BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
______________________________
Nguyễn Thị Ái Hương
QUAN HỆ MYANMAR - VIỆT NAM
TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------------
Nguyễn Thị Ái Hương
QUAN HỆ MYANMAR - VIỆT NAM
TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2012
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
2
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin dành những dòng chữ đầu tiên trong luận văn này để gửi lời tri ân
sâu sắc đến PGS.TS Ngô Minh Oanh, người Thầy đã rất tận tình hướng dẫn và cực
kỳ kiên nhẫn trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Không chỉ là một người dẫn
đường, Thầy còn cho tôi niềm tin thúc đẩy tôi vượt qua những trở ngại trong thời
gian qua. Xin gửi đến Thầy lòng biết ơn sâu sắc.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến PGS.TS Nguyễn
Cảnh Huệ, TS Lê Phụng Hoàng, TS Trịnh Tiến Thuận, cùng Quý Thầy, Cô ở
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy những kiến
thức hết sức quý báu trong suốt quá trình học Cao học. Những kiến thức mới này
thật sự hữu ích cho việc giảng dạy của tôi. Dù lời cám ơn này đến muộn nhưng tôi
vẫn xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô đã rất tâm huyết vì học viên.
Xin cám ơn bạn Võ Minh Tập về những tài liệu rất có giá trị mà bạn giúp đỡ.
Xin cám ơn nhà báo Trần Hữu Phúc Tiến cũng như tòa soạn báo Xưa và Nay đã tận
tình hỗ trợ việc tìm tài liệu và thông tin. Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn đến các em
Nguyễn Sỹ Bách, Trương Minh Bảo Phúc, Nguyễn Công Hoàng Lâm đã cung cấp
những bài báo có những tư liệu quý. Cám ơn các bạn đồng nghiệp, ban lãnh đạo
trường Đinh Thiện Lý đã quan tâm hỗ trợ trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời đến gia đình và những người thân yêu nhất của tôi
lòng biết ơn chân thành vì đã luôn ở bên lo lắng, động viên, chia sẻ và luôn là chỗ
dựa tin cậy trong những lúc khó khăn, căng thẳng nhất.
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................................................1
LỜI CÁM ƠN ...................................................................................................................................2
MỤC LỤC .........................................................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................................5
1.
Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 5
2.
Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 7
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 10
4.
Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................................... 11
5.
Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................................. 11
6.
Ý nghĩa đề tài ............................................................................................................ 12
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................................... 13
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MYANMAR VÀ QUAN HỆ CỦA MYANMAR - VIỆT
NAM ĐẾN NĂM 1975 ................................................................................................................ 13
1.1 Giới thiệu về Myanmar: ............................................................................................. 13
1.2 Quan hệ Myanmar - Việt Nam đến 1975: .................................................................. 25
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ MYANMAR - VIỆT NAM TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2010 . 42
2.1 Quan hệ Myanmar - Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1991 ............. 42
2.2 Quan hệ Myanmar - Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2010. ............ 58
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM, CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VỌNG CỦA MỐI
QUAN HỆ MYANMAR - VIỆT NAM ..................................................................................... 98
3.1 Những đặc điểm nổi bật của quan hệ Myanmar - Việt Nam...................................... 98
3.2 Những cơ hội và thách thức ..................................................................................... 104
3.3 Triển vọng phát triển của mối quan hệ Myanmar - Việt Nam ................................. 109
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 120
PHỤ LỤC ..................................................................................................................................... 125
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
ASEAN
UBHH
SLORC
SPDC
NLD
USDA
ACMECS
MOU
Từ viết đầy đủ
Association of Southeast Asian Nations
(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á)
Ủy ban hỗn hợp
State Law and Order Restoration Council
(Hội đồng khôi phục trật tự và luật pháp nhà nước)
State Peace and Development Council
(Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang)
National League for Democracy
(Đảng Liên kết Quốc gia Dân chủ)
Union Solidarity and Development Association
(Hiệp hội đoàn kết và phát triển liên bang)
The Ayeyawady – Chao Phraya – Mekong Economic
Coopperation Strategy
(Tổ chức chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady – Chao
Phraya – Mê Kông)
Memorandum of Understanding
(Biên bản ghi nhớ)
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuối thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, của xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển cũng như của quá trình tự
do hóa nền kinh tế ở các nước công nghiệp phát triển, một số nước đang phát triển,
và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây chuyển sang nền kinh tế thị trường mở cửa
như các nước thuộc Liên Xô cũ, Việt Nam, Đông Âu, Trung Quốc,… quá trình
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới được hình thành và phát triển ngày càng mạnh
mẽ. Toàn cầu hóa về kinh tế đã trở thành trào lưu cuốn hút tất cả các quốc gia trên
thế giới, vì vậy, hội nhập vào nền kinh tế thế giới là xu thế tất yếu mà không một
nước nào, dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo có thể cưỡng lại được. Nó mang lại
cơ hội nhưng cũng ẩn chứ những thách thức to lớn đối với các quốc gia, nhất là các
nước đang phát triển. Do đó, vấn đề đặt ra đối với các nước là hội nhập như thế nào
để lợi nhiều hơn hại, để thử thách biến thành cơ hội, Việt Nam cũng không nằm
ngoài quá trình đó.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều chủ
trương đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ nhằm tận dụng ngoại lực phục vụ
cho chiến lược phát triển đất nước. Kể từ khi tiến hành chính sách đổi mới toàn
diện, Đảng và nhà nước Việt Nam cũng tích cực đổi mới về tư duy đối ngoại, từng
bước chủ động và tích cực hội nhập khu vực và quốc tế trên cơ sở làm sâu sắc thêm
mối quan hệ mọi mặt với từng quốc gia, trước hết là các nước láng giềng, khu vực
và các nước lớn.Việt Nam đang thực hiện chính sách đối ngoại với phương châm
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển”. Chính vì vậy, nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa các
quốc gia và chính sách đối ngoại của họ là một việc rất được quan tâm tại nước ta
cũng như các nước khác trên thế giới. Việc nghiên cứu về quan hệ giữa Myanmar
và Việt Nam là một vấn đề đang được quan tâm hiện nay khi mà những đổi mới
6
của Myanmar đang làm “nóng” lên cơ hội đầu tư vào một thị trường mới và nhiều
cơ hội ở khu vực Đông Nam Á này.
Hơn hai mươi lăm năm đổi mới, từng bước mở cửa và hội nhập quốc tế,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về mọi mặt, ngày càng có vị trí
quan trọng trên trường quốc tế. Ngoại giao Việt Nam đã có phần đóng góp đặc biệt
vào trong quá trình này.Trong những năm tới, để thực hiện mục tiêu đã được Đảng
ta đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2020, cần đẩy mạnh
hơn nữa chính sách ngoại giao toàn diện hơn nữa.Ngoại giao là sự tương tác với
xung quanh của các quốc gia vì mục tiêu tồn tại, anh ninh và phát triển. Từ cổ chí
kim, trong thời bình cũng như thời chiến, ngoại giao luôn là một phần cuộc sống
của mọi quốc gia. Kể cả khi các quốc gia tiến hành chiến tranh với nhau thì ngoại
giao vẫn là vũ khí quan trọng không nước nào bỏ qua.Thế giới càng phát triển,
ngoại giao càng liên quan đến hầu hết các lĩnh vực vì lợi ích của quốc gia ngày
càng liên đới với nhiều nước, nhiều lĩnh vực và khu vực. Trong bối cảnh hiện tại,
khu vực Đông Nam Á là khu vực kinh tế năng động của thế giới, việc thắt chặt mối
quan hệ giữa các nước là điều hết sức cần thiết. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa
Việt Nam và Myanmar cũng không nằm ngoài yêu cầu đó.
Sau Chiến tranh lạnh, tình hình thế giới và khu vực thay đổi, xu thế toàn
cầu hóa và khu vực hóa ngày càng phát triển.Điều này tạo cơ hội cho nước ta mở
rộng quan hệ, giao lưu với tất cả các nước trên thế giới để phát triển đất nước.
Trong khu vực, với những nỗ lực của Việt Nam cùng với sự đúng đắn của công
cuộc cải cách, mở cửa đã đưa nước ta ngày càng có vị trí quan trọng trong khu vực
và trên thế giới. Nước ta có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp với tất cả các nước là
thành viên của ASEAN. Một trong những mỗi quan hệ tốt đẹp đó là quan hệ giữa
Việt Nam và Myanmar. Cả hai nước đều có nhiều điểm tương đồng về địa lý, văn
hóa, cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, việc tìm hiểu mối quan hệ này là cần
thiết trong mối quan hệ giữa hai nước cũng như trong xu thế hợp tác với khu vực.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Myanmar đã phát triển từ sớm, trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm. Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ của hai nước trong
7
thời gian đã qua, chúng tôi mong muốn tìm ra những xu thế phát triển của mối
quan hệ của hai nước nói riêng, giữa Việt Nam với khu vực và thế giới nói chung.
Việc nghiên cứu và thực hiện đề tài có ý nghĩa thiết thực và hữu ích đối
với bản thân. Điều này góp phần giúp chúng tôi nhận thức sâu sắc hơn chính sách
đối ngoại, đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Đây
là những kiến thức rất có giá trị trong việc phục vụ công tác giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, hầu như chưa có một tác phẩm nghiên cứu toàn diện về
quan hệ hợp tác giữa Myanmar và Việt Nam. Có thể nói đây là một đề tài khá mới
mẻ. Tuy nhiên, chúng tôi xin giới thiệu một số công trình tiêu biểu, ít nhiều có đề
cập đến mội số nội dung có liên quan đến đề tài. Trước hết chúng tôi xin giới thiệu
những tác phẩm có liên quan đến đề tài ở việc cung cấp những kiến thức khái quát,
sau đó là những tác phẩm đi vào từng lĩnh vực, từng nội dung cụ thể, mà không
trình bày theo trình tự thời gian sách được xuất bản.
Đầu tiên, không thể không nhắc tới đó là công trình nghiên cứu của tác
giả Nguyễn Lệ Thi với nhan đề: “Thư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á: phần
Chiêm Thành, Thủy Xá, Hỏa Xá, Miến Điện, Chà Và” tài liệu lưu hành nội bộ, xuất
bản năm 1978- Ủy ban Khoa học xã hội. Trong phần sưu tầm, ghi chép của mình,
tác giả đã tập hợp tất cả những ghi chép của những tài liệu gốc trong lịch sử nước ta
có đề cập đến Miến Điện (tức Myanmar) và mối quan hệ của hai nước. Những ghi
chép cẩn thận, tỷ mỹ của tác giả giúp người đọc thấy được lịch sử của mối quan hệ
của hai nước xuất hiện từ thời gian nào và phát triển như thế nào. Đồng thời qua bài
viết của mình, tác giả Nguyễn Lệ Thi cũng đánh giá được mối quan hệ của hai nước
như sau: “Thư tịch cổ Việt Nam viết về Miến Điện rất ít và xuất hiện rất muộn. Chỉ
có Quốc sử quán triều Nguyễn là ghi chép nước này nhưng ghi chép cũng rất ít về
những mối giao hảo giữa hai vương triều. Đó là vì sự xa xôi về địa lý và các triều
trước không thông hiếu nên ta chỉ có thể đọc thấy trong biên niên sử nhà Nguyễn
những dòng về Miến Điện. Tuy thư tịch Việt Nam ghi chép về Miến Điện ít và
muộn nhưng qua nguồn tài liệu đó người đọc vẫn thấy được một số nét khái quát
8
nhưng sơ lược về đất nước, con người, địa danh, núi sông, thành quách và lịch sử
của Miến Điện. Tuy mối quan hệ giữa hai nước xuất hiện muộn nhưng có thể nói đó
là mối quan hệ ngoại giao hữu hảo giữa hai quốc gia từ đầu chí cuối. Mối quan hệ
này là thân thiện”.[35, tr.10]
Tiếp theo, tác giả Vũ Thị Phương Hậu trong bài nghiên cứu của mình với
nhan đề: “Chính sách ngoại giao của triều Nguyễn với các nước Đông Nam Á nửa
đầu thế kỷ XIX” được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/2011 từ
trang 46 đến trang 49 đã có đề cập đến mối quan hệ giữa nước ta và Miến Điện thời
bấy giờ. Trong bài viết của mình, tác giả có nêu: “Khu vực Đông Nam Á thế kỷ
XIX cũng có những dấu hiệu bất ổn. Quan hệ giữa Xiêm La - Vạn Tượng, Xiêm LaChân Lạp, Xiêm La - Miến Điện chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có nguy cơ dẫn đến
chiến tranh. Nếu chính sách ngoại giao của triều Nguyễn không khéo léo để giữ
được thế cân bằng, rất có thể kéo quốc gia vào một cuộc chiến tranh với các nước
láng giềng. Khi Miến Điện thỉnh cầu triều Nguyễn tuyệt giao với Xiêm La, nhà
Nguyễn từ chối nhưng vẫn giữ quan hệ thân thiện với Miến Điện bằng cách hậu
thưởng cho quốc vương Miến Điện, chánh sứ, phó sứ và các bồi thần quân lính đi
theo các đoàn sứ bộ.” và cũng trong bài viết này, tác giả cũng có nêu ra một chi tiết:
“Sử triều Nguyễn đã ghi lại 3 lần Quốc vương Miến Điện cử sứ thần đến Việt Nam
dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị”. Như vậy, có thể thấy rằng, mối
quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Myanmar đã có từ lâu trong lịch sử dân tộc của
hai nước.
Tiến sĩ khoa học lịch sử Phan Lạc Tuyên trong tác phẩm của mình với
nhan đề: “Lịch sử bang giao Việt Nam- Đông Nam Á” được xuất bản năm 1993 tại
trường Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh cũng có đề cập đến mối
quan hệ giữa Việt Nam và Myanmar. Trong đó, tác giả cũng chỉ dành ra hai trang
khiêm tốn để bàn về mối quan hệ bang giao của hai nước trong thời nhà Nguyễn.
Còn những giai đoạn sau khi hai nước bị trở thành thuộc địa thì không được nhắc
tới. Bài viết của tác giả còn rất khái quát và chỉ nêu một giai đoạn nhỏ trong suốt
một tiến trình lịch sử quan hệ của hai nước.
9
Trong tác phẩm Việt Nam - ASEAN quan hệ song phương và đa phương
do tác giả Vũ Dương Ninh chủ biên xuất bản năm 2004 tại Hà Nội có bài viết của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy với nhan đề: “Mianma và vấn đề hội nhập khu
vực”. Trong bài viết này, tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy đã khái quát lại những nét
chính về điều kiện tự nhiên, về xã hội và các giai đoạn lịch sử của đất nước chùa
Vàng. Đồng thời, tác giả cũng dành một phần quan trọng trong bài viết của mình để
nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Mianma. Trong đó, tác giả đã trình bày tổng quát
về sự phát triển của quan hệ hai nước mà theo đó thì người Miến đã sang buôn bán
với người Việt từ khoảng thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VIII và nhận định rằng: “kể từ
khi người Việt và người Miến thiết lập các vương triều của riêng mình ở những thế
kỷ sau đó, quan hệ của Việt Nam với Mianma không được gắn bó như với Lào và
Campuchia, nhưng cũng không căng thẳng như với Thái Lan và Trung Quốc”[27,
tr.173]. Tiếp theo, tác giả trình bày về về quan hệ ngoại giao và kinh tế của hai nước
từ năm 1947 đến năm 2003. Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy đã tổng
quát được quan hệ của hai nước trong một giai đoạn dài và có những dẫn chứng rất
cụ thể, nhất là liên quan đến lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, bài viết chỉ dừng lại đến
năm 2003 nên còn rất nhiều thông tin sau năm này đã không được đề cập đến trong
bài viết.
Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hồng với tác phẩm Kinh tế các nước ASEAN,
nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008 đã trình bày về quan hệ Việt Nam - Myanamar và
các giải pháp thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Trong phần trình bày của mình, tác
giả khái quát lại lịch sử quan hệ của hai quốc gia về ngoại giao, về thương mại, đầu
tư cũng như các biện pháp thúc đẩy mối quan hệ giữa Việt Nam và Myanmar. Phần
nghiên cứu của tác giả nằm trong toàn cảnh chung về kinh tế của các nước ASEAN
cho nên xét theo chiều rộng và chiều sâu trên cách lĩnh vực thì vẫn còn nhiều vấn đề
chưa được đề cập đến trong tác phẩm.
Một tác phẩm nữa cũng có nghiên cứu về quan hệ của Việt Nam và
Myanmar đó là Quan hệ đối ngoại của các nước ASEAN do PGS.PTS Nguyễn
Xuân Sơn và Thạc sĩ Thái Văn Long chủ biên, xuất bản tại NXB Chính trị Quốc
10
gia, Hà Nội năm 1997. Trong tác phẩm, từ trang 71 đến trang 72, các tác giả có tóm
tắt về mối quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, phần trình bày của các tác giả rất ngắn
gọn, xúc tích, không làm nổi bật những bước phát triển cũng như những thành tựu
mà hai nước đã đạt được trong quan hệ giữa hai nước.
Sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu như không đề cập đến bài viết của Đại sứ
Chu Công Phùng với loạt bài viết “kể chuyện Myanmar” trong đó có phần bài viết
nói về quan hệ Myanmar và Việt Nam. Bài viết của tác giả đã trình bày được quá
trình phát triển quan hệ ngoại giao của hai nước từ năm 1947 đến nay. Bài viết của
Đại sứ cung cấp rất nhiều thông tin quý giá về mối quan hệ giữa hai nước trong suốt
mấy mươi năm trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến những vấn đề khác trong
xã hội. Những thông tin trên cho thấy sự phát triển của mối quan hệ giữa hai nước
ngày càng thân thiện, hòa hiếu và phát triển trên mọi lĩnh vực cũng như có triển
vọng phát triển lên một tầm cao mới trong tương lai.
Trên lĩnh vực báo chí, cũng có rất nhiều bài viết với nội dung phản ánh
mối quan hệ giữa nước ta và xứ sở chùa Vàng nhưng chưa phải là những bài nghiên
cứu hoàn chỉnh. Trong số những phương tiện thông tin thì hiện nay, trên trang web
của bộ ngoại giao Việt Nam có đăng tải rất nhiều thông tin về quan hệ giữa hai
nước Việt Nam và Myanmar, những chỉ dừng lại ở mức là cung cấp thông tin.
Trên cơ sở tìm hiểu về mối quan hệ ngoại giao của hai nước, chúng tôi
thấy rằng mối quan hệ này vẫn chưa được nghiên cứu hệ thống và đầy đủ. Chính vì
thế, chúng tôi quyết định chọn đề tài: quan hệ ngoại giao Việt Nam - Myanmar từ
1975 đến năm 2010 để hệ thống một cách đầy đủ về sự phát triển mối quan hệ giữa
hai nước từ quá khứ đến năm 2010.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
-
Mục đích: Tìm hiểu về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam- Myanmar từ
1975 đến 2010.
-
Nhiệm vụ: phân tích các giai đoạn phát triển, những điểm nổi bật của mối
quan hệ ngoại giao của hai nước từ 1975 đến năm 2010 trên các lĩnh vực.
11
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lê nin, trong quá trình thực
hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử giúp chúng tôi tái hiện lại tiến trình quan hệ hợp tác
giữa Myanmar và Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1975 đến 2010 trong bối
cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động. Việc nghiên cứu quan hệ hợp tác giữa
hai nước giúp chúng tôi có cái nhìn khái quát về quá trình phát triển của mối quan
hệ này.
Phương pháp logic giúp chúng tôi lý giải những vấn đề phức tạp trong quan
hệ kinh tế và chính trị giữa Myanmar và Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử
của hai nước. Việc làm này giúp chúng tôi rút ra được những nét cơ bản, những đặc
điểm nổi bật trong quan hệ giữa Myanmar và Việt Nam.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu quan hệ giữa Myanmar và Việt Nam,
chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu quốc tế để tìm hiểu sâu hơn về quan hệ
của hai nước như: phương pháp khảo sát kinh tế, phương pháp phân tích lịch sử,
phương pháp phân tích tổng thể và toàn cục, phương pháp lý luận liên hệ thực tế.
Khi phân tích các hiện tượng quốc tế, cần phải nghiên cứu bối cảnh quốc tế mới có
thể hiểu được một cách căn bản tiến trình lịch sử và phương hướng phát triển của
nó. Phương pháp lí luận liên hệ thực tế là phương pháp được thực hiện khi đã nắm
vững những phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác- Lê nin để quan sát, phân
tích hiện tượng chính trị quốc tế và đề ra những dự báo khoa học về phương hướng
phát triển củ tình hình tế giới.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ giữa Việt Nam và Myanmar từ năm 1975
đến 2010 trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế. Trong quá trình nghiên cứu về quan
hệ ngoại giao của hai nước, thì có một giai đoạn đặc biệt là từ những năm 19541975, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt
Nam) và Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) thì đề tài nghiên cứu sẽ chỉ đề cập
tới quan hệ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với Myanmar, còn quan hệ Việt
12
Nam Cộng hòa với Myanmar thì tác giả không đi sâu nghiên cứu trong phạm vi đề
tài này.
Dù đã nỗ lực tìm kiếm trên sách, báo, internet nhưng thời gian có hạn nên
những thông tin ngoại giao của Myanmar và Việt Nam trong giai đoạn 1975-1991
còn rất hạn chế. Chính vì vậy, trong giai đoạn này, tác giả trình bày quan hệ hai
nước trên cơ sở những tài liệu tìm được nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi sẽ không ngừng tìm kiếm và bổ sung những thông tin ngoại giao hai
nước trong giai đoạn này khi có những thông tin mới.
6. Ý nghĩa đề tài
Đề tài góp phần làm rõ hơn về Myanmar và mối quan hệ giữa Myanmar và
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập
và những ai quan tâm đến đề tài.
Mặc khác, trong quá trình truyền đạt kiến thức cho học sinh khi giảng dạy tại
trường phổ thông, người nghiên cứu có cơ hội cập nhật cho các em những kiến thức
mới về chính sách đối ngoại của nước ta trong thời kì mới. Điều này sẽ giúp học
sinh có những khái niệm cơ bản về đường lối đối ngoại, những thời cơ, thử thách
của nước ta trong xu thế toàn cầu hóa,… làm hành trang cho các em bước vào cuộc
sống sẽ có hướng đi, lựa chọn đúng đắn để giúp bản thân, giúp gia đình và giúp đất
nước ngày càng phát triển.
13
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MYANMAR VÀ QUAN HỆ CỦA
MYANMAR - VIỆT NAM ĐẾN NĂM 1975
1.1 Giới thiệu về Myanmar:
1.1.1 Khái quát chung
Myanamar còn có các tên cũ khác là Miến Điện, Diến Điện, tên đầy đủ là
Liên bang Myanmar. Khi mới giành được độc lập tháng 1 năm 1948, Myanmar có
tên gọi chính thức là Liên bang Miến Điện. Sau những biến cố chính trị, nước này
có nhiều lần đổi tên. Năm 1974, chính quyền của thủ tướng Ne Win đã đổi tên đất
nước thành Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Miến Điện. “Ngày 18-6-1989, lại
đổi tên nước thành Liên hiệp các dân tộc Myanmar (Myanmar Naingngan-Union of
Peoples) và thủ đô Rangoon được gọi là Yangon. Tuy vậy, tên chính thức vẫn
thường được gọi hiện nay là Liên Bang Myanmar (Union of Myanmar)”.[27, tr.162163]
Liên bang Myanmar từ lâu đã được mệnh danh là “đất nước của chùa chiền”
hay “miền đất của thời gian ngừng trôi” nổi tiếng trên thế giới. Vùng đất này nằm
trong lục địa Đông Nam Á, giáp với Ấn Độ ở phía Tây Bắc, Bangladesh và vịnh
Bengal ở phía tây, biển Andaman phía tây nam, Trung Quốc phía Bắc, Lào và Thái
Lan ở phía đông. Myanmar là nước có lãnh thổ lớn thứ hai ở khu vực với diện tích
678.500 km2 [28; 162]. Ngoài bờ biển dài hơn 2200 km, Myanmar bị bao vây bởi
những dãy núi hình cánh cung, hình thành đường biên giới tự nhiên dài gần 6500
km với các nước láng giềng. Các dòng sông chính là Salween, Chindwin, Irrawaddy
và Sittang. Trong số các con sông này, sông Irrawaddy bắt nguồn từ vùng núi phía
bắc, chảy dọc đất nước là con đường thủy quan trọng và tạo nên vùng châu thổ màu
mỡ rộng lớn trước khi đổ ra biển Andaman. Tác giả Trịnh Huy Hóa đã nhận xét:
“sông Irrawaddy là xương sống của hệ thống giao thông quốc gia. Trên dòng sông
vĩ đại này, những chiếc tàu chạy bằng hơi nước ngược xuôi chuyên chở hành khách
và hàng hóa, những chiếc thuyền là ngôi nhà của các gia đình sinh sống bằng nghề
sông nước và bè mảng tre hay gỗ tếch xuôi xuống Rangoon để xuất khẩu”.[9, tr.16]
14
Phần lớn lãnh thổ Myanmar nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Mùa nóng
kéo dài từ tháng 3 tới tháng 10 với nhiệt độ khoảng 38oC và mùa lạnh cũng là mùa
gió đông bắc kéo dài từ tháng 11 tới tháng 2 với nhiệt độ trung bình là 16oC. Mùa
mưa tập trung từ tháng 5 tới tháng 10 trong những tháng này thường có gió tây nam.
Lượng mưa trung bình ở Myanmar vào khoảng 890mm, ở vùng núi khoảng
5080mm ở vùng đồng bằng.
Đất đai của đất nước này rất phì nhiêu với 13 triệu hecta có thể trồng trọt
được. Vùng châu thổ ở miền nam, nơi dòng sông Irawaddy chia làm tám nhánh đổ
ra biển Andaman là vựa lúa của Myanmar. Đất đai ở đây màu mỡ nhờ những trận
lụt hàng năm bồi đắp thêm phù sa, rất thích hợp cho trồng lúa nước.
Vị trí địa chính trị của Myanmar vô cùng quan trọng. Những dòng sông
chính như đã nói phần trên là con đường giao thông tự nhiên đi tới những vùng
đồng bằng giàu có của đất nước chùa vàng. Do đó, nếu như có “một lực lượng nào
đến được những vùng đồng bằng này thì họ sẽ tránh được sự đe dọa bên ngoài vì
nhờ những dãy núi bao bọc xung quanh. Mặt khác, vị trí này còn ngăn con đường
của các lực lượng phía Tây, phía Bắc đi xuống biển Andaman, Ấn Độ Dương và
ngược lại. Vì thế nhiều năm nay Mianmar là đối tượng tranh chấp của nhiều nước
lớn”.[30, tr.62]
1.1.2.Lịch sử
Vùng thung lũng Irrawaddy đã có những người sinh sống từ khoảng 5 ngàn
năm trước. Họ là người Anyathi, những cư dân săn bắn và hái lượm sử dụng công
cụ bằng đá và gỗ. Phía bắc, tại phía đông bang Shan, đã có người định cư từ rất
sớm. Tuy nhiên, họ là những người sống sâu trong nội địa còn những người định cư
tại bờ biển lại là những người đến từ Indonesia- người Negrito.
Đến thế kỷ thứ IX, người Miến từ cao nguyên Tây Tạng di cư vào, cư trú tại
vùng đồng bằng trù phú của sông Irrawady, còn những bộ tộc đến trước họ thì ở
vùng đồi núi. Năm 1044, sau nhiều năm chiến tranh, một thủ lĩnh người Miến là
Anawrahta đã thành lập nên vương quốc Pagan. Ông đã làm vua trong 35 năm và
thống nhất toàn bộ vùng đất ngày nay là Myanmar, chỉ trừ cao nguyên Shan và một
15
phần Arakan và Tenassarim. Triều đại của ông được coi là Đế quốc Miến Điện thứ
nhất và đánh dấu sự khởi đầu của Myanmar như một nhà nước thông nhất về chính
trị. Năm 1287, vương quốc nảy sụp đổ trước sự xâm lược của quân Mông Cổ. Sau
đó, Myanmar còn trải qua các giai đoạn lịch sử mà người ta gọi là Đế quốc Miến
Điện thứ hai (1551- 1752) và đế quốc Miến Điện thứ ba (1752-1885) trước khi rơi
vào sự thống trị của thực dân Anh. [9; tr.31-33]
Từ thế kỷ XV, các nước tư bản phương Tây đã bắt đầu tiếp xúc bờ biển
Myanmar. Những người Ấn Độ và Ả Rập đang khống chế lĩnh vực buôn bán bị trục
xuất khỏi nước này. Những thương nhân phương Tây đầu tiên xuất hiện là những
thương nhân từ Venise (Ý) sau đó là người các nước Tây Ban Nha, Anh và Pháp. Ai
cũng muốn làm bá chủ đất nước này.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Myanamar là một nước hùng mạnh nhất ở lục địa
Đông Nam Á. Triều đại Chakri ở Thái Lan vốn còn non trẻ lại đang khôi phục lại
sau sự suy tàn của Ayudhya và vương quốc của người Việt Nam phải đối phó với
những cuộc khởi nghĩa nông dân trong nước. Khi đó, “cán cân đã thay đổi vào đầu
thế kỷ XIX. Vương quốc Thái và Việt Nam hưng thịnh lên, trong khi vương quốc
Miến Điện suy tàn dần. Tầng lớp ưu tú của Myanmar hướng về bên trong hơn là
hướng về các nước đối tác của nó là Thái và Việt Nam và ít có những quan hệ
thương mại với thế giới bên ngoài. Khi ANh gia tăng sự hiện diện của họ ở vùng
Đông Nam Á, vào thế kỷ XIX, thì tầng lớp ưu tú của Miến lại tỏ ra ít có khả năng
đánh giá mối đe dọa đối với họ như người Thái và vì vậy càng ít có khả năng để đưa
ra những chiến lược đối phó với họ”[31, tr.155].
Người Miến sau 4 lần đẩy lùi quân Trung Quốc xâm lược cuối cùng cũng bị
thực dân Anh đánh bại năm 1886 sau ba cuộc chiến tranh 1824, 1852 và 1886. Vị
vua cuối cùng của Myanmar bị bắt và bị đày đi Ấn Độ và Anh đã dựng nên chính
quyền thuộc địa ở Rangoon trực thuộc người Anh ở Delhi. Myanmar chính thức
được sát nhập vào Anh ngày 1/1/1886.
Tác động của Anh trên xứ Miến Điện là rất sâu sắc. Chế độ quân chủ đã bị
xóa bỏ và giới quý tộc Miến Điện bị tước hết quyền lực. Myanmar được cai trị từ
16
Calcutta như một tiểu khu vực của đế quốc Anh-Ấn. Vùng đất thấp Myanmar, vốn
là những đồng bằng màu mỡ, là cái nôi của người Miến Điện và là trái tim của các
vương quốc Miến Điện, được cai trị trược tiếp bởi chính phủ thuộc địa với đầy đủ
các chính sách chính trị và kinh tế của Anh.
Phong trào giải phóng dân tộc ở Myanmar chống lại chế độ thuộc địa được
bắt đầu với việc thành lập Hiệp hội Thanh niên Phật giáo Miến năm 1906. Hiệp hội
đã lập các trường học trong đó giáo lý Đạo Phật được sử dụng thay cho kinh thánh
của Thiên chúa giáo do thực dân Anh đưa vào các trường học Myanmar. Nhiều
thành viên của Hiệp hội nảy trở thành lãnh tụ của các chính đảng được thành lập ở
Myanmar. Trong những năm 1930, nhiều chính đảng được thành lập trong đó quan
trọng nhất là đảng Thakin (đảng của những người làm chủ), thành lập năm 1929. Kể
từ khu thành lập, đảng này đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc
lập của Myanmar. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, đảng có sự phân hóa
“Đảng Thakin bị phân hóa thành ba nhóm. Nhóm những người đi theo chủ nghĩa
cộng sản do Thakin Soe và Thein Pe lãnh đạo thành lập Đảng cộng sản Miến năm
1943. Nhóm do Aung San lãnh đạo đi theo tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Nhóm thứ ba do U Ba Swe và U Nu lãnh đạo không tán thành chủ nghĩa bè phái.
Năm 1940, Aung San đã bí mật sang Thượng Hải để tìm sự giúp đỡ của những
người cộng sản Trung Quốc. Ông đã lập ra Hội ba mươi đồng chí ở Hải Nam. Mặc
dù không ưa Nhật, Aung San đã chấp nhận sự huấn luyện của người Nhật cho các
đồng chí trong hội của ông. Hội ba mươi đồng chí đã trở thành hạt nhân của Quân
đội Độc lập Miến Điện, sau đó đổi tên thành Quân đội Quốc gia Miến Điện. Cùng
với quân Nhật, quân đội Miến từ lãnh thổ Thái Lan tiến vào Mianma, buộc quân đội
thực dân Anh phải bỏ chạy.”[27, tr.165-166].
Khi người Nhật cai trị Myanmar, với những khẩu hiệu “châu Á của người
châu Á” và việc lập một “cộng đồng cùng thịnh vượng” đã có những hiệu quả nhất
định đối với đất nước vốn rất mong muốn thoát khỏi sự cai trị của người da trắng.
Tuy nhiên, những thực tế trong hành xử quyền lực của người Nhật thì khác xa so
với bộ máy tuyên truyền. “Người Đông Nam Á nhanh chóng nhận ra rằng sự thống
17
trị của Nhật không chỉ vơ vét mà còn tàn bạo hơn nhiều so với sự thống trị của các
ông chủ thực dân châu Âu trước đây. Năm 1944, Aung San và các thành viên trong
nhóm “30 đồng chí” thành lập Liên minh tự do của những người chông phát xít để
chống người Nhật và hoạt động cho một nước Myanmar độc lập.” [31, tr.164]. Và
cuối cùng, họ đã thành công, Nhật rút khỏi Myanmar. Tuy nhiên, khi chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc, Anh quay trở lại thống trị Myanmar. Một lần nữa, phong trào
đấu tranh giành độc lập lại bùng nổ dưới sự lãnh đạo của Aung San và các lãnh tụ
khác. Mặt trận thống nhất chống thực dân Anh được thành lập với sự tham gia của
Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Ái quốc,… Trước phong trào đấu tranh của
nhân dân, ngày 17-10-1947 thực dân Anh phải ký hiệp ước trao trả độc lập cho
Mianmar. Tháng 1 năm 1948 Myanmar trở thành một quốc gia độc lập. U Nu được
bầu làm thủ tướng và Sao Shwe Thaik được bầu làm tổng thống.
Sau ngày độc lập, Myanmar vẫn bất ổn chính trị cùng với những cuộc nổi
dậy của các dân tộc thiểu số đòi tự trị và những người cộng sản chọn cách rút vào
hoạt động bí mật, trong đó mạnh nhất là phong trào ly khai của người Karen,
Kachin và Shan [27, tr.167]. Các cuộc nổi dậy này tiếp diễn trong suốt những năm
1990, mặc dù trong những năm gần đây đã có một vài hoạt động hòa giải của
Yangon nhằm dàn xếp với những người nổi dậy và quy mô của những cuộc đụng độ
đã tạm thời giảm bớt. Nguyên nhân của các cuộc khởi nghĩa vẫn tồn tại đó. Nhiều
sắc tộc thiểu số vẫn xem một đất nước Myanmar độc lập như là một nước của người
Miến Điện. Lực lượng cảnh sát quân đội và bộ máy chính quyền là do người Miến
Điện nắm giữ. Các sắc tộc thiểu số cứ lo sợ diễn ra sự đồng hóa và bản sắc văn hóa
đặc thù và riêng biệt của họ bị biến mất.
Những cuộc nổi dậy luôn gây ra những khó khăn cho chính quyền đất nước.
Các kế hoạch phát triển kinh tế được tiến hành nhưng không thu được nhiều kết
quả. Thu nhập ngoại thương giảm sút do sự suy sụp của ngành xuất khẩu gạo và thu
nhập quốc nổi bị sút giảm bởi những cuộc nổi loạn. Để đối phó với hoạt động vũ
trang của các lực lượng đối lập, quân đội được sử dụng làm công cụ cai trị đất nước.
Điều này thể hiện qua sự kiện tướng Ne Win làm đảo chính lật đổ chính phủ dân sự
18
của thủ tướng U Nu, thiết lập chính phủ quân sự tháng 3 năm 1962. Chính phủ của
Ne Win tuyên bố: “xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tất cả các
đảng phái khác bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Năm 1974, Hiến pháp mới của
Myanmar được thông qua đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Miến
Điện” [27, tr.169]. Những thay đổi về thể chế chính trị này vẫn không cải thiện
được tình hình của đất nước. Sự không ổn định của tình hình trong nước thêm vào
đó là tệ tham nhũng, cưa quyền lan tràn trong xã hội đã làm cho đất nước lâm vào
cảnh khó khăn và những nỗ lực của nhà nước không những không cải thiện được
tình hình mà trái lại còn đẩy đất nước lún sau vào cuộc khủng hoảng kinh tế trong
đó đời sống của một bộ phận lớn tầng lớp dân nghèo ngày càng khó khăn. Những
cuộc biểu tình hàng loạt diễn ra. Tháng 7/1988, Ne Win phải từ chức thủ tướng rồi
đến Sein Lwin, Maung Maung lên thay cũng không làm thay đổi được tình hình.
Ngày 24/9/1988 Saw Maung làm cuộc đảo chính quân sự thiết lập một chính
quyền mới dưới tên gọi Hội đồng Khôi phục trật tự và luật pháp nhà nước. Chính
quyền của ông đã bãi bỏ đường lối xã hội chủ nghĩa và chế độ một đảng của chính
quyền trước. Một năm sau, các đảng phái chính trị được phép đăng kí hoạt động. Sự
chống đối của các đảng phái làm cho tình hình chính trị Myanmar thêm nóng bỏng
và tiếp tục căng thẳng trong nửa đầu thập niên 1990. Trong bối cảnh đó, Hội đồng
Khôi phục trật tự và luật pháp nhà nước đã cố gắng tìm cách giải quyết vấn đề và có
một số kết quả nhất định. Ví dụ như chính phủ Myanmar đã đạt được thỏa thuận
ngừng bắn với quân đội độc lập Kachin tháng 10/1993, quân đội của người Shan
1994, [27, tr.171-172]… Tháng 11/1997, Hội đồng Khôi phục trật tự và luật pháp
nhà nước đổi tên thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển nhà nước. Việc đổi tên này
thể hiện khuynh hướng chú trọng hơn vào việc ổn định và phát triển đất nước của
các nhà lãnh đạo. Đồng thời với việc cải thiện tình hình trong nước, từ giữa thập
niên 1990, chính phủ Myanmar đã có nhiều cố gắng để cải thiện quan hệ đối ngoại,
tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế để hỗ trợ phát triển trong nước. Cũng từ đây,
quá trình phát triển của Myanmar và hội nhập khu vực cũng như quốc tế từng bước
được thực hiện.
- Xem thêm -