phẩm của Nguyễn Bình Phương. Điều đó cho thấy những ảnh hưởng đậm nét của
Nguyễn Bình Phương đối với văn học đương đại.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tiếu thuyết “Thoạt kỳ thủy ” của Nguyễn Bình Phương
Là một trong số những tiểu thuyết tiêu biểu của Nguyễn Bình Phương, Thoạt
kỳ thủy đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học, đáng chú
ý nhất có thể kể đến một số công trình như:
Nhà phê bình Thụy Khuê trong bài “Thoạt kì thủy trong vùng đẩt Cậm Cam
hoang vu của Nguyễn Bình P hương” đã nêu lên cảm nhận của mình về mặt nội
dung và hình thức của cuốn tiểu thuyết, v ề nội dung: “Thoạt kỳ thủy là một bài thơ
đâm máu và nước mat, đẫm tang thương, đẩy huyên hoặc, viết về hành trình của
một cộng đổng, dù đã nửa phẩn điên loạn, vân không biết mình đang đi dần đên
toàn phần điên lo ạn”, v ề hình thức nghệ thuật: ‘‘Thoạt kỳ thủy là cuốn tiêu thuyết
khác thường, khó đọc bởi loi hành văn và cấu trúc truyện rat lạ... Đây không phải
là trang viết truyền thống vì vậy cần cách đọc không truyền thong. Những yếu tổ
vừa kịch, vừa phi kịch, vừa thơ, vừa phi thơ là những mẩu chốt cẩu trúc tiêu
thuyết”. Với Thoạt kỳ thủy, Thụy Khuê cho rằng cần tập trung khám phá sự giao
thoa của các thể loại kịch, thơ, tiểu thuyết trong tác phẩm này.
Đoàn Cầm Thi trong bài “Sảng tạo vãn học: giữa mơ và điên (Đọc Thoạt kỳ
thủy của Nguyễn Bình Phương) ” đã đưa ra những bình luận sâu sắc về đời sống bản
6
năng vô thức trong tiểu thuyết của nhà văn. Bà cho rằng: “Vô thức chiếm vị trí
trọng tâm trong Thoạt kỳ thủy, được diên tả trong một văn phong chậm, ngắn,
chính xác, phản ánh một tư duy đang khảo sát, chiêm nghiêm. Đặc biệt, nó được
xem xét trong môi quan hệ với điên và mộng, là hai trạng thái trong đó vô thức hoạt
động tích cực nhất, và lại khá gần nhau”.
Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “cấ p độ hiện thực và sự hão huyền của ý
thức trong Thoạt kỳ thủ y” đã khắng định “Nguyên Bình Phương là nhà văn Việt
Nam đã đấy cuộc thăm dò vô thức đi xa n h ấ t”. Trên tạp chí Nghiên cứu vãn học, tác
giả Đoàn Ánh Dương có bài: “Nguyên Bình Phương - Lục đầu giang tiêu thuyết”,
tác giả đã đánh giá cao Thoạt kỳ thủy và xem tác phấm “xứng đáng được coi là đỉnh
cao nhât, sự hội tụ trọn vẹn và sung mãn của bút lực tiêu thuyết Nguyên Bình
Phương”. Bài viết có khen có chê và có những đánh giá khá khách quan về tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương. Tác giả Hoàng Đăng Khoa có bài '‘Cõi nhân sinh nhàu
nát trong Thoạt kỳ thủy của Nguyên Bình Phương” đã nhận định: “Thoạt kỳ thủy là
thê giới của những con người vô trách nhiệm, u tối bản năng với những dục vọng
không được kiềm chế, bung phát thành những hành động phi lỉ trí, phỉ nhân tỉnh...
Hay trong bài tiếu luận “Thử khai mở kiến trúc hậu hiện đại trong tiêu thuyết Thoạt
kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương”, Hoàng Đăng Khoa cũng đã đưa ra phát hiện:
“Với Thoạt kì thủy, bằng loi viết “đa thanh”, Nguyên Bình Phương còn đê cho
nhân vật của mình hon nhiên giải thiêng, hạ bệ những gì mà nhiều người nhẩm
tưởng là thiêng liêng, cao q u ỷ ”. Tạp chí Sông Hương - số 307 (T.09-14) cũng đăng
tải bài viết của Phạm Tấn Xuân Cao “Thoạt kỳ thủy dưới góc nhìn tâm thức hiện
sinh ” với nhận định: “Thoạt kì thủy là một hành trình của sự đày đọa, nhưng nó
cũng có thê lại là một hành trình đê thức tỉnh những con người, những thân phận rẻ
rung tránh sa vào chon ải hoang vu bất tận của nhân quan
Hoàng Thị Quỳnh Nga trong Báo cáo khoa học năm 2004, đã tìm hiểu
phương diện “Lời câm của nhân vật Tính trong tiêu thuyết Thoạt kỳ thủ y”. Nội
dung lời câm của nhân vật chính là những ám ảnh của bạo lực, cái chết, của máu và
của trăng. Hình thức của lời câm là ngôn ngữ chắp dính, sự phá vỡ quan hệ logic
7
giữa các câu: câu ngắn, câu đặc biệt, câu bị khuyết thành phần hoặc không theo một
trật tự nào...
Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu trên, các nhà phê bình đã chỉ ra
giá trị tác phẩm Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, những đổi mới cách tân
của ông đối với tiểu thuyết đương đại Việt Nam, trong đó, ít nhiều đã động chạm
đến nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của ông. Tuy nhiên, chưa có một công
trình nào tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật trong tiêu thuyết Thoạt kỳ thủy của
Nguyễn Bình Phương một cách toàn diện, triệt đế với tư cách một yếu tố cấu trúc.
Bởi lẽ đó, trên cơ sở gợi ý của những người đi trước, tác giả khóa luận muốn đi sâu tìm
hiêu “Tô chức trần thuật trong tiêu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyên Bình Phương” đế
có thể hiêu sâu hơn những tìm tòi cách tân nghệ thuật của nhà văn đối với văn học
đương đại Việt Nam; đồng thời bổ sung thêm những vấn đề còn bỏ ngỏ, tù’ đó đề xuất
một hướng tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Bình Phương từ phương diện trần thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả khóa luận hướng đến mục đích phát hiện ra nét
đặc sắc trong tổ chức trần thuật của tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy, thấy được nghệ thuật
kể chuyện của tác phẩm. Đồng thời thấy được những tìm tòi, cách tân sáng tạo
trong lối viết của Nguyễn Bình Phương và khẳng định những đóng góp quan trọng
của nhà văn trên con đường cách tân tiểu thuyết Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Tìm hiêu những lí luận cơ bản vê tô chức trân thuật trong tác phâm tự
sự nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng.
3.2.2. Chỉ ra những nét độc đáo trong nghệ thuật trần thuật và hiệu quả nghệ
thuật của những sáng tạo đó đối với việc biêu đạt nội dung của tác phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức trần thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương do Nhà xuất bản Hội
Nhà văn ấn hành năm 2004.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận sử dụng những phương pháp chính sau:
5.1. Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống
5.2. Phương pháp lịch sử - phát sinh
5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp
5.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu
6. Đóng góp cùa khóa luận
Khóa luận đi sâu khám phá tiểu thuyết từ phương diện trần thuật nhằm hệ
thống hóa kiến thức về tổ chức trần thuật với tư cách một thuật ngữ khoa học; nêu
bật những đặc điếm của tô chức trần thuật trong tiêu thuyết Thoạt kỳ thủy của
Nguyễn Bình Phương; đồng thời, chỉ ra vai trò quan trọng của trần thuật đối với
việc hình thành cá tính sáng tạo của Nguyễn Bình Phương.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa
luận được triển khai cụ thể thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về trần thuật học.
Chương 2: Người kể chuyện và điêm nhìn trần thuật trong tiêu thuyết Thoạt
kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương.
Chương 3: Phương thức và kĩ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy
của Nguyễn Bình Phương.
9
NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÈ TRẰN THUẬT HỌC
1.1. Khái niệm trần thuật
Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của loại tác phẩm tự sự,
đặc biệt là tiểu thuyết. Trần thuật là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra tính hấp dẫn, tạo ra cái “ma lực” của tác phấm ngôn từ vừa ở chiều
sâu, vừa ở mặt cụ thể cảm tính. Xét về mặt thuật ngữ, trần thuật là yếu tố được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra những cách hiểu khác nhau. Có thể kể đến
một số ý kiến tiêu biểu:
Theo Từ điến thuật ngữ vãn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn
Khắc Phi (đồng chủ biên): Trần thuật là ‘'Phương diện cơ bản của phương thức tự
sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyêt minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn
cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định. Vai trò của trần
thuật rất lớn ” [7, tr. 364].
GS. Trần Đình Sử trong cuốn giáo trình Lí uận văn học, tập 2 cũng đưa ra
khái niệm trần thuật: “Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kê, thuật, miêu tả sự kiện,
nhân vật theo một thứ tự nhất định ” [19, tr. 59].
Lại Nguyên Ân trong bài “về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành
nghiên cứu văn học ở Việt N a m ” cho rằng: “Trần thuật (narration) chỉ phương
thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc loại văn học tự sự (tương tự
trầm tư/ meditation/ đặc trưng cho văn học trữ tình, đối thoại đặc trưng cho vãn
học kịch) (...) Thực chất hoạt động trần thuật là kê, là thuật, là cải được kê, được
thuật, trong tác phâm văn học là chuyện” [2, tr. 146 - 147].
Hay trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân cũng đưa ra
khái niệm trần thuật: “Trần thuật là phương thức chủ yếu đê cẩu tạo các tác phấm
tự sự hay của người kê chuyện, tức là toàn bộ văn bản tác phâm tự sự, ngoại trừ lời
nói trực tiếp của các nhân vậ t” [1, tr. 325].
Cùng với quan điểm này là định nghĩa trong Giáo trình Lí luận văn học do
GS. Phương Lựu chủ biên đã đưa ra cách hiểu về khái niệm trần thuật tương đối
10
thống nhất với cách hiếu trên: “Trần thuật là kê, thuyết minh, giới thiệu về nhân
vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kê, thuật, miêu
tả sự kiện, nhân vật theo một trình tự nhất định ” [13, tr. 19].
Trần thuật (narration), xét về mặt thuật ngữ, còn có tên gọi khác là kê chuyện
hay tự sự. Gắn với những cách gọi này có một số quan điểm như sau:
Nhà giải cấu trúc người Mĩ, J.H. Miller đã nói: “Tự sự là cách đê ta đưa các
sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ây mà chủng ta có được ỷ nghĩa. Tự sự là cách
tạo nghĩa cho sự kiện, biến c o ” [17, tr.12].
Khi bàn về kể chuyện, J.Linvelt cũng cho rằng: “Ke là một hành vỉ trần
thuật, và theo nghĩa rộng là cả một tình thê hư câu bao gồm cả người trần thuật và
người kể... ” [21, tr. 31 - 32].
Trong bài “Các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX nói về văn tự s ự ”,
Nguyễn Nghĩa Trọng đã đưa ra nhận xét: “Theo quan niệm xa xưa, ở Trung Quốc,
Việt Nam, tự sự là phô bày sự thực, miêu tả trực tiêp một đối tượng nào đó (sự việc,
cảnh tượng, tình cảm...) bằng văn th ơ ” [14, tr. 306].
Tóm lại, từ những quan điểm trên, chúng ta nhận thấy: Trần thuật thực chất
là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật theo một thứ tự nhất định,
một cách nhìn nào đó. Đây là yếu tố được sử dụng phô biến trong các loại thế văn
học, song ở loại tác phẩm tự sự, nó trở thành một tiêu điểm, một nguyên tắc chủ yếu
để xây dựng thế giới nghệ thuật. Nó không chỉ là yếu tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện
mà còn là bản thân của câu chuyện. Khi cốt truyện không còn đóng vai trò nòng cốt,
nhân vật bị xóa mờ đường viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khóa mở ra những
cánh cửa của tác phẩm.
Bên cạnh đó, thực tiễn văn học cũng cho thấy, nghệ thuật trần thuật là một
trong những yếu tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Đối với người
nghệ sĩ tài năng, nghệ thuật trần thuật ở mỗi tác phẩm luôn có sự tìm tòi và biến hóa
linh hoạt. Sáng tạo văn học luôn đồng hành với sự sáng tạo “khơi những nguồn
chưa ai khơi và sảng tạo những gì chưa c ó ” (Nam Cao). Sự thành công về phương
diện trần thuật là yếu tố kết đọng tài nghệ của mỗi người cầm bút. Bởi vậy, tìm hiểu
11
các phương diện trần thuật sẽ giúp người đọc tiếp cận được với những giá trị văn
chương đích thực cũng như khẳng định được tài năng và những đóng góp của nhà
văn vào tiến trình văn chương.
1.2. Các yếu tố cơ bản của trần thuật
Bàn về các yếu tố cơ bản của tổ chức trần thuật, GS. Trần Đình Sử cho rằng
trần thuật gồm sáu yếu tố cơ bản: người kể chuyện, ngôi trần thuật và vai trần thuật;
điểm nhìn trần thuật; lược thuật; miêu tả chân dung và dựng cảnh; phân tích; bình
luận; giọng điệu.
Theo chúng tôi, trần thuật, trước hết đòi hỏi phải có người kể. Chủ thể của
hoạt động kể phải xử lí tốt mối quan hệ giữa chuỗi lời kế với chuỗi các sự kiện và
nhân vật. Như vậy, có hai nhân tố quy định tới trần thuật là: người kế chuyện và
chuỗi ngôn từ.Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật; điểm nhìn trần thuật. Từ
chuỗi ngôn từ ta có ngôn ngữ trần thuật; giọng điệu trần thuật; không gian, thời gian
trần thuật... Sau đây, khóa luận sẽ đi tìm hiêu một số yếu tố tiêu biêu thuộc nghệ
thuật trần thuật trong tác phẩm của Nguyễ Bình Phương.
1.2.1. Ngưòi kế chuyện và ngôi trần thuật
Trần thuật đòi hỏi phải có người kể hay nói đúng hơn người trần thuật là vấn
đề quan trọng, then chốt của tác phẩm tự sự vì không có tác phẩm tự sự nào lại
không có người kế chuyện. Nhà nghiên cứu T. z . Todozov đã khẳng định: “Người
kê chuyện là yếu tố tích cực trong việc tạo ra thế giới tưởng tượng... không thê có
trần thuật mà thiếu người kể chuyện
Quan điểm này đã góp phần khẳng định vai
trò của hình thức kế chuyện trong nghệ thuật trần thuật.
Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp
văn xuôi hiện đại, cũng là vấn đề xuất hiện ngay từ đầu thế kỉ XX ở Nga và sau
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Do phạm vi đề tài, ở đây, chúng tôi chỉ tập
hợp một số ý kiến đánh giá tiêu biểu:
Theo G. N. Pospelov thì người kể chuyện là “người môi giới giữa các hiện
thực được miêu tả và người nghe (người đọc), là người chứng kiến, cẳt nghĩa các
sự việc xảy ra ” [16, tr. 196].
12
Với Todorov thì người kể chuyện không chỉ là người kể mà còn là người
định giá “Người kê chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư
cẩu. Chính người kê chuyên là hiện thân của những khuynh hướng mang tính xét
đoán và đảnh giả ” [23, tr. 197].
Phùng Văn Tửu cho rằng: “Nói đến người kê chuyện là nói đến điêm nhìn
được xác định trong hệ đa phương, không gian, thời gian, tâm lí, tạo thành góc
nhìn... [22, tr. 206].
Theo các tác giả Từ điên thuật ngữ vãn học, người kế chuyện “là hình tượng
ước lệ về người trần thuật trong tác phâm văn học, chỉ xuât hiện khi nào câu chuyện
được kê bởi một nhân vật cụ thê trong tác phâm. Đó có thê là hình tượng của chính
tác giả (ví dụ: “tô i” trong Đôi mắt), dĩ nhiên không nên đổng nhât hoàn toàn với tác
giả ngoài đời; có thê là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra (ví dụ: người
điên trong Nhật kỉ người điên của Lô Tấn); có thê là một người biết một câu chuyện
nào đó. Một tác phâm có thê có một hoặc nhiều người kê chuyện... [7, tr. 221].
Qua một số ý kiến bàn về người kể chuyện ở trên, chúng tôi nhận thấy, người
kể chuyện, hiểu một cách đơn giản, là một người được nhà văn sáng tạo ra để thực
hiện hành vi trần thuật. Khi sáng tạo, nhà văn giống như người chép hộ lời lẽ của
người trần thuật do mình tạo ra và “Người đó chẳng bao giờ hoàn toàn là chính bản
thân tác g iả ” (M. Buy-tô).
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn trình bày, tái hiện một cách sáng tạo thế giới
hiện thực thông qua lời kể, lời miêu tả,... của một người trần thuật nào đó. v ề mặt
bản chất, người kể chuyện chính là hình tượng do nhà văn sáng tạo nên, mang nhiệm
vụ trần thuật và chỉ im lặng khi nhân vật lên tiếng. Người kê chuyện có thể mang tư
tưởng của nhà văn, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của người nghệ sĩ về thế giới
khách quan nhưng tuyệt đối không bao giờ được đồng nhất hai khái niệm này.
Người kể chuyện trong tác phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó không
chỉ môi giới, dẫn dắt bạn đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật mà còn có chức năng tổ
chức, sắp xếp các sự kiện trong tác phấm. Bởi vậy, người kế chuyện là sản phẩm
của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác hoàn toàn với người kể chuyện thực tế
13
trong đời sống. Khi nhà văn lựa chọn dạng thức xuất hiện của người kể chuyện trong
tác phẩm tự sự cũng là cách để nhà văn thể hiện ý đồ sáng tác. Có khá nhiều nhà lí
luận tập trung vào việc nghiên cứu phạm trù người kê chuyện trong tự sự như R.
Scholes, R. Kellogg, Bakhtin, w. Booth,... Họ đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về
cách phân loại người kế chuyện. Hai nhà nghiên cứu R. Scholes và R. Kellogg cho
rằng phải đặt người kể chuyện trong mối quan hệ với thế giới được kể, với các sự
kiện và nhân vật được kể. Từ đó hai ông phân loại người kế chuyện ra làm bốn kiếu
là người kể chuyện truyền thống, sử quan, người kể chuyện nhân chứng và người kể
chuyện toàn tri. Cách phân loại này cho ta thấy các nhà nghiên cứu đã đặt người kể
chuyện trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học từ cổ đại đến hiện đại và đặc
biệt chú ý đến cấp độ giao tiếp. Đáng chú ý hơn cả là các công trình nghiên cứu của
G. Genette đã phân biệt người kể chuyện thành ba kiểu cơ bản: người kể chuyện toàn
tri, người kế chuyện bên trong và người kể chuyện bên ngoài. Ngoài ra, căn cứ vào vị
trí của người kể chuyện trong tác phẩm, ta có: người kê chuyện ở ngôi thứ nhất,
người kể chuyện ở ngôi thứ hai và người kể chuyện ở ngôi thứ ba...
Hình tượng người kể chuyện gắn với ngôi kể đem lại cho tác phẩm cái nhìn,
và sự đánh giá bổ sung về mặt tư tưởng, lập trường, thái độ, tình cảm cho cái nhìn
tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo lại con người và cuộc sống trong tác phẩm
thêm phong phú. Đúng như M. Bakhtin đã nhận định: “Ta đoản định âm sắc tác giả
qua đổi tượng của câu chuyện kê, cũng như qua chỉnh câu chuyện và hình tượng
người kê bộc lộ trong quá trình kê
1.2.2. Điếm nhìn trần thuật
Điểm nhìn (point of view) là một trong những vấn đề cơ bản, then chốt của
trần thuật. Điểm nhìn được hiểu là vị trí, chỗ đứng của người kể chuyện đế xem xét,
bình luận, miêu tả các sự việc, hiện tượng trong tác phẩm. Có nhiều người đề xuất
cách gọi điểm nhìn là nhãn quan (vision), điểm quan sát (post of observation), tiêu
cự trần thuật (focus of narrative),... nhưng theo chúng tôi, dùng khái niệm điểm
nhìn là là phù hợp hơn cả vì điểm nhìn còn thể hiện lập trường tư tưởng của nhà
văn. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê
14
cung của văn bản ngôn từ. Truyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định
và bởi một người kể chuyện nào đó.
Điểm nhìn có mối quan hệ chặt chẽ với người kể chuyện, vì vậy nó cũng thê
hiện thái độ, cách đánh giá cũng như phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn. Theo
Iu. Lotman “hiếm có yêu tố nào lại liên quan trực tiêp đên việc xây dựng bức tranh
thế giới như “điêm nhìn nghệ thuật””. Manfred Jahn khăng định: “Ve mặt chức
năng, điêm nhìn mang ỷ nghĩa của sự lựa chọn và giới hạn thông tin trần thuật, của
việc nhìn các sự kiện và câu trúc của các sự kiện từ điêm nhìn của một người nào đó
và của việc tạo ra cải nhìn đổng cảm hoặc mỉa mai ở người quan s á t” [9, tr. 41]. Các
tác giả của công trình Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu
văn học ở Tây All và Hoa Kì thế kỉ XX thì cho rằng: điếm nhìn là một khái niệm đế
"mô tả cách thức tồn tại của tác phâm như một hành vi mang tính bản thê hoặc một
cẩu trúc hoàn chỉnh tự trị đổi với thực tại và đối với cá nhân nhà văn ”. Còn Henry
James trong Nghệ thuật văn xuôi (1884) lại cho rằng: “Điêm nhìn trần thuật là sự
lựa chọn cự ly trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự
kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc
sổng hơn ” [12, tr. 14].
Như vậy, theo quan điểm của các học giả nước ngoài thì điểm nhìn được
hiểu như một phạm trù hình thức độc lập, không phụ thuộc vào thực tại lịch sử cũng
như chủ thể sáng tạo văn bản.
Một số nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đưa ra những cách hiểu về điểm nhìn
nghệ thuật. Theo Nguyễn Thái Hòa thì: “Điêm nhìn nghệ thuật là điêm xuất phát
của một cấu trúc nghệ thuật, hơn thê nữa là cấu trúc tiềm ân được người đọc tiếp
nhận bằng thao tác suy ý từ các moi quan hệ giữa người kê và văn bản, giữa văn
bản và người đọc văn bản, giữa người kê và người đọc hàm â n ” [8, tr. 96]. Nhận
thấy vai trò đặc biệt của điểm nhìn trần thuật, nhà lý luận Phương Lựu đã nhấn
mạnh: “Nghệ sỹ không thê miêu tả, trần thuật các sự kiện của đời song nêu không
xác định cho mình một điêm nhìn đôi với sự vật, hiện tượng, nhìn từ góc độ nào, xa
hay gần, cao hay thâp, từ bên trong hay bên ngoài” [13, tr. 12], bởi sự trần thuật
15
- Xem thêm -