MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. KINH TẾ DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM .......................... 4
1.1. Kinh tế du lịch ...................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm .................................................................................................... 4
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế du lịch ...................................................................... 15
1.1.3. Nội dung phát triển kinh tế du lịch và tiêu chí đánh giá .............................. 18
1.1.4. Điều kiện phát triển kinh tế du lịch ............................................................ 25
1.1.5. Xu hướng phát triển kinh tế du lịch trên thế giới.......................................... 35
1.2. Vai trò của kinh tế du lịch trong nền kinh tế nước ta hiện nay ............................. 41
1.2.1. Vai trò của kinh tế du lịch .......................................................................... 41
1.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế du lịch của Đảng và Nhà nước ............................ 45
Chương 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
DU LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI........................................................................... 48
2.1. Tiềm năng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai ............................................. 48
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ............................................. 48
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn .......................... 49
2.1.3. Đánh giá chung về tài nguyên du lịch ........................................................ 50
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai ............................................ 54
2.2.1. Thực trạng ................................................................................................. 54
2.2.2. Những tồn tại và hạn chế ........................................................................... 80
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH Ở TỈNH LÀO CAI .................................................... 85
3.1. Quan điểm phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai ............................................ 85
3.1.1. Phát triển kinh tế du lịch phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và phải được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với phát
triển du lịch liên vùng của cả nước ............................................................ 85
3.1.2. Phát triển kinh tế du lịch phải mang tính bền vững gắn với việc bảo vệ môi
trường sinh thái và môi trường xã hội. Phát triển vừa thoả mãn những nhu
cầu hiện tại mà không làm hại đến sự phát triển của các thế hệ tương lai ....... 85
3.1.3. Phát triển kinh tế du lịch phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cấp, các ngành, sự tham gia tích cực, năng động của tất cả các thành
phần kinh tế và toàn xã hội ....................................................................... 87
3.1.4. Phát triển kinh tế du lịch phải gắn với sự bảo đảm an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội; vừa tạo được môi trường an toàn, thân thiện cho du
khách, vừa giữ được sự ổn định và yên bình cho cuộc sống của nhân dân
trong vùng du lịch............................................................................................. 89
3.1.5. Du lịch phải thực sự được coi là ngành kinh tế mũi nhọn ........................... 89
3.1.6. Phải coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội trong phát triển kinh tế du lịch .............. 90
3.2. Các giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai trong thời
gian tới...................................................................................................... 90
3.2.1. Tiến hành quy hoạch chi tiết một số khu, điểm du lịch ............................... 90
3.2.2. Giải pháp về phát triển kết cấu hạ tầng ...................................................... 91
3.2.3. Giải pháp về cơ chế chính sách .................................................................. 98
3.2.4. Giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch ..................... 100
3.2.5. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng bằng cách đa
dạng hoá các hoạt động phục vụ du lịch .................................................. 104
3.2.6. Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch ..................................................... 105
3.2.7. Mở rộng nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động
phát triển kinh tế du lịch ......................................................................... 107
3.2.8. Phối kết hợp có hiệu quả các lực lượng làm du lịch trên địa bàn .................... 108
3.2.9. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực du lịch ............................................ 109
KẾT LUẬN...................................................................................................... 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 114
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 117
BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ASEAN:
Các nước Đông Nam Á
CT:
Chỉ thị
GDP:
Tổng sản phẩm quốc nội
HDV:
Hướng dẫn viên
NĐ - CP:
Nghị định Chính phủ
FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ISO:
Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
Rakou:
Ngói truyền thống kiểu bán nguyệt
TT - TCDL:
Thông tư của Tổng cục Du lịch
TW:
Trung ương
Trekking:
Loại hình du lịch đi bộ ngắm cảnh
USD:
Đô la Mỹ
WTO:
Tổ chức Du lịch thế giới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của người dân ở
nhiều nước và có xu hướng phát triển với tốc độ ngày càng nhanh. Hiện nay, du lịch
đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và chiếm vị trí hết sức quan trọng trong đời
sống kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm
năng về du lịch, nhu cầu phát triển kinh tế du lịch đang trở nên cấp thiết. Đảng và
Nhà nước ta rất coi trọng lĩnh vực kinh tế này trong đường lối và chính sách phát
triển nền kinh tế quốc dân.
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới còn khó khăn trong phát triển kinh tế
nhưng có nhiều thuận lợi về du lịch, tài nguyên du lịch đa dạng: nhiều cảnh quan tự
nhiên độc đáo, những phong tục tập quán truyền thống văn hóa đặc sắc của 25 dân
tộc anh em; hơn nữa Lào Cai còn là cửa khẩu quốc tế quan trọng giữa Việt Nam và
các tỉnh ở phía Tây Nam của Trung Quốc; Lào Cai có nhiều loại hình giao thông
vận tải đường bộ, đường sắt, đường sông thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch,
phù hợp với việc phát triển nhiều loại hình du lịch dài ngày và ngắn ngày.
Trong những năm qua, ngành kinh tế du lịch của tỉnh đã có những bước phát
triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng ngày càng cao, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, quy mô kinh tế du lịch Lào
Cai còn nhỏ hẹp, sản phẩm du lịch chưa phong phú đa dạng, tốc độ phát triển của
ngành còn chậm… Nhìn chung sự phát triển kinh tế du lịch của Lào Cai còn chưa
tương xứng với tiềm năng hiện có. Từ đó cần phải có những phân tích, đánh giá về
tiềm năng và thực trạng của du lịch Lào Cai, đề ra những giải pháp thúc đẩy phát
triển và nâng cao hiệu quả của nó trong thời gian tới. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài
“Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến vấn đề du lịch và kinh tế du lịch ở nước ta đã có những công
trình khoa học và các nhà nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn: Trần Ngọc Tư (2000)
1
“Phát triển kinh tế du lịch ở Vĩnh Phúc - tiềm năng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ
kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Đổng Ngọc Minh Vương Lôi Đình (2000), “Kinh tế du lịch và du lịch học”, Nhà xuất bản Trẻ; Hồ Viết
Chiến (2002) “Kinh tế du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện
nay”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Mai Trang (2003) “Du lịch - ngành kinh tế mũi nhọn của Khánh Hòa”, Tạp chí
Thương mại, số 30, tr.28; Bích Nhung (2003), “Để du lịch thực sự là ngành kinh tế
mũi nhọn”, Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam, số 6, tr.34 - 35; Trần
Phương (2003), “Bảo tồn văn hóa duyên hải để phát triển du lịch”, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 6, tr.41 - 44; Phạm Quang Hưng (2004), “Du lịch Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 7, tr.10, 49…
Tỉnh Lào Cai đã có một số bài viết về du lịch nhưng chưa có tác giả nào viết
về: “Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai”. Vì thế, tôi lựa chọn đề tài này là mới
mẻ, không trùng lặp với các đề tài luận văn đã có hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế du lịch dưới góc độ
kinh tế chính trị.
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả
của ngành du lịch ở Lào Cai trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: ngành kinh tế du lịch.
- Phạm vi nghiên cứu: tại tỉnh Lào Cai trong thời gian từ năm 1991 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta về du lịch và phát triển du lịch.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận.
2
+ Các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị được sử dụng trong luận
văn gồm phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng hóa, khái quát
hóa, thống kê, trong đó chú ý phân tích thực tiễn đối chiếu với lý luận.
6. Dự kiến những đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
- Một số yếu tố lý luận về kinh tế du lịch.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế du lịch ở Lào Cai.
- Một số kiến nghị về giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của
ngành kinh tế này trên địa bàn.
- Là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập và triển khai, hoạch định
những chính sách phù hợp đối với phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai và một
số địa phương có đặc điểm tương đồng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục thành 3 chương, 6 tiết:
Chương 1. Kinh tế du lịch và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh
Lào Cai.
3
Chương 1
KINH TẾ DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Kinh tế du lịch
1.1.1. Khái niệm
* Du lịch:
Trong thế giới hiện đại, du lịch đã trở thành một hoạt động kinh tế phổ biến
với tốc độ phát triển ngày càng nhanh. Hội đồng Lữ hành và du lịch thế giới (Word
Travel and Tourism Council) đã khẳng định du lịch là ngành kinh tế lớn nhất trên
thế giới. Trong phạm vi một quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất trong
kinh tế đối ngoại, là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, ngành kinh tế mũi
nhọn của nhiều nước.
Sở dĩ có xu hướng phát triển như vậy là vì du lịch đã, đang và sẽ trở thành
nhu cầu không thể thiếu, gắn liền với cuộc sống hàng ngày của hàng triệu người.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) thì "năm 2000 số lượng khách du lịch toàn
cầu là 698 triệu lượt người với doanh thu đạt được là 467 tỷ đô la Mỹ (USD); năm
2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt với doanh thu 474 tỷ USD; dự tính đến năm
2010 sẽ có khoảng 1.006 triệu lượt khách du lịch với doanh thu dự tính khoảng 900
tỷ USD" [16, tr.8].
Mặc dù hoạt động du lịch đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử và có tốc độ phát
triển ngày càng nhanh, song cho đến nay vẫn còn những nhận thức rất khác nhau về
du lịch và kinh tế du lịch. Chẳng hạn, theo các nhà nghiên cứu của Trường Đại học
Kinh tế Praha (Cộng hòa Séc): "Du lịch là tập hợp các hoạt động kỹ thuật, kinh tế
và tổ chức liên quan đến cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ngoài
nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau, loại trừ mục đích hành nghề và
viếng thăm có tổ chức thường kỳ" [16, tr.17].
Các nhà nghiên cứu của trường đại học Tổng hợp thành phố Varna, Bulgarie
nêu quan niệm: “Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội được lặp đi lặp lại đều
đặn - chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ, hàng hóa của các đơn vị kinh tế riêng
4
biệt, độc lập - đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất - kỹ thuật chuyên
môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi với mục đích thoả mãn các
nhu cầu cá thể về vật chất và tinh thần của những người lưu trú ngoài nơi ở thường
xuyên của họ để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hóa, chính
trị, kinh tế...) mà không có mục đích lao động kiếm lời” [16, tr.17-18].
Hai quan niệm trên tuy coi hiện tượng du lịch như một phạm trù kinh tế với
những đặc trưng và vai trò của một bộ máy kinh tế, kỹ thuật điều hành, nhưng chưa
tường minh, còn lặp đi, lặp lại.
Khác với các quan niệm trên, nhà nghiên cứu Michael Coltman lại cho rằng:
"Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du
lịch, bao gồm: du khách, nhà cung ứng du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi
đón khách du lịch" [16, tr.18].
Mối quan hệ đó có thể được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Du khách
Nhà cung ứng dịch
vụ du lịch
Dân cư sở tại
Chính quyền địa
phương nơi đón
khách du lịch
Tháng 6 năm 1991 tại Otawa (Canada), Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch
đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi
trường thường xuyên, trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được
các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến
hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” [16, tr.19].
Định nghĩa trên đã cho thấy: Du lịch là một hoạt động ngoài "môi trường
thường xuyên", tức là loại trừ các chuyến đi trong phạm vi nơi ở thường xuyên, các
chuyến đi có tổ chức thường xuyên hàng ngày; Thời gian thực hiện hoạt động đó
nằm trong "khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch
quy định trước", quy định này nhằm loại trừ dân di cư trong một thời gian dài; Du
5
lịch "không phải là tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm"
nghĩa là loại trừ việc hành nghề tạm thời hoặc hành nghề lâu dài.
Trên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động du lịch trên thế
giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở Khoa Du lịch
và Khách sạn - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã cho rằng: “Du lịch là
ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao
đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi
lại, lưu trú, ăn uống, thăm quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du
lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị - xã hội thiết thực cho
nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp” [16, tr.20].
Tại Điều 4, Chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005) nêu rõ: “Du lịch là các
hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định” [30, tr.2]. Thuật ngữ "Du lịch" được hiểu: "Hoạt động
du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng
đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch" [31, tr.2].
Nhìn chung, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, bao gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch không
chỉ có đặc điểm của một ngành kinh tế mà còn có đặc điểm văn hóa - xã hội. Thực
tiễn ở nhiều nước trên thế giới đã chứng minh rằng hoạt động du lịch không chỉ
đem lại lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội.
Tại Hội nghị Du lịch thế giới họp tại Manila Philippin (1980) đã ra Tuyên bố
Manila về du lịch, trong điều 2 đã khẳng định: “Trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI
và trước triển vọng của những vấn đề đang đặt ra đối với nhân loại, đã đến lúc cần
thiết và phải phân tích bản chất của du lịch, chủ yếu đi sâu vào bề rộng mà du lịch
đã đạt được kể từ khi người lao động được quyền nghỉ phép năm, đã chuyển hướng
du lịch từ một phạm vi hẹp của thú vui sang phạm vi lớn của cuộc sống kinh tế và
xã hội. Phần đóng góp của du lịch vào nền kinh tế quốc dân và thương mại quốc tế
đang làm cho nó trở thành yếu tố quan trọng cho sự phát triển của thế giới. Vai trò
thiết thực của du lịch trong hoạt động kinh tế quốc dân, trong trao đổi quốc tế và
6
trong sự cân bằng cán cân thanh toán, đang đặt du lịch vào vị trí trong số các ngành
hoạt động kinh tế thế giới quan trọng nhất” [16, tr.20-21].
* Kinh tế du lịch:
- Sự ra đời và phát triển của kinh tế du lịch: Theo dòng lịch sử, hoạt động du
lịch ban đầu chỉ mang tính chất cá nhân lẻ tẻ, dần dần nó trở nên phổ biến hơn và đa
dạng hơn về hình thức. Đi du lịch không chỉ dừng lại ở hình thức cá nhân riêng lẻ
mà tiến đến nhóm người, tập thể người, không gian du lịch đồng thời được mở rộng
ra trong phạm vi từng lãnh thổ và giữa các lãnh thổ với nhau. Yêu cầu đối với việc
tổ chức các chuyến đi ngày càng phức tạp hơn, du khách cần có các tổ chức với tư
cách là trung gian trong chuyến đi của mình để thực hiện các hoạt động như bố trí
phương tiện đi lại, chỗ ăn nghỉ, hướng dẫn thăm quan... Trước yêu cầu đó, các tổ
chức kinh doanh du lịch đã ra đời. Lúc này hoạt động du lịch không còn là hiện
tượng mang tính chất cá nhân, lẻ tẻ mà đã trở thành một hoạt động mang tính chất
kinh doanh, hoạt động kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội các
nhu cầu về nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, giao lưu văn hóa và mở mang kiến thức
của con người ngày càng tăng. Kinh tế càng phát triển, điều kiện vật chất của xã
hội ngày càng được cải thiện và các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống dần được đáp
ứng một cách đầy đủ hơn thì con người lại càng có điều kiện để thoả mãn những
nhu cầu tinh thần đó của mình. Đây là động lực thúc đẩy ngành kinh tế du lịch
phát triển. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của
ngành kinh tế du lịch không chỉ dừng ở bên giới quốc gia mà còn mở rộng ra với
quy mô toàn cầu. Mặt khác, khi điều kiện về giao thông vận tải càng đạt trình độ
cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu thuận lợi cho du khách trong di chuyển từ nơi này
đến nơi khác, sẽ là cơ hội tốt để ngành kinh tế du lịch phát triển.
- Sản phẩm kinh tế du lịch và tính đặc thù của nó: Tại Điều 4, Chương I,
Luật du lịch Việt Nam sản phẩm du lịch được hiểu "là tập hợp các dịch vụ cần thiết
để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch" [31, tr.2]; Một quan
niệm khác thì cho rằng, sản phẩm kinh tế du lịch là "các dịch vụ, hàng hóa cung cấp
cho du khách, được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã
hội với việc sử dụng các nguồn lực cơ sở vật chất - kỹ thuật và lao động tại một cơ
7
sở, một vùng hay một quốc gia nào đó" [16, tr.31]. Hai quan niệm trên cho thấy, sản
phẩm du lịch bao gồm cả yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình. Yếu tố hữu hình là
hàng hóa, còn yếu tố vô hình là dịch vụ.
Xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch,
có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau: Dịch
vụ vận chuyển; Dịch vụ ăn uống; Dịch vụ lưu trú; Dịch vụ thăm quan, giải trí; Hàng
hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm; Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng vật thể,
không thể lưu kho, lưu bãi như sản phẩm của các ngành kinh tế khác. Thành phần
chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm 80% - 90% về mặt giá trị),
hàng hóa chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch phụ thuộc
vào sự cảm nhận chủ quan của du khách chứ không phụ thuộc vào người kinh
doanh du lịch nên đây là vấn đề rất khó khăn.
Có ý kiến cho rằng: Trong lĩnh vực du lịch việc sử dụng thuật ngữ "sản phẩm
du lịch" để chỉ kết quả của của quá trình lao động du lịch là không hợp lý bằng thuật
ngữ "dịch vụ du lịch". Song, việc sử dụng thuật ngữ "sản phẩm du lịch" là hoàn toàn
chính xác bởi các lý do sau:
Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch.
Vì thế, sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, không thể đưa
sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch, mà khách du lịch phải đến nơi có sản
phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dùng sản phẩm du
lịch. Chẳng hạn, du khách muốn thăm quan núi Hàm Rồng - Sa Pa thì du khách phải
leo lên núi Hàm Rồng chứ không thể đem núi Hàm Rồng đến nơi du khách sinh
sống được. Sau khi thăm quan du khách không thể "mang" núi Hàm Rồng về được,
núi Hàm Rồng vẫn là của Sa Pa - Lào Cai. Cái mà du khách mang về là sự cảm
nhận về thiên nhiên quang cảnh núi Hàm Rồng, về con người nơi đây, về những
dịch vụ mà du khách đã sử dụng.
Sản phẩm du lịch còn có những đặc điểm vượt ra ngoài khuôn khổ khái niệm
hàng hóa thông thường. Nếu các hàng hóa thông thường sau khi bán và được người
mua sử dụng thì giá trị của nó sẽ mất dần đi, thậm chí có thể mất luôn sau lần sử
8
dụng đầu tiên. Còn giá trị của sản phẩm du lịch sẽ tồn tại trong cảm nhận và đánh
giá của khách du lịch và những giá trị này còn có thể được ghi nhận theo kênh lan
truyền từ khách du lịch này sang khách du lịch kia. Nếu chất lượng của sản phẩm du
lịch tốt thì giá trị của nó còn có thể được tăng lên qua những lần sử dụng của du
khách. Sở dĩ có hiện tượng trên, là do chúng ta bán cho khách không phải là bán
bản thân tài nguyên du lịch mà chỉ bán giá trị các khả năng thoả mãn nhu cầu đặc
trưng của khách du lịch được chứa đựng.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không thường xuyên mà có thể chỉ
tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ phận nhà
hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của chủ thể loại du lịch cuối tuần), trong năm
(đối với sản phẩm của một số loại hình du lịch như: du lịch nghỉ núi, du lịch nghỉ
biển...). Chính vì đặc tính này cho nên hoạt động du lịch mang tính thời vụ cao.
- Dịch vụ du lịch và đặc điểm của dịch vụ du lịch:
+ Dịch vụ du lịch: Trong nền kinh tế hiện đại, tỷ trọng các ngành dịch vụ trong
thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên, dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong GDP chiếm khoảng 70% đến 75%, tỷ lệ này ở Việt Nam khoảng 40%. Nghị
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã chỉ rõ: "Toàn bộ các hoạt động
dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 - 8%/năm và
đến 2010 chiếm 42 - 43% GDP, 26 - 27% tổng số lao động" [11, tr.179].
Chính vì dịch vụ có vai trò quan trọng như vậy cho nên việc nghiên cứu các
khái niệm về dịch vụ, dịch vụ du lịch, kinh tế dịch vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của ngành kinh tế du lịch.
Theo định nghĩa của ISO 9004 (1991) "Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các
hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động
của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng" [16, tr.217]. Dịch vụ
chính là kết quả của những hoạt động không được thể hiện bằng sản phẩm vật chất
mà bằng tính hữu ích và bằng giá trị kinh tế của chúng.
Tại Điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam khái niệm dịch vụ du lịch được
hiểu như sau: "Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển,
9
lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch" [31, tr.2].
Trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, dịch vụ du lịch có thể được
hiểu là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng
du lịch, khách du lịch và thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch, đồng thời mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng du lịch.
+ Đặc điểm của dịch vụ du lịch:
Thứ nhất, tính phi vật chất. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du
lịch. Tính phi vật chất làm cho du khách không thể sử dụng thử trước khi trực tiếp
tiêu dùng dịch vụ du lịch, vì quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ dịch
vụ du lịch. Vì vậy, đối với du khách khi họ chưa tiêu dùng dịch vụ du lịch thì nó
vẫn là trừu tượng. Dịch vụ thường xuyên đồng hành với những sản phẩm vật chất
nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình khiến cho du khách thực
sự khó đánh giá dịch vụ. Điều đó đòi hỏi nhà cung ứng dịch vụ du lịch cũng cần
cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho du khách, những thông tin ấy phải nhấn
mạnh được tính lợi ích của dịch vụ đối với du khách để họ thấy hài lòng và quyết
định mua dịch vụ của mình.
Thứ hai, tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch. Đặc tính
này thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) quá
trình sản xuất và tiêu dùng tách rời nhau. Việc sản xuất và tiêu dùng thường diễn ra
ở những thời gian và địa điểm khác nhau. Còn đối với dịch vụ thì ngược lại, việc
sản xuất và tiêu dùng thường trùng nhau về không gian và thời gian. Sản xuất không
phải để lưu kho hay cất đi như hàng hóa thông thường. Chẳng hạn, vào mùa đông
thời gian rỗi của nhân viên du lịch ở các vùng ven biển không thể để dành đến lúc
cao điểm của mùa hè được, một phòng khách sạn không cho thuê được trong ngày
thì coi như mất dịch vụ, do đó mất nguồn thu v.v... Dịch vụ được sản xuất và tiêu
dùng đồng thời nên cung - cầu cũng không thể tách rời nhau và cần phải tạo ra sự ăn
khớp giữa cung và cầu. Vì thế, công tác dự báo nhu cầu trong kinh doanh dịch vụ
du lịch là hết sức quan trọng.
Thứ ba, sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ. Đặc
điểm này nói lên rằng khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã trở thành nội dung
10
của quá trình sản xuất. Do việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nên
ở đó có sự gặp gỡ giữa hai chủ thể: khách hàng và người sản xuất. Sự gắn liền họ
trong sự tác động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức
độ lành nghề, khả năng của người cung cấp dịch vụ cũng như ý nguyện của người
tiêu dùng. Do có sự đa dạng về yêu cầu, sở thích, trình độ cũng như khả năng cảm
nhận và đánh giá của khách du lịch mà nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần sáng tạo
trong quá trình sản xuất của mình để thoả mãn nhu cầu của du khách. Mức độ hài
lòng của du khách phụ thuộc nhiều vào khả năng, trình độ, nghệ thuật ứng xử của
người làm dịch vụ. Người tiêu dùng ở đây không chỉ là người hưởng thụ những lợi
ích do nhà cung ứng mang lại mà sự hợp tác cùng với những phản hồi của họ có tác
động đến khả năng phục vụ và mức độ hoàn thiện của dịch vụ; họ trở thành người
đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ du lịch.
Thứ tư, tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch. Vì cơ sở du lịch vừa là
nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch không thể dịch
chuyển được. Trên thực tế, không thể cung cấp dịch vụ du lịch đến tận tay du khách
được mà du khách muốn tiêu dùng dịch vụ phải đến các cơ sở du lịch. Do vậy, các
nhà kinh doanh du lịch muốn thu hút khách du lịch, cần phải đẩy mạnh công tác
tuyên truyền quảng bá du lịch.
Thứ năm, tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Khi mua sản phẩm
vật chất, người mua có quyền sở hữu đối với sản phẩm đó. Còn đối với dịch vụ du
lịch thì vấn đề không phải như vậy. Khi khách hàng mua dịch vụ du lịch thì sự tiêu
dùng dịch vụ của họ song song với quá trình sản xuất của nhà cung ứng; do vậy
khách hàng chỉ đang mua quyền hưởng thụ dịch vụ do nhà cung ứng mang lại chứ
không thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó của nhà cung ứng dịch vụ du lịch.
Thứ sáu, tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch. Dịch vụ du lịch là một
loại hình dịch vụ đời sống thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong suốt thời gian
đi du lịch. Dịch vụ du lịch khác với các hoạt động dịch vụ khoa học - công nghệ,
dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống khác ở chỗ: Dịch vụ du lịch chỉ thoả mãn nhu
cầu của khách du lịch, chứ không thoả mãn nhu cầu cho tất cả mọi người trong toàn
xã hội, dịch vụ du lịch thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi
du lịch như: nhu cầu ăn, ở, nghỉ ngơi, thăm quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu lịch sử,
11
văn hóa và các nhu cầu khác. Mặt khác, do khách hàng rất muốn chăm sóc như
những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hóa và không
đồng nhất. Doanh nghiệp du lịch rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ nhằm thoả
mãn tất cả các khách hàng trong mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn ấy phụ thuộc vào sự
cảm nhận của du khách.
Thứ bảy, tính không đồng đều về sản lượng. Do quá trình sản xuất dịch vụ
du lịch gắn liền với quá trình tiêu thụ nên sản lượng dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ
yếu vào nhu cầu của du khách. Mặt khác, nhu cầu của khách du lịch rất phong phú
đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời tiết, tình hình chính trị xã hội, an ninh quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh, v.v.. Kết quả là số lượng khách du
lịch thay đổi và kéo theo sản lượng dịch vụ du lịch cũng thay đổi theo từng ngày
trong tuần, từng tuần trong tháng, từng tháng trong năm và giữa năm này so với
năm khác.
Bảng 1.1. Sự khác nhau giữa sản phẩm vật chất và dịch vụ
Sản phẩm vật chất
Dịch vụ
- Mang tính hữu hình
- Mang tính vô hình
- Được trưng bày trước khi mua, bán
- Thông thường không được trưng bày
hoặc trưng bán
- Quyền sở hữu được chuyển giao khi - Không có sự thay đổi về quyền sở hữu
mua, bán
- Có thể được cất giữ hay lưu kho
- Không thể được cất giữ hay lưu kho
- Có thể được bán tiếp theo
- Không bán được tiếp theo
- Sản xuất và tiêu dùng thường diễn ra - Sản xuất và tiêu dùng thường trùng
ở thời gian và địa điểm khác nhau
nhau về thời gian và không gian
- Có thể vận chuyển được
- Không thể vận chuyển được ngay cả
khi người sản xuất mong muốn
- Có thể xuất khẩu được
- Không thể xuất khẩu được
- Khách hàng là bộ phận chỉ trong quá - Khách hàng là một bộ phận trong cả
trình tiêu dùng
quá trình sản xuất và tiêu dùng
- Có thể quan hệ gián tiếp với khách - Trong đại đa số các trường hợp phải
hàng
quan hệ trực tiếp với khách hàng
12
- Khái niệm khách du lịch: Định nghĩa về khách du lịch xuất hiện lần đầu
tiên vào cuối thế kỷ thứ XVIII tại Pháp. Thời bấy giờ các hành trình của người Đức,
Hà Lan, Đan Mạch, Bồ Đào Nha và người Anh trên đất Pháp được chia làm hai
loại: Hành trình lớn theo bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam nước Pháp và
vùng Bourgne; Hành trình nhỏ từ Paris đến miền Đông Nam nước Pháp. Khách du
lịch được định nghĩa là người thực hiện một hành trình lớn ("Faire le grand tour").
Để có định nghĩa đầy đủ về "khách du lịch", chúng ta cần phân tích một số
định nghĩa rút ra từ các Hội nghị quốc tế về du lịch sau đây:
+ Định nghĩa của Liên hiệp các quốc gia (năm 1937) về "khách du lịch nước
ngoài" như sau: "Bất cứ ai đến thăm một đất nước khác với nơi cư trú thường xuyên
của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24h" [16, tr.22].
+ Định nghĩa của Tiểu ban về các vấn đề kinh tế - xã hội trực thuộc Liên hợp
quốc (United Nations Department of Economic and Social Affaires) năm 1978 về
"khách viếng thăm quốc tế" (international visitor from abroad): “Khách viếng thăm
quốc tế là tất cả những người từ nước ngoài đến thăm một đất nước (given country)
- chúng ta gọi là khách du lịch chủ động (inbound tourist); hoặc tất cả những người
từ một nước đi ra nước ngoài viếng thăm - chúng ta gọi là khách du lịch thụ động
(outbound tourist) với khoảng thời gian nhiều nhất là một năm” [16, tr.27].
+ Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về du lịch tại Hà Lan năm 1989: “Khách du
lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác với mục đích thăm quan, nghỉ
ngơi, giải trí, thăm hỏi trong khoảng thời gian ít hơn ba tháng, những người khách này
không được làm gì để được trả thù lao và sau thời gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi
ở thường xuyên của mình” [16, tr.28].
Như vậy, các định nghĩa đã nêu ở trên về khách du lịch ít nhiều có những
điểm khác nhau, song nhìn chung chúng đều đề cập đến ba khía cạnh sau: Thứ nhất,
đề cập đến động cơ khởi hành, động cơ ấy có thể là đi thăm quan, thăm người thân,
nghỉ dưỡng, kết hợp kinh doanh trừ động cơ lao động kiếm tiền; Thứ hai, đề cập
đến yếu tố thời gian trong đó đặc biệt chú trọng đến sự phân biệt giữa khách thăm
quan trong ngày và khách du lịch là những người nghỉ qua đêm; Thứ ba, đề cập đến
13
những đối tượng là khách du lịch và những đối tượng không được xem là khách du
lịch (ví dụ: khách quá cảnh, dân di cư, v.v...)
+ Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam, tại điều 34, chương V, luật du
lịch Việt Nam, khách du lịch được hiểu như sau: “Khách du lịch là người đi du lịch
hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu
nhập ở nơi đến” [31, tr.12]; “Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du
lịch quốc tế”; “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư
trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”; “Khách du lịch quốc
tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du
lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du
lịch” [31, tr.15].
- Các loại hình du lịch: Theo mục đích: Du lịch chữa bệnh, du lịch nghỉ
dưỡng, du lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch tôn giáo, du lịch thăm thân, du lịch
thăm quan, nghiên cứu, du lịch mạo hiểm... Theo phạm vi lãnh thổ: Du lịch trong
nước, du lịch quốc tế... Theo vị trí địa lý: Du lịch biển, du lịch nghỉ núi, du lịch
đồng bằng... Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: Du lịch đi bộ, du lịch
xe đạp, du lịch mô tô, du lịch ô tô, du lịch kinh khí cầu, du lịch máy bay, du lịch tàu
hỏa, du lịch tàu thủy... Theo thời gian của cuộc hành trình: Du lịch ngắn ngày, du
lịch dài ngày... Theo lứa tuổi: Du lịch thanh niên, du lịch thiếu niên, du lịch người
cao tuổi... Theo hình thức tổ chức: Du lịch có tổ chức, du lịch cá nhân... Ngày nay,
trên thế giới có rất nhiều cách phân loại du lịch dựa trên những tiêu chí khác nhau,
đặc biệt ở các nước phát triển do nhu cầu của khách du lịch rất đa dạng nên các loại
hình du lịch cũng rất phong phú ở mỗi nước, mỗi khu vực lại có những loại hình
đặc trưng riêng với những sản phẩm du lịch đặc trưng. Chẳng hạn, ở Thái Lan phát
triển loại hình du lịch sex thì ở Việt Nam chú trọng phát triển loại hình du lịch sinh
thái...
Tóm lại, theo tác giả kinh tế du lịch có thể hiểu là ngành kinh tế dịch vụ,
ngành kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, thoả mãn
nhu cầu tinh thần của du khách, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết
thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch. Kinh tế du lịch là
14
ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những
giá trị vật chất và tinh thần rất cao. Kinh tế du lịch ra đời và phát triển như một tất
yếu khách quan, trở thành một ngành kinh tế độc lập với những đặc trưng riêng.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế du lịch
- Tính nhạy cảm: So với các ngành kinh tế khác ngành kinh tế du lịch có tính
nhạy cảm hơn. Do ngành kinh tế du lịch gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong quá
trình cung cấp dịch vụ đối với du khách nhà cung ứng cần bố trí chính xác về thời
gian, có kế hoạch chu đáo chi tiết về nội dung các hoạt động, cần phải kết hợp một
cách hữu cơ, liên hệ chặt chẽ giữa các khâu đi lại, du ngoạn, ăn, ở, vui chơi, giải trí,
mua sắm... Giả sử một khâu nào đó không tuân thủ quá trình thì có thể gây ra hàng
loạt phản ứng dây chuyền làm mất sự phối hợp nhịp nhàng trong cơ cấu tổ chức,
ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ du lịch. Mặt khác, các nhân tố thiên nhiên,
chính trị, kinh tế và xã hội đều có ảnh hưởng đến ngành kinh tế du lịch như chiến
tranh, động đất, nạn khủng bố, đại dịch SAR, hay dịch cúm A H5N1... đều ảnh
hưởng lớn, gây cản trở đối với sự phát triển của du lịch. Do đó, để khắc phục được
"tính nhạy cảm" này ngành kinh tế du lịch cần phải chủ động để có chiến lược đúng
đắn trong hoạt động của mình.
- Tính thời vụ: Do ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, thời tiết khí hậu, nên
du lịch hầu khắp các nước đều mang "tính thời vụ". Tại điểm du lịch, điều kiện khí
hậu có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành tính thời vụ du lịch. Ví dụ, loại hình du
lịch biển thường rất đông khách vào mùa hè, vắng khách vào mùa đông, ngược lại,
loại hình du lịch leo núi, trượt tuyết thì thường vắng khách vào mùa hè nhưng lại
nhiều khách vào mùa đông. Ngoài ra, tính thời vụ của du lịch có liên quan mật thiết
tới việc sắp xếp ngày nghỉ của nhân viên, các kỳ nghỉ của học sinh sinh viên; sự bố
trí sắp xếp này có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của ngành kinh tế du lịch.
Những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố cung - cầu trên khiến hoạt động kinh doanh
du lịch có tính mùa vụ rõ rệt, ảnh hưởng tới tỷ lệ cung và cầu của du lịch, gây ra
hiện tượng mùa thịnh thì cung du lịch không đủ cầu du lịch, mùa suy thì thiết bị và
nhân viên phục vụ nhàn rỗi. Vì vậy, muốn tối đa hóa lợi nhuận người kinh doanh du
lịch cần chú ý đầy đủ tới đặc điểm này để tìm mọi cách áp dụng các thủ thuật và
15
biện pháp hữu hiệu, cố gắng giảm thiểu sự chênh lệch giữa mùa thịnh, mùa suy,
khai thác tối đa các thiết bị và tài nguyên du lịch nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Việc khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về
mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
- Tính tổng hợp cao: Hoạt động du lịch là hoạt động có tính tổng hợp cao bởi
vì trong quá trình hoạt động du lịch, khách du lịch có nhu cầu về ăn, ở, đi lại, du
ngoạn, vui chơi, giải trí, mua sắm... Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau đó nhà cung
ứng du lịch cần cung cấp tuyến du lịch, tư vấn tin tức, cung cấp các phương tiện
giao thông, khách sạn, nhà nghỉ cho du khách... Vì vậy, sản phẩm của ngành kinh tế
du lịch là kết quả của nhiều bộ phận, là sản phẩm tổng hợp được biểu hiện ra bằng
nhiều loại dịch vụ. Phạm vi hoạt động của ngành kinh tế du lịch bao gồm các khách
sạn du lịch, công ty du lịch, giao thông du lịch, đơn vị bán hàng lưu niệm du lịch...
và có cả các bộ phận sản xuất tư liệu vật chất (công nghệ dệt, ngành xây dựng...) và
một số bộ phận sản xuất tư liệu phi vật chất (văn hóa, giáo dục, tôn giáo, khoa học
kỹ thuật, hải quan, tài chính, bưu điện...). Nắm được đặc điểm tổng hợp của ngành
kinh tế du lịch có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng đối với việc quản lý kinh
doanh của ngành. Các bộ phận trong ngành kinh tế du lịch không chỉ có đặc tính
hướng đích thông qua nút “thỏa mãn nhu cầu của khách” mà còn liên hệ chặt chẽ
với nhau. Bất cứ hành vi chậm trễ hoặc bỏ lỡ dịp của bất kỳ bộ phận nào cũng sẽ
ảnh hưởng tới số lượng khách du lịch. Do vậy các bộ phận trong ngành kinh tế du
lịch phải hỗ trợ lẫn nhau và cần thiết triển khai kinh doanh liên hợp. Nếu các doanh
nghiệp du lịch theo đuổi lợi ích cục bộ, không phối hợp nhịp nhàng với các doanh
nghiệp khác có liên quan thì hiệu quả kinh doanh của toàn ngành sẽ bị ảnh hưởng
theo. Vì thế, thực hiện quản lý ngành nghề toàn diện trong ngành kinh tế du lịch là
điều hết sức cần thiết.
- Tính đa ngành: Du lịch sẽ không phát triển được nếu không có sự trợ giúp
của các ngành kinh tế - xã hội khác như bảo hiểm, y tế, giao thông vận tải, công an,
môi trường... Ngược lại, du lịch cũng mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế
khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch như: điện,
nước, hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, tranh ảnh, sách báo... Nắm được đặc
16
tính đa ngành trong hoạt động du lịch đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương cần
phải có chính sách phối, kết hợp chặt chẽ, nhằm tạo ra "xung lực" mạnh mẽ cho sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân.
- Tính đa thành phần: Biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du
lịch, những người phục vụ du lịch, các cộng đồng dân cư trong khu du lịch, các tổ
chức chính phủ và phi chính phủ tham gia vào các hoạt động du lịch. Do đặc tính đa
thành phần của ngành kinh tế du lịch mà nhiều loại hình du lịch khác nhau và dịch
vụ mới đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của du khách. Tuy
nhiên, đặc tính đa thành phần trong lĩnh vực du lịch nếu không được khai thác một
cách hợp lý sẽ dẫn đến sự bất đồng quan điểm giữa các cá nhân trong đoàn đi du
lịch, cũng như mâu thuẫn trong nội bộ những người làm du lịch.
- Tính chi phí: Mục đích đi du lịch của các khách du lịch là hưởng thụ các
sản phẩm du lịch chứ không phải với mục tiêu kiếm tiền. Du khách sẵn sàng trả
những khoản chi phí trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như: ăn, uống,
ở, đi lại và nhiều chi phí khác nhằm thực hiện được mục đích vui chơi, giải trí,
hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, giá trị văn hóa, lịch sử... Hiểu rõ đặc tính này, các
quốc gia, các nhà kinh doanh du lịch cần có biện pháp nâng cao chất lượng sản
phẩm du lịch, đa dạng các loại hình dịch vụ, nhằm thu hút khách du lịch, kéo dài
thời gian lưu trú của du khách. Song thực tế ở một số điểm du lịch nhiều nhà kinh
doanh du lịch đã lợi dụng đặc tính này để đẩy mức giá dịch vụ lên quá cao, làm cho
sự tin tưởng của du khách đối với nhà cung ứng du lịch giảm sút. Những sai sót này
sẽ lan truyền từ du khách này đến du khách khác làm ảnh hưởng đến hình ảnh của
ngành kinh tế du lịch trong con mắt của du khách.
- Tính liên vùng: Biểu hiện thông qua các tuyến du lịch với một quần thể các
điểm du lịch trong một khu vực, trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau.
Mỗi điểm du lịch đều có những nét độc đáo, hấp dẫn riêng, song nó không thể tách
khỏi xu thế thời đại và sự phát triển chung của khu vực và quốc gia. Vì vậy, bất cứ
một khu vực, một quốc gia nào muốn phát triển du lịch cần phải đưa mình vào "quỹ
đạo" chung của quốc tế và khu vực. Hoạt động du lịch ở một vùng, một quốc gia
khó có thể phát triển du lịch nếu không có sự liên kết các tuyến, điểm du lịch trong
phạm vi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
17
- Xem thêm -