Trêng §¹i häc Vinh
Khoa gi¸o dôc chÝnh trÞ
********************
TrÇn v¨n tïng
N©ng cao chÊt lîng ®éi ngò trÝ thøc ë huyÖn
qu¶ng x¬ng (thanh hãa) hiÖn nay díi ¸nh
s¸ng t tëng hå chÝ minh
khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
ngµnh: cö nh©n chÝnh trÞ - luËt
Lời cảm ơn
1
Trong quá trình làm khoá luận này, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi còn
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Hội đồng khoa học khoa Giáo dục
chính trị, các thầy cô giáo trong Tổ bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh; Sự khích lệ,
động viên, chia sẻ của gia đình, bạn bè và của người thân; Đặc biệt là sự dẫn
dắt chu đáo, nhiệt tình của cô giáo, Ths.Bùi Thị Cần - người trực tiếp giúp tôi
làm khoá luận này. Chính sự hướng dẫn nhiệt tình và những tình cảm quý báu
đó đã động viên, thôi thúc, giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt khoá luận của
mình.
Chính vì thế, nhân dịp này cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành
tới Hội đồng khoa học của khoa Giáo dục chính trị, các thầy cô giáo trong
khoa, tới gia đình, bạn bè, người thân và đặc biệt là cô giáo, Ths.Bùi Thị Cần.
Trong quá trình thực hiện khoá luận, mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc
chắn có những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo và góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Trần Văn Tùng
MỤC LỤC
2
Trang
Mở đầu ........................................................................................................... 05
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức ............................................ 12
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức ................................................... 12
1.2. Nội dung xây dựng đội ngũ trí thức theo quan điểm của Hồ Chí Minh ..... 22
Chương 2: Xây dựng đội ngũ trí thức huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
dưới sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh .................................................... 43
2.1. Tinh hình xây dựng đội ngũ trí thức huyện Quảng Xương - Thanh Hoá ... 43
2.2. Định hướng và một số giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức
Quảng Xương - Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .........................62
Kết luận ..................................................................................................................80
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................83
Phụ lục .....................................................................................................................84
MỞ ĐẦU
3
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là một nội dung quan trọng trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá
rất cao vai trò của đội ngũ trí thức. Người luôn quan tâm đến công tác giáo dục,
bồi dưỡng và tạo điều kiện để trí thức tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự
nghiệp cách mạng. Theo Người: “Trí thức không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí
thức mà thôi”[26; 36]. Tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng
cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên mục tiêu, nội dung của công tác xây dựng,
bồi dưỡng đội ngũ trí thức cho phù hợp. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh,
hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức. Đảng ta khẳng định: “Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng
tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri
thức”[04; 81].
Trước tình hình thế giới đang có những biến chuyển nhanh chóng, phức
tạp. Khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, quá trình quốc tế hoá và toàn
cầu hoá diễn ra ngày một nhanh chóng, luôn đặt ra những thuận lợi cơ bản và
những thách thức to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia - dân
tộc. Ở nước ta, toàn Đảng, toàn dân đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phát triển nền “kinh tế tri thức”, xem khoa học - công
nghệ, giáo dục - đào tạo là thành phần quan trọng, quyết định trong chiến lược
phát triển đất nước nhanh và bền vững. Tình hình đó đặt ra yêu cầu ngày càng
cao về chất lượng nguồn nhân lực nói chung và yêu cầu, trách nhiệm của mỗi trí
thức đối với sự nghiệp đổi mới đất nước lại trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Đảng ta nhận định: “Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực
đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát
triển”[04; 81]. Chính vì vậy, một trong những mục tiêu cơ bản Đảng ta đề ra
trong Hội nghị Trung ương 7, khoá X là: “Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí
thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các
nước trong khu vực và trên thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước
4
với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí”[04; 90].
Hưởng ứng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, trong thời gian qua, công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức tại
huyện Quảng Xương - Thanh Hoá luôn được các cấp, các ngành, các tổ chức
quan tâm thực hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, công
tác xây dựng đội ngũ trí thức ở huyện Quảng Xương - Thanh Hoá trước yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá còn có nhiều vấn đề cần được
quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu: một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận
thức đúng về vai trò, vị trí của trí thức, đánh giá sử dụng trí thức không đúng
năng lực và trình độ, coi trọng vốn tiền, vật chất mà chưa coi trọng nguồn nhân
lực có trình độ cao… Đồng thời, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu
khoa học đồng bộ về công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức huyện
Quảng Xương - Thanh Hoá. Vì vậy mà việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức chưa đúng với tiềm năng, chưa đầy đủ,
không thường xuyên, thiếu sáng tạo và có khi mang tính chất hình thức.
Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng, vai trò của đội ngũ trí thức cũng
như công tác đào tạo con người mới trong xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, cùng
với việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới của các h mạng, từ chủ trương của Đảng và
Nhà nước thì việc học tập, quán triệt sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa nhằm đáp ứng yêu
cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn, cấp thiết và lâu dài.
Với những lý do cơ bản trên, tôi chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng đội
ngũ trí thức ở huyện Quảng Xương (Thanh Hoá) hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
5
Vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ, khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu chung nhất, cơ bản nhất của các công trình
nghiên cứu đều hướng tới vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa với sứ
mệnh lịch sử: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và mai sau. Đó cũng chính là việc chăm lo
xây dựng và phát triển thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Các
công trình đều đề cập đến nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng và phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là về giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ
và thanh niên. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức, trên cơ sở thực tiễn trí thức Việt Nam ngày nay chủ yếu là thế hệ trẻ
đang còn trong môi trường học đường, đồng thời cũng là vì mục tiêu sâu xa hơn
là muốn xây dựng được đội ngũ trí thức chất lượng tốt thì phải chuẩn bị và bắt
đầu sớm nhất có thể, từ khâu đơn giản nhất đến phức tạp nhất trong quá trình
hình thành, trưởng thành của mỗi trí thức, tức là bắt đầu từ những cấp học như
mầm non, tới trung học cơ sở, trung học phổ thông cho tời đại học và sau đại
học. Do đó, việc nghiên cứu về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức về cơ bản
nhất vẫn là nằm trong việc giáo dục và phát triển thế hệ trẻ và thế hệ thanh niên
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
đội ngũ trí thức với nhiều góc độ, quy mô khác nhau, với các hình thức khác
nhau như các luận văn, luận án, sách, các bài nói, tài liệu, tạp chí… trong đó có
một số công trình khoa học đã đề cập đến các nội dung mà khóa luận cần nghiên
cứu, tham khảo và kế thừa:
Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học,
nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1995.
Nguyễn Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1990.
Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
6
Nguyễn Đình Hoà, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, Tạp chí Cộng sản số 775/2007.
PGS.TS.Phan Thanh Khôi, Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa
Mác về trí thức, trong cuốn “Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất
nước hiện nay, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999.
Trịnh Quốc Tuấn, Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với trí thức
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nghiên cứu lý luận, số 4/1995.
Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 2/2001.
Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức, Tạp chí Thông tin
khoa học xã hội, số 4/1996…
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả chủ yêu đi sâu nghiên
cứu về các khái niệm trí thức, vai trò và vị trí của trí thức đối với sự phát triển
của xã hội nói chung, bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các
chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên
minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức… theo quan
điểm của các nhà Mácxít và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các tác phẩm cũng nghiên
cứu thực tiễn phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ mới. Trên cơ sở
đó, các tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị để xây dựng và phát triển đội ngũ
trí thức Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các tác phẩm khác như:
Đỗ Mười, Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước,
nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
GS.Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Định hướng phát triển đội ngũ trí thức
Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001.
7
PTS.Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch, Trí thức trong công cuộc đổi
mới đất nước, nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1998.
TS.Đoàn Minh Duệ, Trí thức Nghệ An trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nhà in Báo Nghệ An, 2005…
Đây là các công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức
Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, các tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm
hiện đại về “trí thức”, nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử, khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới,
phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt Nam: thực trạng, số lượng,
cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức. Trên cơ sở đó, các tác
giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu
cầu và nhiệm vụ cách mạng ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, có một số luận văn, luận án đã nghiên cứu về vị trí, vai trò,
đặc điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam
như:
Phạm Việt Dũng, Vị trí và vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ Triết học, Hà Nội,
1988; Trịnh Quang Cảnh, Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công
cuộc đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2001; Nguyễn Đình Minh,
Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2003; Nguyễn
Xuân Phương, Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2004…
Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình
nghiên cứu cụ thể về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ trí
thức Quảng Xương - Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
Mục đích:
8
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức
và thực trạng phát triển của đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa, Khóa
luận nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Quảng
Xương - Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Trình bày khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội
ngũ trí thức đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Phân tích những đặc điểm cơ bản, thực trạng của đội ngũ trí thức Quảng
Xương - Thanh Hóa và xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát
huy vai trò đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức và nghiên cứu đội
ngũ trí thức huyện Quảng Xương - Thanh Hóa, nhất là đặc điểm, vai trò của đội
ngũ này trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu cơ bản trong phạm vi tư tưởng
Hồ Chí Minh về trí thức và nghiên cứu về quá trình xây dựng và phát triển đội
ngũ trí thức ở Quảng Xương - Thanh Hóa trong thời gian từ 2005 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
9
5.1. Cơ sở lý luận: Khóa luận được triển khai trên cơ sở các quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng đội ngũ trí thức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử
với logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra thực tế... để thực
hiện Khóa luận này.
6. Đóng góp khoa học của khóa luận
Khóa luận góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, từ
đó nhận định đúng đắn, khách quan về công tác xây dựng đội ngũ trí thức tại
huyện Quảng Xương - Thanh Hóa, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác xây dựng đội ngũ trí thức về chất lượng cũng như số lượng của
đội ngũ trí thức Quảng Xương - Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Khóa luận cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp cho các cấp,
ngành liên quan trong việc xây dựng đội ngũ trí thức, góp phần làm luận cứ
khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức Quảng Xương Thanh Hóa. Khóa luận có thể dùng làm tài liệu hữu ích giúp cho những người có
yêu cầu và mối quan tâm cần nghiên cứu được thuận lợi và sát thực, cũng như
việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề liên quan đến trí thức trong các môn
lý luận chính trị Mác-Lênin.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 2 chương, 4 tiết.
NỘI DUNG
10
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về trí thức
1.1.1. Khái niệm trí thức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm
khoa học và toàn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa văn hoá dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người”[14; 19]. Trong hệ thống quan điểm toàn diện đó, tư tưởng về xây
dựng, phát triển đội ngũ trí thức cũng như sử dụng, quản lý, lôi cuốn trí thức vào
sự nghiệp đấu tranh cách mạng chung của dân tộc có vị trí, vai trò quan trọng
không chỉ về mặt lý luận mà còn về thực tiễn trong Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và đặc biệt là trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu
học, ông ngoại của Bác là một cụ Đồ thanh bạch mở lớp dạy học trong làng.
Thân phụ Bác Hồ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, đồng thời cũng là người
thầy khai tâm cho Bác. Người lại được học từ các thầy giáo nổi tiếng trong vùng
về trình độ học vấn và tư cách đạo đức như thầy Vương Thúc Độ, Vương Thúc
Quý, Hoàng Văn Quỳnh…
Cùng với đó là truyền thống hiếu học của miền quê xứ Nghệ, cộng với
những ảnh hưởng to lớn có tính định hướng hành động cứu nước của cả một hệ
trí thức cuối thế kỷ XIX ngay trên quê hương Nghệ - Tĩnh với các nhà tư tưởng
lớn như cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cùng các bạn đồng tâm, đồng chí
như Đặng Thái Thân, Đặng Nguyên Cẩn… Tất cả đã giúp cho cậu học sinh
Nguyễn Sinh Cung từ rất sớm đã gắn với học vấn, với trí thức, có điều kiện nhận
thức đúng đắn về tư cách và đạo đức cũng như vai trò của người trí thức chân
chính đối với dân, với nước.
11
Sau này, khi vào Huế (1906) học các trường Pháp - Việt do thực dân Pháp
mở với mục đích đào tạo một đội ngũ công chức, nhân viên hợp tác trung thành
với chúng trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân ta, Người lại có thêm cơ hội để
kiểm nghiệm giá trị của người trí thức nói chung và người trí thức dân tộc nói
riêng. Trái với âm mưu đen tối của thực dân phong kiến và tay sai, ngay trong
các nhà trường này, không hiếm gì những thầy giáo tuy hoàn cảnh bó buộc phải
làm việc cho kẻ thù cướp nước mà vẫn giữ tư cách, phẩm chất người trí thức
chân chính gắn bó với dân, với nước qua công việc hàng ngày của mình. Dưới
sự kiểm soát ngặt nghèo của kẻ thù và bè lũ tay sai, các thầy vẫn âm thầm tìm
cách hâm nóng tinh thần yêu nước thương nòi, lòng căm giận bè lũ cướp nước
và bán nước, nuôi dưỡng trong tâm hồn đám học sinh non trẻ của mình ý thức
trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước, số phận nhân dân. Gương sáng của thầy
giáo Lê Văn Miến, một trí thức tây học ở Pháp về dạy ở trường Quốc học Huế,
đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các học sinh, trong đó có Nguyễn Tất Thành.
Người càng thêm củng cố nhận thức về chức năng, vai trò của người trí thức
chân chính gắn bó mật thiết với nhân dân, với đồng bào, hết lòng phấn đấu cho
hạnh phúc của nhân dân, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Để rồi trên đường
vào Nam (1910), khi dừng chân một thời gian ở Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành
đã bước đầu thực nghiệm đảm nhiệm vài trò của một trí thức dân tộc khi dạy học
tại trường Dục Thanh (Phan Thiết).
Năm 1911, bắt đầu xuất dương bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã có
dịp làm quen, kết bạn và cùng hoạt động với rất nhiều trí thức tiến bộ khắp năm
châu bốn biển, ngay cả tại nước Pháp thực dân. Người đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin và Người đã nhận biết được rằng, các nhà kinh điển Mácxít cũng đã
dành rất nhiều thời gian và trí tuệ để nghiên cứu, chỉ rõ vai trò quan trọng của trí
thức đối với phát triển xã hội nói chung và đối với sự nghiệp cách mạng nói
riêng.
Người đã học tập, thấm nhuần những quan điểm khoa học cơ bản của các
nhà Mácxít khi nghiên cứu về đội ngũ trí thức như: “Tôi dịch người trí thức,
12
tầng lớp trí thức theo nghĩa Đức là Literatliteratentun, bao gồm không chỉ các
nhà văn hoá học mà tất cả những người có văn hoá, những người làm nghề tự do
nói chung, những người đại biểu trí óc, để phân biệt với những đại biểu lao động
chân tay”(V.I.Lênin)[15; 309], trí thức “…bao hàm không chỉ những nhà trước
tác mà thôi, mà còn bao hàm mọi người có học thức, các đại biểu của những
nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc”(V.I.Lênin)[15; 372],
“Người trí thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực
theo lối này hay lối khác, mà bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính
là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá
nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất của cá nhân họ, cho nên mới có thể
đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn tự do
biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết
quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một
cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa
nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng chứ không phải đối với những nhân
vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào hàng ngũ những nhân vật được
lựa chọn”[15; 373].
Bên cạnh đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, đội ngũ trí thức là “tầng lớp xã
hội đặc biệt, là một bộ phận tiêu biểu nhất trong lực lượng lao động trí óc. Họ là
những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, chủ yếu về mặt lý thuyết và
tinh thần. Nhưng những giá trị lý thuyết và tinh thần đó lại càng được ứng dụng
vào sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, quy định năng suất, chất lượng
hiệu quả của tốc độ sản xuất kinh tế đời sống xã hội, xã hội càng hiện đại, đặc
biệt là xây dựng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, vai trò của trí thức
ngày càng quan trọng. Và trên thực tế, trí thức ngày càng gắn bó với nền sản
xuất hiện đại, với giai cấp công nhân”[29; 166].
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh hoa văn hoá dân tộc và thời đại, Hồ
Chí Minh đưa ra định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ
có hai thứ hiểu biết: Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên
13
do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã
hội do đó mà ra. Ngoài hai cách đó, không có tri thức nào khác. Một người học
xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết
làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại:
Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Tri thức
của y là tri thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một
người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem tri thức đó áp dụng vào thực tế”[24; 235].
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa toàn diện và sâu sắc
về trí thức. Trong định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí thức được phản ánh
mang tính chất toàn diện nhất, đảm bảo tính khoa học, tính tiên tiến của thời đại.
Về lý luận, trí thức phải có hiểu biết (có tri thức). Hai lĩnh vực về hiểu biết mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra mang tính chất toàn diện: từ khoa học tự nhiên đến
khoa học xã hội; về thực tiễn, trí thức chỉ thực sự là trí thức khi vận dụng được
những tri thức mình có vào thực tiễn đấu tranh cho phát triển khoa học - kỹ
thuật, đấu tranh cho dân tộc và cho tiến bộ, phát triển xã hội, tức là cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người.
1.1.2. Vai trò và vị trí của trí thức theo quan điểm của Hồ Chí Minh
1.1.2.1.Vai trò và vị trí của trí thức trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trò của trí thức
rất lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội loài
người và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, đã đánh giá cao vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức đối với phong trào
cách mạng. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công
nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh
với các giai cấp và tầng lớp lao động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân,
đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.
14
Cũng như những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận biết rõ tầm quan trọng của nhận thức, học vấn, sự hiểu biết của con người
nói chung và của trí thức nói riêng đối với tiến trình phát triển của xã hội, đặc
biệt với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội và giải phóng con người.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Trí thức Việt Nam là tầng
lớp có học thức, kiến thức, hiểu biết, có tinh thần yêu nước nồng nàn và có ý
thức dân tộc cao, trí thức Việt Nam là một bộ phận trong lực lượng cách
mạng”[27; 216]. Theo Người: “Trí thức Việt Nam trước đây tuy được đào tạo
dưới chế độ cũ và tuy xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, nhưng trí thức
nói chung đều bị đế quốc và phong kiến áp bức. Vì vậy, trí thức Việt Nam có óc
dân tộc và đầu óc cách mạng. Vì có đầu óc dân tộc và vì có học thức nên xem
được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách
mạng Pháp nên dễ hấp thu tinh thần cách mạng… Cũng vì vậy, lúc đã hiểu biết,
trí thức ta dễ theo cách mạng, và vì vậy, Đảng cách mạng phải dìu dắt giúp đỡ trí
thức của ta dựa vào phe cách mạng, phe công nông”[26; 34].
Hơn nữa, ở vào giai đoạn lịch sử cụ thể của những thập niên đầu thế kỷ
XX, trí thức yêu nước Việt Nam cũng như trí thức tiến bộ trong các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa đã vươn lên trở thành những chiến sỹ tiên phong trong
phong trào cách mạng. Chính Quốc tế Cộng sản cũng đã nhận định, ở các nước
thuộc địa, tầng lớp trí thức hạng nhỏ và hạng trung thường là một bộ phận đảm
nhận sứ mệnh lịch sử là tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin.
Do đó mà Nguyễn Ái Quốc luôn quan tâm, nâng đỡ, đào tạo và tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho trí thức tham gia hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng
chung của toàn dân tộc. Đánh giá đúng và tin tưởng vào tầng lớp trí thức Việt
Nam, ngày 11/11/1924, với danh nghĩa là phái viên của Quốc tế Cộng sản,
Người từ nước Nga đến Quảng Châu (Trung Quốc) để thực hiện mục đích đào
tạo lớp cán bộ trí thức và cán bộ công nông cho cách mạng Việt Nam; chuẩn bị
về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách mạng chân chính
15
ở Việt Nam. Đầu năm 1925, Người mở lớp huấn luyện chính trị. Phần lớn học
viên là những người Việt Nam yêu nước, xuất thân từ học sinh trí thức, một số
người là tú tài nho học. Trong chương trình học, Người đã đề cập tới phong trào
cách mạng thế giới; phong trào cách mạng Việt Nam; phương pháp vận động
cách mạng. Trong phương pháp vận động cách mạng, Người nêu phương pháp
vận động nông dân, công nhân, trí thức. Đối với trí thức, Người nhấn mạnh đến
vai trò, đặc điểm, tâm lý của trí thức Việt Nam và cách sử dụng trí thức. Với kết
quả hơn 200 học viên được đào tạo, đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách
mạng nước ta lúc đó với tên tuổi của các nhà trí thức - cách mạng như: Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Phạm Văn Đồng…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dựa trên thực tiễn xã hội Việt Nam, một đất
nước, một xã hội mà trong đó chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của
dân tộc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và được
đánh dấu bằng nhiều sự kiện lịch sử oai hùng, điều đó đã khẳng định về tinh
thần, lòng tự hào, truyền thống dân tộc của trí thức Việt Nam; Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm chỉ ra rằng: “Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, mà giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội ở Việt Nam chính
là giải phóng nông dân vì nông dân nước ta chiếm khảng 95% dân số”. Bởi vậy,
Bác nói: “Công nông là gốc của cách mạng,… Nhưng cách mạng cũng cần có
lực lượng trí thức…, trong sự nghiệp cách mạng lao động trí óc có một vai trò
quan trọng và vẻ vang”[19; 78].
Chứng minh vai trò của trí thức trọng thực tiễn cách mạng, Người nói:
“Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt
Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì tham gia vào công việc kháng
chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội, nhân dân. Một số thì
hăng hái giúp đỡ ở ngoài”[24; 156], “… Chúng ta có quyền tự hào rằng, những
người lao động trí óc ở Việt Nam đứng trong hàng ngũ kháng chiến”[24; 197].
Chính vì vậy, khi chủ trì việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa ra Sách
lược vắn tắt của Đảng, Người nhấn mạnh nhiệm vụ của Đảng là: “Phải hết sức
16
liên lạc với tiểu tư sản trí thức…để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”; Chương
trình tóm tắt của Đảng khẳng định: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản trí thức… về phía
giai cấp vô sản”[09; 32]. Đặc biệt, sau khi sáng lập Việt Nam độc lập đồng minh
hội (Việt Minh, 1941), trong 10 chính sách Việt Minh và trong Kính cáo đồng
bào, Nguyễn Ái Quốc đã đưa các “Hiền nhân, chí sĩ” lên hàng đầu. Trong Thư
gửi đồng bào toàn quốc (10/1944), Người nhấn mạnh tới tầm quan trọng của đại
đoàn kết dân tộc: “Phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và
hoạt động nhất trí của toàn thể quốc dân ta”[22; 505]. Cơ cấu đó đã bao gồm cả
tầng lớp nhân sỹ trí thức. Vì: “Không có những trí thức tham gia cách mạng,
tham gia kháng chiến thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều…”[24; 235].
Người đã lập nhiều tổ chức của trí thức như: Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam
(1944); Đảng dân chủ Việt Nam (1944)… để tập hợp, lôi kéo và hướng trí thức
vào phục vụ cách mạng.
Từ thế kỷ XI, trên Bia văn miếu Quốc tử giám đã ghi: “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia”, và dĩ nhiên, nguyên khí mạnh thì đất nước thịnh, nguyên
khí yếu thì đất nước suy. Vai trò của trí thức dân tộc không những đã được lịch
sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước chứng minh và được Chủ tịch Hồ Chí
Minh vận dụng sáng tạo trong xây dựng và lôi kéo trí thức phục vụ cho cách
mạng nước nhà. Điều đó càng chứng minh cho lý luận, tầm nhìn xa tài trí của
Người. Trong thế kỷ XX, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam đối với cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân không chỉ được khẳng định bởi thắng lợi của
cách mạng tháng Tám 1945, mà còn khẳng định hơn nữa trong thắng lợi cuối
cùng vào mùa Xuân năm 1975, đánh dấu một bức ngoặt lịch sử quan trọng trong
tiến trình phát triển đất nước.
1.1.2.2. Vai trò và vị trí của trí thức trong kháng chiến kiến
quốc và cách mạng xã hội chủ nghĩa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí thức không những có vai trò to lớn trong
kháng chiến, mà trong kiến thiết đất nước, trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, vai
trò của trí thức cần được chú trọng và phát huy thêm nhiều. Người viết: “Kháng
chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội càng cần, tiến lên chủ nghĩa
17
cộng sản lại càng cần”[23; 359].
Sau khi cách mạng tháng Tám (1945) thành công, trong lời kêu gọi “Nhân
tài và kiến quốc” và “Chỉ thị tìm người tài đức”, Người viết: “Sau 80 năm bị
thực dân Pháp giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt
sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem
hết lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến
quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công, Kiến quốc có
chắc chắn thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân
tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn,
khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển, càng thêm nhiều…
Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc
phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí. Bây giờ xây dựng kinh
tế, không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì
cũng không nói gì đến kinh tế - văn hóa”[23; 36]. Vì: “… để hoàn thành nhiệm
vụ kháng chiến, ngoài việc quân sự, ắt phải phát triển kinh tế, cho nên cần
những người chuyên môn thông thạo về công nghệ và nông nghiệp. Cần phát
triển giao thông vận tải nên cần có những kỹ sư thông thạo việc đắp đường, bắc
cầu. Cần giữ gìn sức khoẻ của nhân dân, cho nên cần thầy thuốc. Cần đào tạo
cán bộ cho mọi ngành, cho nên cần thầy giáo… Do đó, lao động trí óc (trí thức)
có nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công
cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vậy chúng tôi mong rằng đồng bào ta, ai có tài năng và sáng kiến về
những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch
rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng,
có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”[23; 57].
Mở đầu bản Chỉ thị tìm người tài đức, Bác Hồ khẳng định vai trò to lớn
của nhân tài: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài.
Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài đức”. Và với tư cách
“Chủ tịch Chính phủ Việt Nam” lúc bấy giờ, Bác tự nhận khuyết điểm đã không
18
thấy hết được các bậc hiền tài, khiến cho họ không thể xuất thân: “E vì Chính
phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất
thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”[23; 67]. Tiếp đó, Bác giao nhiệm vụ
cho các địa phương phải nhanh chóng tìm những người tài đức và báo cáo ngay
cho Chính phủ: “Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng,
các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được
những điều ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”[23; 192].
Người luôn nhắc nhở Đảng và Chính phủ không những phải liên kết chặt
chẽ với trí thức, lôi kéo trí thức tạo nền tảng vững mạnh công - nông - trí mà còn
phải tôn trọng, trọng dụng, khuyến khích trí thức, tạo mọi điều kiện để trí thức
tham gia vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.
Vững vàng quan điểm và lập trường của mình, sau khi cách mạng tháng
Tám (1945) thành công, Người đã tạo mọi điều kiện và thu hút đông đảo tầng
lớp nhân sỹ, trí thức theo cách mạng, hoà mình với nhân dân đấu tranh vì sự
nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Nhiều chính sách lớn đã được kịp thời ban
bố nhằm mục đích tập hợp rộng rãi hơn và sử dụng ở mức cao nhất năng lực của
tầng lớp các nhân sỹ, trí thức, bao gồm các giới văn nghệ sỹ, các nhà hoạt động
khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến
thiết cần phải có nhân tài. Chính sách của Chính phủ trước sau vẫn là đại đoàn
kết. Đối với các vị quan lại cũ, cũng như đối với tất cả các giới đồng bào, những
người có tài, có đức thì Chính phủ đều hoan nghênh ra gánh vác việc nước”[23; 451].
Người nói: “Đảng cách mạng lại càng trọng trí thức, cách mạng rất cần trí thức
và chính ra chỉ cách mạng mới biết trọng trí thức”[24; 32]. Nhưng trọng trí thức
như thế nào? Không phải tất cả đều trọng, Người nhấn mạnh: “Trí thức đáng
trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”[26; 32]. Người
đưa ra ví dụ rất rõ ràng: “Lần đầu tiên ta có cuộc bầu các anh hùng, chiến sĩ lao
động. Trong bảy anh hùng lao động có một anh hùng trí óc là chú Nghĩa. Trong
150 chiến sĩ lao động, có hơn mười chiến sĩ lao động trí óc”[26; 33].
19
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội là gắn liền với
khoa học - kỹ thuật hiện đại, cho nên Người càng nhấn mạnh thêm vai trò của trí
thức, Người viết: “Ra sức đào tạo thật nhiều cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cần
thiết cho sản xuất và phát triển. Chỉ có như thế, chúng ta mới xây dựng thắng lợi
Chủ nghĩa xã hội”[24; 145], Người nhắc lại tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ
III của Đảng, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến kiến thức khoa
học và kỹ thuật…, ra sức đào tạo các cán bộ khoa học và xây dựng các cơ sở
nghiên cứu khoa học; mở rộng hợp tác với các nước anh em trong việc nghiên
cứu khoa học kỹ thuật. Chính vì vậy, Người đã trực tiếp cùng với Thường vụ Bộ
chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng xem xét, phê duyệt quy hoạch xây
dựng phát triển trường Đại học Bách khoa Hà Nội do các chuyên gia Liên Xô
giúp ta xây dựng. Ngay từ khoá tốt nghiệp đầu tiên (1961 đến năm 1968) đã ba
lần Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và làm việc với thầy trò trường Đại học Khoa
học và Công nghệ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính nơi đây
Người đã căn dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học
tốt”[24; 155]. Vì: “Địa vị những người trí thức ái quốc Việt Nam sẽ là cùng với
toàn thể đồng bào, kiến thiết một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam
thống nhất và độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc”[24; 156].
Trong bài nói chuyện tại lớp Nghiên cứu chính trị khoá I, trường Đại học
Nhân dân Việt Nam, ngày 21/7/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân… Nhưng cách
mạng cũng cần có lực lượng của trí thức (chúng ta quen gọi là lao động trí
óc),…. Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao
động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công - nông - trí cần phải
đoàn kết chặt chẽ thành một khối”, “… là một bộ phận trong lực lượng cách
mạng, trí thức có nhiệm vụ thi đua phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy,
Đảng và Chính phủ ta rất quý trọng những người trí thức của nhân dân, vì nhân
dân”[27; 214 - 216].
1.2. Nội dung xây dựng đội ngũ trí thức theo quan điểm của Hồ Chí Minh
20
- Xem thêm -