Mục lục
Lời nói đầu
Phần I.
Trang
2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍCH LŨY TƯ BẢN
I. Thực chất của tích lũy tư bản và các nhân tố quyết định
quy mô tích lũy tư bản
1. Giá trị thặng dư - nguồn gốc của tích lũy tư bản
3
2. Những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản
4
II. Quy luật chung của tích lũy tư bản
1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của 5
tư bản
2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư 6
bản ngày càng tăng
3. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp 7
vô sản
Phần II
VẬN DỤNG LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀO THỰC
TIỄN VIỆT NAM
I. Tại sao phải tích lũy vốn
II. Thực trạng vấn đề tích lũy vốn ở Việt Nam
III. Các giải pháp thúc đẩy quá trình tích lũy ở Việt Nam
1 .Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng
2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút
vốn đầu tư nước ngoài
Kết luận
Tài liệu tham khảo
9
10
11
12
12
14
15
Lời nói đầu
1
Tích luỹ tư bản là một yếu tố quan trọng - quyết định đối với sự
hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, một hệ thống các nước
tư bản đầu tiên thế giới đã hình thành và phát triển vô cùng mạnh mẽ mà
lịch sử đã cho thấy rằng cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, tíchluỹ nguyên thuỷ
đã diễn ra sôi động ở các nước phương Tây và nền kinh tế - xã hội của các
nước này phát triển vô cùng mạnh mẽ. Như vậy chúng ta có thể khẳng định
rằng tích luỹ tư bản còn là sự đòi hỏi khách quan của bất cứ một giai đoạn
phát triển nào ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.Nếu không tích luỹ và huy
động nguồn lực tư bản cho quốc gia mình thì nền kinh tế xã hội quốc gia đó
sẽ không phát triển mạnh mẽ và cường thịnh được.
Đối với Việt Nam tích lũy luôn là điều kiện tiên quyết để tái sản
xuất mở rộng. Có tích lũy mới có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển, đưa đất nước vững vàng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta đã lựa chọn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang
tiến hành công cuộc CNH-HĐH thì nhu cầu về vốn để xây dựng các công
trình nền tảng và cải tiến kỹ thuật áp dụng khoa học tiên tiến lại càng cần
thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Chính vì tính chất quan trọng đó của tích lũy tư bản (vốn) mà
trong bài tiểu luận: “Tích lũy tư bản và việc vận dụng vào thực tiễn Việt
Nam” này em sẽ trình bày xung quanh vấn đề tích lũy, làm rõ hơn bản
chất, quá trình thực hiện nó và áp dụng lý luận này vào thực tiễn nền kinh
tế Việt Nam. Bài viết gồm hai nội dung chính:
Phần I: Lý luận chung về tích lũy tư bản
2
Phần II: Vận dụng lý luận tích lũy tư bản vào thực tiễn Việt
Nam
Phần I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍCH LŨY TƯ BẢN
I. Thực chất của tích lũy tư bản và các nhân tố quyết định
quy mô tích lũy tư bản
1.Giá trị thặng dư - nguồn gốc của tích lũy tư bản
“Tích lũy là sự chinh phục thế giới của cải”(1)
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản
xuất. Do vậy bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào nếu xét theo tiến trình đổi
mới không ngừng của nó, thì đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất. Quá
trình này là tất yếu khách quan theo hai hình thức: tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với
quy mô như cũ, đặc trưng cho nền sản xuất nhỏ. Tái sản xuất mở rộng là
quá trình sản xuất lặp lại với quy mô lớn hơn trước, đặc trưng cho nền sản
xuất lớn.
3
Tái sản xuất giản đơn không phải là tái sản xuất điển hình của
chủ nghĩa tư bản mà hình thái điển hình đó là tái sản xuất mở rộng. Muốn
tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản không thể dùng hết giá tri thặng dư cho
tiêu dùng cá nhân, mà phải dùng một phần giá trị thặng dư để tăng quy mô
đầu tư so với năm trước, gọi là tư bản phụ thêm. “Việc sử dụng giá trị thặng
dư làm tư bản hay sự chuyển hóa hay sự chuyển hóa giá trị thặng dư trở lại
thành tư bản gọi là tích lũy tư bản”.(2) Như vậy thực chất của tích lũy tư bản
là sự chuyển hóa một phần giá trị thăng dư trở lại thành tư bản, hay là quá
trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Ví dụ: Một tư bản với: 100, c/v=4/1, m’=100%
Năm thứ nhất có quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m
Nếu tái sản xuất giản đơn, nhà tư bản sử dụng hết 20m cho tiêu
dùng, thì quy mô năm 2 là: 80c + 20v +20m, không thay đổi.
Nếu nhà tư bản không sử dụng hết 20m cho tiêu dùng cá nhân,
mà phân thành 10m dùng để tích lũy và 10m dành cho tiêu dùng cá nhân.
Phần 10m được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất năm 2 sẽ là:
88c + 22v +22m (m’ vẫn như cũ). Như vậy vào năm 2, quy mô tư bản bất
biến và khả biến, giá trị thặng dư đều tăng lên.
Từ đó cho phép ta rút ra được những kết luận vạch rõ hơn bản
chất bóc lột của chư nghĩa tư bản:
Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng
dư và tư bản tích lũy chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.Trong
4
quá trình tái sản xuất, lãi m cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn,
do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để
bóc lột chính người công nhân.
Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền
kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản
không những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là
người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không
ngừng của giá trị. Để thực hiện được điều đó các nhà tư bản không ngừng
tích lũy và tái sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản để bóc lột
công nhân. Mặt khác do tính cạnh tranh quyết liệt nên các nhà tư bản buộc
phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên, điều đó chỉ có thể
thực hiện bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Do đó động cơ thúc đẩy
tích lũy tư bản và tái sản xuất mở rộng chính là quy luật kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư.
2.Những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản
Quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị
thặng dư và tỉ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu
nhập.
Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư vào tiêu
dùng cá nhân nhiều thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích lũy ít đi,
5
khi đó quy mô tích lũy sẽ giảm đi.Ngược lại, việc tiêu dùng ít sẽ làm tăng
khối lượng tích lũy làm quy mô tích lũy tăng lên.
Nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô của tích lũy
tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Bì vậy những nhân tố
quyết định quy mô tích lũy chính là những nhân tố quyết định quy mô của
khối lượng gía trị thặng dư, bao gồm:
-Trình độ bóc lột sức lao động: như tăng cường độ lao động,
kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương công nhân.
- Trình độ năng suất lao động xã hội: việc nâng cao năng suất
lao động sẽ tăng thêm giá trị thặng dư, do sẽ có thêm những yếu tố vật chất
(tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng) để biến giá trị thăng dư thành tư bản
mới, nên làm tăng quy mô tích lũy.
- Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng: Trong
quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ
vào quá trình, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Mặc
dù đã mất đi giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy
móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Máy móc thiết bị càng hiện đại,
thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn,
do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành
tựu của lao đọng quá khứ càng nhiều, dẫn đến quy mô tích lũy tư bản ngày
càng lớn.
6
- Quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không thay
đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết
định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước nhất là bộ phận tư bản khả biến
càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo điều
kiện tăng thêm quy mô tích luỹ tư bản.
II. Quy luật chung của tích lũy tư bản
1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ
của tư bản
Sản xuất bao giờ cùng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: tư liệu sản
xuất và sức lao động. Sự kết hợp của chúng dưới hình thái hiện vật gọi là
cấu tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệulao
động và khối lượng tư bản cần thiết để sử dụng các tư liệu đó. Cấu tạo kỹ
thuật là cấu tạo hiện vật, nên nó biểu hiện dưới hình thức: số lượng máy
móc, nguyên liệu, năng lượng do công nhân sử dụng trong một thời gian
nào đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ theo đó tư bản phân thành tư
bản bất biến và tư bản khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần thiết để
tiến hành sản xuất.
Cấu tạo kỹ thuật thay đổi sẽ làm cấu tạo giá trị thay đổi.C.Mác
đã dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản để phản ánh mối quan hệ
7
đó.Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị tư bản, do cấu tạo kỹ thuật
quyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường
xuyên của tiến bộ khoa học, cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không ngừng
biến đổitheo hướng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó biển hiện ở chỗ: bộ
phận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến, tư bản bất
biến tăng tương đối và tăng tuyệt đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt
đối nhưng lại giảm xuống tương đối.
Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tư
liệu sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc thiết bị là điều
kiện để tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo năng suất lao
động. Nó đòi hỏi việc sử dụng lao động mới được đào tạo với giá trị sức
lao động cao nhưng năng suất lao động tăng cao lại làm cho hàng hóa kỹ
thuật hiện đại giảm xuống. Xu hướng chung là tỷ trọng người lao động có
trình độ cao, lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, gây nên những hậu quả xã
hội tiêu cực đối với toàn bộ đội ngũ người lao động làm thuê.
2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư
bản ngày càng tăng.
Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sản
xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
Tích tụ tư bản và việc tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cách
tích lũy của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích lũy.
8
Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật, mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá
trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng cho tích tụ tư
bản. Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản
lớn cá biệt.Đây là sự tích tụ những tư bản đã hình thành, là sự thủ tiêu tính
độc lập riêng biệt của chúng, là việc nhà tư bản này tước đoạt nhà tư bản
khác, là việc biến tư bản nhỏ thành số ít tư bản lớn.
Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng quy
mô của tư bản cá biệt, nhưng khác nhau ở chỗ nguồn tích tụ tư bản là giá trị
thặng dư tư bản hóa, còn nguồn tập trung tư bản là hình thành trong xã hội.
Do tích tụ tư bản mà tư bản cá biệt tăng lên, làm cho tư bản xã hội cũng
tăng theo. Còn tập trung tư bản chỉ là sự bố trí lại các tư bản đã có quy mô
tư bản xã hội vẫn như cũ.
Tích tụ tư bản thể hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động,
còn tập trung tư bản thì biểu hiện mối quan hệ giữa những nhà tư bản với
nhau. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Nhờ có sự tập trung tư bản mà tổ chức được một cách rộng
lớn lao động hợp tác, biến quá trình sản xuất rời rạc, thủ công thành quá
trình sản xuất theo quy mô lớn, hiện đại.
Tập trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng của
tư bản mà còn làm cho tư bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo hữu
cơ của tư bản tăng lên, nhờ đó năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.
9
Chính vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy tư
bản.
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng được xã hội hóa, làm cho mâu thuẫn
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng trở nên sâu sắc.
3. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai
cấp vô sản
Sự phân tích trên cho thấy, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng
tăng là một xu hướng phát triển khách quan của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Do vậy, số cân tương đối về sức lao động cũng có xu hướng ngày càng
giảm. Đó là nguyên nhân gây ra nạn nhân khẩu thừa tương đối, hay cầu sức
lao động giảm một cách tương đối.
Có ba hình thái nhân khẩu thừa: Nhân khẩu thừa lưu động, nhân
khẩu thừa tiềm tàng, nhân khẩu thừa ngừng trệ.
Nạn thất nghiệp đã dẫn giai cấp công nhân đến bần cùng
hóa.Bần cùng hóa giai cấp công nhân là hậu quả tất nhiên của quá trình tích
lũy tư bản. Bần cùng hóa tồn tại dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt đối và
bần cùng hóa tương đối. Bần cùng hóa tuyệt đối của công nhân biểu hiện
mức sống bị giảm sút. Sự giảm sút này không chỉ xảy ra trong trường hợp
tiêu dùng cá nhân tụt xuống tuyệt đối, mà còn khi tiêu dùng cá nhân tăng
lên, nhưng mức tăng đó chậm hơn mức tăng nhu cầu do chi phí sức lao
động nhiều hơn.
10
11
Phần II
VẬN DỤNG LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀO THỰC
TIỄN VIỆT NAM
Đất nước ta đãđạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát
triển kinh tế, nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá
cao, sản xuất phát triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Để giữđược tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ
thuộc rất nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho nền kinh tế. Nhiều
chuyên gia quốc tế cho rằng Việt Nam muốn phát triển đạt tốc độ theo
hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong nước, tăng cường
nó có hiệu quả với vốn nước ngoài vàđầu tư phải có hiệu quả cao để hệ số
ICOR chỉở mức 2,5 và mức tăng trưởng phải ít nhất là trên 8% một năm,
như vậy thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có thể tăng gấp 45 lần trong vòng một thế hệ. Việt Nam có thể lựa chọn các tình huống tăng
trưởng tuỳ theo mức tích luỹ trong nước và mức đầu tư trên GDP cũng như
hiệu suất sử dụng vốn. Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nền
kinh tế cần huy động tối đa không chỉ nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác
trong dân cư mà còn cần phải huy động các nguồn tài lực, những kinh
nghiệm quản lý, và tất cả các quan hệ bang giao cho sự nghiệp công nghiệp
hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Chúng ta sẽ xem xét thực trạng và giải
pháp tích lũy vốn ở Việt nam hiện nay.
I. Tại sao phải tích lũy vốn
12
Trong đường lối CNH, HĐH đất nước do Đại hội VIII của Đảng
đề ra, vấn đề tích luỹ vốn để tiến hành CNH, HĐH có tầm quan trọng đặc b
iệt cả về phương pháp, nhận thức chỉ đạo thực tiễn. Ai cũng biết rằng để
CNH, HĐH cần phải có vốn.Hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, trong khi đó tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa lại phải cần nhiều vốn để đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng. Tuy đất nước và khu vực đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng nước
ta vẫn là một nước nghèo, chậm phát triển thì vấn đề tích lũy vốn là vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa tiên quyết đối với toàn bộ quá trình
xây dựng, tại đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định: “luôn chủ
trương tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh tế, công nghiệp tích lũy
vốn từ nội bộ kinh tế là chủ yếu”.
Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn phát triển
và đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy vốn
trong nước, tăng cường có hiệu quả với nguồn nước ngoài và đầu tư có
hiệu quả cao. Họ đã tính toán rằng để tốc độ tăng trưởng GDP trung bình
hàng năm khoảng 8-10% thì tổng đầu tư trong nước của Việt Nam phải đạt
từ 20-35%, từ nay đến 2020 để đạt được sự tăng trưởng GDP với tố độ cao
như vậy đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nhưng đất nước ta đang đứng trước một bài toán vô
cùng nan giải đó là tình trạng thiếu vốn về mọi mặt (vốn lao động, vốn tín
dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải giải đáp của nền công nghiệp: muốn
phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân
tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa thì phải
13
đầu tư cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa họ công nghệ vào sản xuất cũng
như xây dựng cơ sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn.
Mặt khác chúng ta đang tiến tới hiệp định GEPT/AFTA (
ASEAN) và tham gia vào khu vực tự do hoá thương mại Châu Á TBD (AP
EC) để đứng vững được chúng ta phải có sức cạnh tranh trên mọi thị trườn
g trong và ngoài nước. Theo Marx “sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu
muốn duy trì tư bản của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng lên m
ãi và hẳn không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày một tăng lên được
nếu không có một sự tích lũy ngày càng nhiều thêm”.
II. Thực trạng vấn đề tích lũy vốn ở Việt Nam
Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn
thì quá trình tích lũy vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp
quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến việc tổ chức doanh nghiệp không thể phát
huy hết khả năng của mình, nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn không đạt
được hiệu quả.
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, đời sống nhân dân đã được cải
thiệ rõ rệt, thu nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so
với nền kinh tế thế giới. Một trong những nguyên nhân chính là thực trạng
tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quy mô vốn của các
doanh nghiệp thấp.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày
01/01/2004, cả nước có 72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số
14
vốn là 1.724.558 tỷđồng (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì
quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập
đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà
nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có vốn đầu tưnước ngoài
chiếm 21,44% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét riêng đối với mỗi
doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ.
Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ
tiết kiệm và đầu tư thấp, nhiều hộ gia đình và không ít doanh nghiệp còn
đầu tư chưa hiệu quả, nguồn vốn không được luân chuyển từ nơi thừa đến
nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước tăng lên nhưng còn dàn trải, lãng phí, thị
trường vốn, tiền tệ chậm phát triển, lãi suất tín dụng chưa phù hợp với việc
đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn, vì thế còn hạn chế đầu tư phát
triển. Việc quản lý sử dụng vốn còn phân tán, không tập trung tối đa vốn
tiền mặt cũng như nhân tài vật lực để giải quyết những công trình thiết yếu
của nền kinh tế.Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng
khoán cho thấy đây là một kênh huy động vốn thật sự hấp dẫn và rất đáng
kể.
III.Các giải pháp thúc đẩy quá trình tích lũy ở Việt Nam
1.Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng
Vì mục tiêu của xã hội là không ngừng tái sản xuất mở rộng,
tăng thêm sản phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân mà chúng ta
phải xác định cho được quan hệ giữa quỹ tích lũy và tiêu dùng. Tương quan
15
giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được các tài sản
hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với
tốc độ cao ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng.Việc phân
chia này tùy thuộc vào nhu cầu nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định.Đồng
thời phải khuyến khích mọi người không ngừng tiết kiêm, tích lũy.
2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác
định rõ từng đối tượng được cấp vốn, từđó phân bổ nguồn vốn một cách
hợp lý cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp
vốn toàn bộ mà nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, nhờ vậy doanh
nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng thời chính nhờ
có cổ phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi
năng lực cũng như khả năng quản lý của họ từđó sẽ nâng cao rất nhiều hiệu
quả sử dụng vốn.
Việc đồng vốn cóđược sử dụng hiệu quả hay không một phần
lớn phụ thuộc vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng
cần phải xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, chúýđến đội ngũ cán bộ, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng lực của mình. Đặc
biệt trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu vực
cũng như trên thếgiới thì việc thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ không
chồng chéo có hiệu quả cũng tạo ra khả năng cạnh tranh lớn.
16
3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu
hút vốn đầu tư nước ngoài
Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp
hàng đầu là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽđóng vai
trò quan trọng để giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường
xuyên, chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng
cao hiệu quả tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là
hết sức cấp bách và cóý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ
chức tín dụng và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả
tương đối cao do có thể thu hút được vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân. Để
thực hiện được ngày càng tốt các nghiệp vụ của mình, một mặt ngân hàng
cần phải tựđổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng các hình
thức tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo an toàn bí mật
vàổn định cho tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng cần có
biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi
trong dân. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các
quỹ tín dụng nhân dân để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện.Mặt
khác, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài
nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là
biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn
trong nước cho đầu tư phát triển. Cần nghiên cứu lại các quy định vềđất và
quyền sử dụng đất kết hợp hài hoà với các tổ chức thị trường liên
17
quan.Trong thời gian tới phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu quả nhất
nguồn vốn từ tài sản công. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta
có thể huy động bằng cả hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn
thu trực tiếp của ngân sách Nhà nước là cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn
đầu tư nước ngoài.
Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu
hút vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ và tập
trung vốn rất có hiệu quảđang được các nước phát triển áp dụng.Chính thị
trường chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn, và nếu thị trường
chứng khoán hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện
nay khi nền kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn
vốn có vai tròđặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao
gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp trong đó vốn đầu tư trực
tiếp cóý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước.
Vì thế mà chúng ta cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc
biệt là vốn của các nước phát triển.
18
Kết luận
Qua lý luận tích lũy tư bản, ta thấy rằng cùng với sự phát triển
của xã hội, tích lũy ngày càng đóng vai trò cần thiết. Nhờ tích lũy mà của
cải xã hội không ngừng tăng lên. Tuy nhiên trong từng giai đoạn lịch sử
tích lũy lại mang những bản chất khác nhau: dưới chủ nghĩa tư bản, tích lũy
là phương tiện để giai cấp tư sản bóc lột lao động làm thuê, tích lũy càng
nhiều lao động làm thuê càng bị bóc lột nặng nề gây mâu thuẫn đối kháng
không thể giải quyết được, trong chủ nghĩa xã hội, tích lũy là phương tiện
làm tăng của cải, tích lũy càng cao thì đời sống của nhân dân càng được cải
thiện.
Riêng đối với Việt Nam, để đạt những thuận lợi cùng với việc
vượt qua những thách thức trong công nghiệp hiện đại hóa đất nước, trước
19
hết phải có nguồn vốn dồi dào và quan trọng là việc sử dụng vốn như thế
nào để đạt hiệu quả.Sự phát triển bền vững và liên tục của nền kinh tế cũng
tạo áp lực, thách thức đòi hỏi mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp…không
chỉ biết làm giầu cho mình mà còn phải làm giầu cho toàn xã hội.Quy luật
cạnh tranh đã bắt buộc bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải không
ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển doanh nghiệp. Mà con đường duy
nhất là phải tích lũy ngày càng nhiều hơn để tái sản xuất mở rộng. Mặt
khác việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài sẽ có tác động rất lớn. Có như vậy
chúng ta mới từng bước thực hiện thành công công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, sớm đạt mục
tiêu dân giàu nước mạnh.
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin, tập 1
Tư bản, quyển 1, tập 3/ C.Mác
Thời báo kinh tế Việt Nam 2005-2006
20
- Xem thêm -