Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xử lý tình huống hòa giải tranh chấp đất đai....

Tài liệu Xử lý tình huống hòa giải tranh chấp đất đai.

.PDF
21
22987
218

Mô tả:

TRƢỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG LỚP BỒI DƢỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K6A - 2015 --- --- TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN: LƢU THỊ THANH HUYỀN ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: UBND PHƢỜNG THANH TRÌ – QUẬN HOÀNG MAI – HÀ NỘI Hà Nội, tháng 11 năm 2015 MỤC LỤC PHẦN THỨ NHẤT Lời nói chung 1 1. Lý do lựa chọn đề tài 2 2. Mục tiêu của đề tài 2 3. Phương pháp nghiên cứu 3 4. Bố cục tiểu luận 3 PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG 1. Mô tả tình huống 4 2. Mục tiêu xử lý tình huống 6 3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 6 3.1. Nguyên nhân 6 3.2. Hậu quả 7 4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống 4.1. Phương án 1 8 4.2. Phương án 2 8 4.3. Phương án 3 9 4.4. Lựa chọn phương án giải quyết 9 5. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện phương án giải quyết tình huống 5.1. Lập kế hoạch giải quyết tình huống 10 5.2. Căn cứ pháp lý giải quyết tình huống 12 5.3. Cách thức hòa giải 12 5.4. Diễn biến tổ chức thực hiện hòa giải 13 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Bài học kinh nghiệm 17 2. Kết luận 17 3. Kiến nghị, đề xuất 18 PHẦN THỨ NHẤT Cấp cơ sở được hiểu là cấp chính quyền địa phương thấp nhất trong hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước. Ở nước ta hiện nay chính quyền cơ sở gồm xã, phường, thị trấn gắn liền với ba tính chất khác nhau. Xã là chính quyền cơ sở ở vùng nông thôn; thị trấn là chính quyền ở khu vực nông thôn nhưng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một huyện; phường là chính quyền cơ sở khu vực đô thị. Chính quyền phường là cầu nối giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân trong phường, đại diện cho Nhà nước để thực thi quyền lực Nhà nước, triển khai tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở phường, vì vậy chính quyền phường phải đủ mạnh mới có thể thực hiện chức năng nhiệm vụ đồng thời vừa phải mềm dẻo, linh hoạt khi tiếp xúc, làm việc với dân, những người cùng sinh sống với những quan hệ cộng đồng gắn bó khăng khít, bền chặt, chi phối, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi đa dạng của mỗi người dân sao cho vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với truyền thống và điều kiện của mỗi người dân. Chính quyền phường là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện những thắc mắc, bức xúc của nhân dân, đồng thời cũng là nơi trực tiếp thu nhận, lắng nghe các ý kiến đề xuất, kiến nghị của nhân dân để giải quyết hoặc phản ánh lên các cơ quan cấp trên và đề xuất những giải pháp trong việc giải quyết những vướng mắc của nhân dân. Phường Thanh Trì là một trong 9 xã của huyện Thanh Trì được chuyển lên thành phường vào quận mới - quận Hoàng Mai theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ. Vì vậy trong mối quan hệ cộng đồng vẫn còn mang tính làng xã, tình cảm vẫn gắn bó, sống “Tối lửa tắt đèn” có nhau. Từ xa xưa ông cha ta đã có câu “Tấc đất, Tấc vàng”. Ngày nay với dân số ngày càng tăng lên, diện tích đất tính trên đầu người ngày càng thấp, nhất là ở những Thành phố, chúng ta càng thấm thía : “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi 1 trường sống”. Trong những năm trở lại đây, do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, tốc độ đô thị hoá nhanh, đất đai trở lên có giá thì mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai, nhà ở có nhiều lúc, nhiều nơi trở lên bức xúc. Đã có không ít từ quyền lợi về đất đai đã trở thành mâu thuẫn, phát sinh thành các tranh chấp dân sự, rất cần phải hoà giải. Hòa giải là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Hòa giải là biện pháp quan trọng và tích cực nhằm giải quyết các tranh chấp về dân sự nói chung và về tranh chấp đất đai nói riêng. Hòa giải phát huy truyền thống đoàn kết sẵn có của dân tộc ta, nâng cao sự hiểu biết về pháp luật của nhân dân, hòa giải còn giúp các bên tự nguyện thoả thuận với nhau về cách giải quyết tranh chấp mà không phải khởi kiện ra tòa án nhân dân, đỡ cho các bên phải đi lại tốn kém về tiền bạc, thời gian, tránh việc phải thi hành án vốn rất khó khăn, phức tạp trong giai đoạn hiện nay. Hòa giải tranh chấp về đất đai là một thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện ra toà án nhân dân, điều đó vừa phù hợp với yêu cầu của pháp luật, vừa phù hợp truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam. 1. Lý do lựa chọn đề tài Với ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác hòa giải, qua học tập Lớp bồi dưỡng tiêu chuẩn ngạch chuyên viên K6A-2015, liên hệ với công việc hiện em đang đảm nhận là công chức Văn phòng và là tổ viên tổ tiếp nhận và xử lý đơn thư phường Thanh Trì, em chọn đề tài “Xử lý tình huống về hoà giải trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn phường Thanh Trì - quận Hoàng Mai Hà Nội”. 2. Mục tiêu của đề tài: Để nhằm giải quyết các vấn đề xảy ra trong tình huống góp phần tăng cường pháp chế XHXN, bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân và giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên. 2 3. Phƣơng pháp nghiên cứu: - Phương pháp hỏi - đáp; - Phương pháp nghiên cứu văn bản pháp luật; - Phương pháp nghiên cứu thực tế. 4. Bố cục của tiểu luận: Tiểu luận này của em gồm 03 phần, cụ thể như sau: - Phần thứ nhất: Lời nói chung 1. Lý do lựa chọn đề tài 2. Mục tiêu của đề tài 3. Phương pháp nghiên cứu 4. Bố cục tiểu luận - Phần thứ hai: Nội dung 1. Mô tả tình huống 2. Mục tiêu xử lý tình huống 3. Phân tích nguyên nhân và giải quyết hậu quả 4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết 5. Kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã chọn - Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị 3 PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG 1. Mô tả tình huống Cụ Hoàng Văn Tân và vợ là cụ Nguyễn Thị Lan là chủ sử dụng hợp pháp 02 thửa đất, cụ thể: Thửa đất thứ nhất tại khu dân cư Tân thành - phường Thanh Trì thuộc tờ bản đồ số 14; thửa số 30; diện tích 120m2; Thửa đất thứ hai tại Khu dân cư Bãi - phường Thanh Trì thuộc tờ bản đồ số 8; thửa số 29; diện tích 665m2. Cụ Tân và cụ Lan sinh được 06 người con gồm 2 trai và 4 gái cụ thể là các các ông bà sau : Ông Hoàng Văn Hà Con trai Trưởng Bà Hoàng Thị Minh Con gái Thứ hai Bà Hoàng Thị Thuỷ Con gái Thứ ba Bà Hoàng Thị Thảo Con gái Thứ tư Ông Hoàng Văn Năm Con trai Thứ năm Bà Hoàng Thị Giang Con gái Thứ sáu Thửa đất thứ nhất có diện tích 120m2 ở khu dân cư Tân Thành năm 1986 cụ Tân và cụ Lan cho hai con trai là : Ông Hoàng Văn Hà diện tích 60m2 đất và được UBND huyện Thanh Trì cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991; Ông Hoàng Văn Năm diện tích 60m2 đất và được UBND huyện Thanh Trì cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991. Thửa đất thứ hai có diện tích 665m2 đất tại Khu dân cư Bãi, vợ chồng cụ Tân ở với người con gái thứ hai là bà Hoàng Thị Minh Năm 1987 cụ Lan chết không có di chúc Năm 1990 cụ Tân đặt 257m2 đất trong tổng số diện tích 665m2 đất cho ông Lê Văn Hùng người cùng khu dân cư để lấy tiền chạy chữa bệnh. Việc này toàn bộ các con cụ Tân đều biết. Năm 1991 chị Minh - con gái thứ hai của cụ Tân từ nước ngoài trở về đã 4 chuộc lại diện tích 257m2 đất mà cụ Tân đặt cho ông Hùng năm 1990. Năm 1991 UBND huyện Thanh Trì cáp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Tân thửa đất số 29, tờ bản đồ số 8, diện tích 665m2 mang tên cụ Hoàng Văn Tân. Năm 1992 cụ Tân chết không để lại di chúc. Toàn bộ thửa đất số 29, tờ bản đồ số 8, diện tích 665m2 do vợ chồng bà Minh sử dụng và quản lý. Năm 1999 Nhà nước lấy đất làm đường thượng hạ lưu đê Hữu Hồng và có thu hồi toàn bộ diện tích đất của gia đình ông Hà và ông Năm để làm đường. Ông Hà và ông Năm được Nhà nước bố trí khu đất tái định cư Đầm Ấu mỗi người là 40m2 đất. Năm 2000 ông Năm làm nhà trên đất tái định cư, còn ông Hà bán phần đất Nhà nước bố trí tái định cư cùng vợ là bà Nguyễn Thị Trang và con trai là Hoàng Văn Dũng về khu đất ở khu dân cư Bãi do bà Minh đang quản lý để làm nhà ở với diện tích là 80m2 trên tổng số diện tích 665m2. Tháng 8 năm 2014 ông Hà ốm nặng và chết. Ngày 14/9/2014 các con cụ Tân và cụ Lan gồm : Bà Hoàng Thị Minh Con gái Thứ hai Bà Hoàng Thị Thuỷ Con gái Thứ ba Bà Hoàng Thị Thảo Con gái Thứ tư Ông Hoàng Văn Năm Con trai Thứ năm Bà Hoàng Thị Giang Con gái Thứ sáu tổ chức họp gia đình (vắng bà Nguyễn Thị Trang - vợ ông Hà và vắng anh Hoàng Văn Dũng - con trai ông Hà) để chia thừa kế đất của cụ Tân, cụ Lan. Tại biên bản các con cụ Tân chia như sau: Số diện tích 257m2 đất năm 1991 bà Minh đã chuộc của ông Hùng được làm của riêng không chia. Số diện tích còn lại là 408m2 được chia làm 7 phần : Bà Minh được thêm 50m2 đất Bà Thuỷ được 50m2 đất Bà Thảo được 50m2 đất 5 Bà Giang được 50m2 đất Bà Trang và anh Dũng được 52m2 đất Ông Năm được 100m2 (50m2 làm nhà ở, 50m2 làm nhà thờ) Để lại 56m2 đất làm ngõ đi chung giữa các gia đình với nhau. Do việc họp gia đình không có sự tham gia của bà Trang và anh Dũng, hơn nữa việc chia như vậy bà Trang sẽ phải phá một phần nhà đã xây để trả lại đất cho các anh chị em trong gia đình, vì vậy đã xảy ra mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra, đã nhiều lần Tổ hoà giải Khu dân cư Bãi tổ chức hoà giải nhưng không thành. Ngày 24/10/2014 bà Minh cùng các chị em có đơn đề nghị UBND phường giải quyết. 2. Mục tiêu xử lý tình huống - Xử lý dứt điểm đơn đề nghị của người dân theo đúng thẩm quyền; - Giải quyết đơn đảm bảo đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; - Củng cố lòng tin của người dân với chính quyền địa phương. 3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 3.1. Nguyên nhân: Đây là vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất giữa con trai, các con gái cụ Tân, cụ Lan với con dâu cả và cháu nội của cụ Tân, cụ Lan. Vụ việc mâu thuẫn trên do các nguyên nhân sau : 3.1.1. Nguyên nhân khách quan: - Do tốc độ đô thị hóa nhanh nên đất đai ngày càng có giá trị cao; - Do sự hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế; 3.1.2. Nguyên nhân chủ quan: - Quan hệ giữa bà Trang - con dâu trưởng của cụ Tân với con trai, các con gái cụ Tân, cụ Lan là không tốt vì vậy khi xảy ra mâu thuẫn tất cả con trai, con gái cụ Tân đứng về một phía, phía bên kia là mẹ con bà Trang. Đã nhiều lần anh Dũng - con trai bà Trang và ông Hà có những hành vi xử sự không nên, không 6 phải với các cô, các chú của mình, nhất là với vợ chồng bà Minh. Do đó biên bản họp gia đình các con cụ Tân không cho mẹ con bà Trang tham gia. - Ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang - con trai, con gái cụ Tân cho rằng phần đất cụ Tân, cụ Lan ở khu dân cư Tân Thành (120m2 đất) đã chia cho 02 người con trai là ông Hà và ông Năm mỗi người 60m2 đất, vì vậy phần đất 665m2 đất ở Khu dân cư Bãi, ngoài phần trả 257m2 đất cho bà Minh - người đã chuộc của ông Hùng năm 1991 thì phải được chia đều bằng nhau, trong đó bà Minh cũng được một phần. Bà Trang đã làm nhà trên diện tích 80m2 đất là đã sử dụng hơn phần được hưởng nên bà Trang phải phá gian buồng có diện tích 20m2 trả lại cho các ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang. - Việc các con trai, con gái cụ Tân yêu cầu bà Trang phá gian buồng để trả lại đất cho các ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang sẽ gây thiệt hại về tài sản là nhà ở của mẹ con bà Trang, làm ảnh hưởng đến độ an toàn, kết cấu của ngôi nhà (Nhà mái bằng 2 tầng) do đó sự việc càng thêm phức tạp. - Bà Trang, anh Dũng cho rằng ông Năm là con trai thứ nhưng cũng được hưởng như ông Hà phần đất ở khu dân cư Tân Thành, nay lại về khu dân cư Bãi chia phần, lại được phần nhiều hơn (100m2 đất, gồm 50m2 đất làm nhà để ở và 50m2 đất để xây dựng nhà thờ) là không phù hợp với truyền thống, đạo đức người Việt Nam (Vì anh Dũng mới là cháu trai trưởng - đích tôn). Bản chất mâu thuẫn trên là do 02 nguyên nhân chính: - Thứ nhất là do quyền lợi của các thành viên trong gia đình không được giải quyết triệt để, không có sự trao đổi, thoả thuận với nhau; - Thứ hai là mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không được tôn trọng, mất đoàn kết. 3.2. Hậu quả: - Vụ việc mâu thuẫn này cần được giải quyết, hoà giải kịp thời, tránh mâu thuẫn kéo dài sẽ dẫn đến phức tạp, làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung của những người có liên quan, gây thiệt hại về kinh tế và mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương; 7 - Giảm sút lòng tin và gây bất bình trong nhân dân; - Sẽ có sự giảm sút về pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương. 4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phƣơng án giải quyết tình huống Để vụ việc được giải quyết dứt điểm, thấu tình đạt lý, phù hợp với các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan, em đưa ra 03 phương án giải quyết như sau: 4.1. Phương án 1: Tổ chức hòa giải cho bằng được - Tức là tổ chức hòa giải thành - Ưu điểm: Các bên vẫn giữ được tình đoàn kết, củng cố mối quan hệ trong gia đình, đùm bọc, giúp đỡ nhau, xây dựng xã hội bình yên, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, góp phần hạn chế đơn thư, khiếu kiện trong nhân dân, giúp cho chính quyền giảm bớt việc giải quyết đơn thư, khiếu kiện đông người và hình thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp hành pháp luật. Các bên không phải khởi kiện ra toà án nhân dân vừa mất thời gian, vừa tốn kém tiền bạc. Quá trình thực hiện do các bên tự định đoạt theo nội dung đã thoả thuận, thống nhất. - Hạn chế: Có thể mất nhiều thời gian của cán bộ từ tổ dân phố đến phường vì phải đi lại nhiều lần, gặp gỡ từng người để tuyên truyền, phân tích, giải thích hướng cho các bên thống nhất được với nhau, tự thỏa thuận với nhau cách phân chia thừa kế, về khối tài sản là đất của mỗi người được hưởng. Do đó có thể người này được nhiều, người kia được ít hơn, không bằng nhau. 4.2. Phương án 2: Tổ chức hòa giải không thành nhiều lần - Tức là cứ có đơn thì tổ chức hòa giải theo nhiệm vụ được phân công và để mặc cho các bên tranh chấp tranh cãi nhau bảo vệ quyền lợi của mình, không hòa giải được. - Ưu điểm: Lợi thế cho cán bộ phường là chỉ tổ chức hòa giải đúng thời gian, trình tự 8 theo quy định mà không phải mất thời gian, công sức để gặp gỡ, tìm hiểu, phân tích, hướng dẫn những người có quyền và lợi ích liên quan cũng như hướng cho các bên thống nhất được với nhau. - Hạn chế: Kết quả là không hòa giải được, không thống nhất được cách giải quyết hợp tình, hợp lý với nhau từ đó đơn thư của người dân sẽ kéo dài vì chưa đạt được kết quả như mong muốn, thậm chí có thể vượt cấp dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, sứt mẻ tình cảm gia đình, mất an ninh trật tự. 4.3. Phương án 3: Tổ chức hòa giải cho xong thủ tục - Tức là hòa giải theo đúng thủ tục, nếu thành thì lập biên bản hòa giải thành, nếu hòa giải không thành thì ra thông báo chấm dứt việc giải quyết tại phường và hướng dẫn các bên có quyền khởi kiện ra tòa án nhân dân để giải quyết - Ưu điểm: Chỉ tổ chức hòa giải một lần với các thành phần theo quy định của pháp luật, không phải mất nhiều thời gian của cán bộ tổ dân phố cũng như cán bộ phường. Trường hợp một trong các bên, hoặc các bên khởi kiện ra tòa, toà án sẽ chia thừa kế theo pháp luật (thừa kế theo hàng thừa kế - Những người thừa kế cùng hàng được hưởng di sản bằng nhau) - Hạn chế: Có thể mâu thuẫn sẽ trở nên gay gắt hơn, mất hết tình nghĩa, có thể gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương, mất thời gian theo kiện và phải chịu khoản án phí đáng kể theo quy định của pháp luật. 4.4. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống Trong 03 phương án đưa ra trong công tác hòa giải tranh chấp đất đai trên thì em lựa chọn phương án 1 là Tổ chức hòa bằng được - Tức là tổ chức hòa giải thành để giải quyết tình huống, vì: - So với 02 phương án còn lại thì phương án này đáp ứng được nhiều mục tiêu hơn cả; - Phương án có tính khả thi cao trong thực tiễn; 9 - Đây là phương án có tình, có lý, phù hợp với cuộc sống của người dân trên địa bàn phường; - Giữ vững được lòng tin của nhân dân đối với chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 5. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện phƣơng án giải quyết tình huống 5.1. Lập kế hoạch giải quyết tình huống NỘI DUNG CÔNG VIỆC TT 1. THỜI GIAN THỰC HIỆN CHỦ THỂ THỰC HIỆN Chuẩn bị hòa giải 1.1. - Xem nội dung đơn và thông báo cho 03 ngày, kể Cán bộ Tư pháp các bên tranh chấp biết, đồng thời xác từ ngày nhận phường (Là Tổ định thời gian tổ chức hòa giải trưởng tổ tiếp đơn đề nghị của công nhận và xử lý đơn dân - Thu thập văn bản pháp luật, bản đồ 01 ngày địa chính, sổ mục kê, ….liên quan để tổ thư phường) Cán bộ Tư pháp, Địa chính chức hòa giải. 1.2. Tiếp xúc với các bên tranh chấp: 01 ngày - Tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh Cán bộ Tư pháp phối hợp cùng chấp; các đồng chí lãnh - Thu thập các giấy tờ, tài liệu có liên đạo khu dân cư, quan do các bên cung cấp; tổ dân phố 1.3. Dự kiến: - Thời gian, địa điểm tổ chức hòa giải; 1/2 ngày Cán bộ Tư pháp 1/2 ngày Cán bộ Tư pháp - Thành phần tham dự hòa giải. 1.4. Viết và gửi giấy mời 10 2. Tổ chức hòa giải 07 - 10 ngày Tổ xử lý đơn thư kể từ ngày phường nhận đơn 2.1 Tuyên bố lý do và giới thiệu thành phần 5 phút Cán bộ Tư pháp 15 phút Cán bộ Tư pháp 15 phút Chủ tịch UBND tham gia buổi hòa giải 2.2 Tóm tắt nội dung và nguyên nhân phát sinh tranh chấp 2.3 Ý kiến của cán bộ phường hướng dẫn, thuyết phục các bên tranh chấp nên tự phường nguyện thỏa thuận giải quyết các mâu (Chủ trì hòa giải) thuẫn về quyền lợi của các bên 2.4 Ý kiến của các bên tranh chấp 30 - 45 phút Các bên có tranh chấp 2.5 Ý kiến của các đồng chí tham gia buổi 15 - 30 phút hòa giải Các thành phần tham gia hòa giải 2.6 Ý kiến của đồng chí Chủ tịch UBND 15 phút phường - Chủ trì buổi hòa giải Chủ tịch UBND phường 2.7 Biên bản hòa giải được lập xong, lấy 5 phút Cán bộ Tư pháp chữ ký của cán bộ hòa giải và các bên tranh chấp 3. Kết thúc buổi hòa giải 3.1 Sao gửi biên bản hòa giải cho các bên Cán bộ Tư pháp tranh chấp 3.2 Lập hồ sơ hòa giải và lưu trữ theo quy Cán bộ Tư pháp định 3.3 Hướng dẫn các bên tranh chấp thực hiện các nội dung đã thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành Chủ tịch UBND phường và cán bộ Địa chính 11 Ghi chú: Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt, cán bộ hòa giải lập biên bản về sự vắng mặt. Đồng thời xác định thời gian để tổ chức lại việc hoà giải. Biên bản phải ghi rõ việc vắng mặt có hoặc không có lý do và phải có chữ ký của các thành viên trong buổi hoà giải. 5.2. Căn cứ pháp lý để giải quyết tình huống - Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003; - Bộ luật dân sự năm 2005; - Luật đất đai năm 2013; - Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013; - Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; - Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQHQH12 ngày 27/02/2009 về án phí, lệ phí tòa án; - Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh về án phí, lệ phí tòa án; - Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở; - Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở. 5.3. Cách thức hòa giải B»ng lêi nãi kÕt hîp lËp biªn b¶n ghi nhËn c¸c ý kiÕn cña c¸c bªn. Tuú t×nh h×nh diÔn biÕn, cã thÓ cö c¸n bé UBND Ph-êng cã uy tÝn, cã tr×nh ®é tiÕn hµnh gÆp gì tõng bªn ®Ó h-íng dÉn, thuyÕt phôc tõng bªn , cuèi cïng ®Ó c¸c bªn gÆp gì trao ®æi, tho¶ thuËn gi¶i quyÕt víi nhau. Sau khi t×m hiÓu sù viÖc, nguyªn nh©n ph¸t sinh m©u thuÉn, tham kh¶o c¸c ý kiÕn cña nh÷ng ng-êi cã liªn quan, l¾ng nghe ý kiÕn c¸c bªn, c¸n bé ph-êng ph©n tÝch, thuyÕt phôc c¸c bªn ®¹t ®-îc tho¶ thuËn phï hîp víi ph¸p luËt, ®¹o ®øc x· héi vµ phong tôc, tËp qu¸n tèt ®Ñp cña nh©n d©n vµ tù nguyÖn thùc hiÖn tho¶ thuËn ®ã. 12 5.4. Diễn biến tổ chức thực hiện hòa giải vụ tranh chấp - Ngày 05/11/2014 UBND phường tổ chức buổi hòa giải tranh chấp về thừa kế giữa các con, cháu cụ Tân, cụ Lan. Về thành phần tham gia hoà giải gồm có: * Về thành phần của phường có : 1. Đồng chí Chủ tịch UBND phường - Chủ trì 2. Cán bộ Tư pháp - Thư ký ghi biên bản 3. Cán bộ Địa chính phường * Thành phần mời các tổ chức, đoàn thể : 1. Đồng chí Chủ tịch Uỷ ban MTTQ phường 2. Đồng chí Chủ tịch Hội phụ nữ phường 3. Đồng chí Chủ tịch Hội nông dân phường 4. Tổ trưởng tổ hòa giải khu dân cư Bãi 5. Bí thư chi bộ khu dân cư Bãi 6. Tổ trưởng tổ dân phố * Thành phần các đương sự có: Bà Minh, Bà Thuỷ, Bà Thảo, Bà Giang, ông Năm có mặt đầy đủ. Mẹ con bà Trang, anh Dũng vắng mặt không có lý do. Do vắng mặt mẹ con bà Trang vì vậy UBND phường lập biên bản không hòa giải được. - Ngày 12/11/2014 UBND phường tổ chức buổi hòa giải tranh chấp về thừa kế giữa các con, cháu cụ Tân, cụ Lan. Về thành phần cũng như lần 1 nhưng mẹ con bà Trang cũng vắng mặt, không có lý do. - Ngày 14/11/2014 UBND phường cử cán bộ Tư pháp đến tận nhà bà Trang gặp gỡ bà Trang và anh Dũng trao đổi tình hình, lý do vắng mặt, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, giải thích quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để mẹ con bà Trang nắm rõ, hướng của mẹ con bà Trang trong việc giải quyết vụ việc tranh chấp trên ?. 13 - Ngày 17/11/2014 UBND phường tổ chức buổi hòa giải tranh chấp về thừa kế giữa các con, cháu cụ Tân, cụ Lan. Cũng như lần 1, lần 2 mẹ con bà Trang cũng không đến theo giấy mời của UBND phường. Do đó UBND phường lập biên bản không hòa giải được. Đồng thời sao gửi biên bản “hoà giải không thành” và hướng dẫn các bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang, ông Năm có thể làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân quận Hoàng Mai giải quyết dứt điểm vụ việc trên. - Ngày 29/11/2014 mẹ con bà Trang lại có đơn gửi UBND phường yêu cầu giải quyết việc tranh chấp trên. Ngày 06/12/2014 UBND phường đã tổ chức buổi hoà giải. Về thành phần của phường và các tổ chức đoàn thể như các lần trước. Về phía các đương sự đã có mặt đầy đủ. Sau khi đồng chí cán bộ Tư pháp phường giới thiệu thành phần tham dự buổi hoà giải, nêu tóm tắt nội dung tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và mục đích, ý nghĩa của buổi hòa giải; Đồng chí Chủ tịch UBND phường - Chủ trì buổi hòa giải đã vừa giải thích, vừa tuyên truyền một số quy định của pháp luật về thừa kế, về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, đồng thời hướng dẫn, tạo điều kiện cho các bên tranh chấp tự nguyện thoả thuận giải quyết mâu thuẫn về quyền lợi của các bên; Nghe các ý kiến của các bên; Nghe các ý kiến phát biểu của các thành viên tham gia hòa giải. Mong muốn các bên tự thoả thận giải quyết với nhau thông qua hoà giải, vừa giữ được tình đoàn kết, vừa giải quyết được quyền lợi của các bên; Về phía ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang vẫn giữ nguyên quan điểm như trong biên bản mà chính các ông bà này tự họp, tự phân chia với nhau không có sự tham gia của mẹ con bà Trang; Về phía mẹ con bà Trang cũng giữ quan điểm là nhà mà vợ chồng bà đã xây dựng từ năm 2000 trên diện tích 80m2 đất phải được giữ nguyên trạng. Do các bên vẫn nhất mực giữ quan điểm của mình, không ai chịu ai. Do vậy 14 buổi hòa giải không thành. UBND phường đã lập biên bản ghi nhận tất cả các ý kiến của các bên, đọc lại cho các bên cùng nghe, các bên cùng ký biên bản hoà giải không thành. UBND phường thông báo cho các bên là việc hòa giải tại phường theo quy định tại điều 136 Luật đất đai năm 2003 là đã xong. UBND phường đã sao gửi biên bản, đóng dấu gửi mỗi người một bản, hướng dẫn các bên có thể gửi đơn yêu cầu Toà án nhân dân quận Hoàng Mai giải quyết. Thực tế cả hai bên đương sự đều không gửi đơn đến Toà án nhân dân quận Hoàng Mai để giải quyết. - Ngày 25/3/2015 bà Minh cùng ông Năm, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang lại có đơn gửi UBND phường giải quyết vụ việc tranh chấp trên. Ngày 27/3/2015 UBND phường mời bà Minh đến làm việc, trao đổi vụ việc này đã được UBND phường hòa giải không thành vì vậy phường sẽ không giải quyết nữa. Đồng thời hướng dẫn bà Minh và các anh chị em muốn giải quyết dứt điểm cần làm đơn gửi Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai giải quyết nhưng bà Minh vẫn tha thiết đề nghị phường tiếp tục đứng ra giải quyết. Ngày 08/4/2015 UBND phường tiến hành hoà giải giải quyết vụ việc trên. Về thành phần có mặt đầy đủ các bên. Qua phân tích các ý kiến của các bên và để giữ gìn tình đoàn kết trong gia đình, đã hướng cho các bên thoả thuận, thống nhất được với nhau về phân chia tài sản, cụ thể như sau : - Bà Minh ngoài việc được giữ nguyên 257m2 đất trước đây đã chuộc lại của ông Hùng năm 1991, còn được thêm 50m2 đất nữa. Tổng diện tích đất bà Minh được hưởng là 307m2 đất; - Mẹ con bà Trang, anh Dũng được giữ nguyên diện tích nhà đất là 80m2 đất; - Bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang mỗi người được 50m 2 đất; - Ông Năm được 100m2 đất (Trong đó 50m2 đất là để xây nhà ở, 50m2 đất để xây nhà thờ chung) 15 - Để lại 56m2 đất làm ngõ đi chung giữa các gia đình. Biên bản hoà giải đã thành, các bên đã tự thoả thuận, thống nhất với nhau và tự thực hiện. Tuy nhiên ngày 16/4/2015 mẹ con bà Trang lại có đơn gửi UBND phường, nội dung đơn là không nhất trí với biên bản hoà giải thành ngày 16/3/2012 mà chính mẹ con bà Trang đã thống nhất, ký tên. Trong đơn bà Trang yêu cầu phải chia lại, vì nếu chia như vậy, mẹ con bà Trang bị thiệt thòi. Ngày 29/4/2015 UBND phường lại tiến hành hoà giải vụ tranh chấp trên. Qua trao đổi, mẹ con bà Trang nêu: Bà là con dâu trưởng, anh Dũng là cháu đích tôn trưởng phải được phần hơn và phải là người đứng ra thờ cúng tổ tiên. Do vậy không thể đồng ý cho ông Năm làm nhà thờ được. Về phía các ông Năm, bà Minh, bà Thuỷ, bà Thảo, bà Giang cũng thấy và cũng đã “Xuống thang” bởi tất cả các ông bà trên đều đã có nhà đất ở riêng. Do vậy phần đất của cụ Tân để lại được coi là “Của hồi môn”. Sau khi phân tích, đánh giá, các bên đã tự thống nhất lại như sau : 1- Bà Minh ngoài phần 257m2 đất trước chuộc lại của ông Hùng được giữ nguyên, còn được thêm 45m2 đất nữa. Tổng diện tích bà Minh được hưởng là 302m2 đất; 2- Bà Thuỷ được hưởng 45m2 đất; 3- Ông Năm được hưởng 70m2 đất; 4- Bà Thảo được hưởng 45m2 đất; 5- Bà Giang được hưởng 45m2 đất; 6- Mẹ con bà Trang ngoài phần nhà đất đã xây năm 2000 trên diện tích 80m2 đất được giữ nguyên, còn được thêm 25m2 đất nữa. Tổng diện tích mẹ con bà Trang được hưởng là 105m2 đất; 7- Để lại 53m2 đất làm ngõ đi chung giữa các gia đình. Vụ việc đã được giải quyết ổn thoả, các bên đã tự nguyện thi hành và hiện nay đã được Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội - Chi nhánh quận Hoàng Mai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. 16 PHẦN THỨ BA KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Bài học kinh nghiệm Đây là tình huống có thật xảy ra và đã được giải quyết tại phường Thanh Trì. Qua vụ việc trên em rút ra bài học kinh nghiệm sau : - Cán bộ hoà giải phải có tâm trong công việc, phải là người am hiểu pháp luật, có kiến thức xã hội phong phú; - Khi tổ chức hòa giải phải có sự tự nguyện thực sự của các đương sự, không được hòa giải một cách gò bó, cưỡng ép hoặc để các bên đương sự cãi vã nhau; - Khi tiến hành hòa giải cán bộ hoà giải phải nắm vững sự việc, tìm ra nguyên nhân mâu thuẫn của các bên, đi sâu giải quyết những vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của họ, đưa ra những gợi ý có tình, có lý, hướng cho họ tự nguyện thoả thuận với nhau, giải quyết vụ việc một cách tích cực nhất. Nếu thấy các bên không thể thoả thuận được ngay thì cần giành cho họ thời gian nhất định để họ tự suy nghĩ. - Đối với những vụ việc không còn khả năng hoà giải được thì tích cực giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, không để việc hoà giải kéo dài vô ích. Nhưng phải kiên trì giải thích cho các đương sự rõ chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân. 2. Kết luận Qua thực tế và qua nghiên cứu các văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn công tác, em nhận thức được rằng công tác hòa giải ở cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương. Một đơn vị hành chính phường nếu làm tốt công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở sẽ phát huy tình đoàn kết, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật trong nhân dân, nâng cao sự hiểu biết về pháp luật đối với người dân. Nếu công tác hòa giải ở cơ sở bị buông lỏng, không được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo, cán bộ không nhiệt 17 tình giải quyết sẽ trở thành điểm nóng về đơn thư vượt cấp hoặc khiếu kiện đông người của phường, quận và thành phố. Chính vì vậy cán bộ cấp cơ sở cần có trình độ pháp luật nói chung và sự am hiểu các chế độ chính sách về đất đai nói riêng, năng lực thực tiễn, tinh thần trách nhiệm, làm việc nhiệt tình, đầy tâm huyết, khách quan vô tư. Trong quá trình hoà giải, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai phải biết vận dụng thực tế với áp dụng văn bản, không cứng nhắc quá, cũng không mềm mỏng quá. 3. Kiến nghị, đề xuất UBND xã, phường, thị trấn (Gọi tắt là UBND cấp xã) là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước ở cơ sở, việc hoà giải của UBND cấp xã là hoạt động mang tính xã hội, hoà giải theo thủ tục hành chính, em đưa ra một số kiến nghị, đề xuất như sau: - Đối với việc hoà giải tại UBND cấp xã, pháp luật không quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ như hậu quả của việc đương sự không tham gia hòa giải, không có công cụ hữu hiệu nào buộc đương sự phải có mặt. Nên nhiều trường hợp do đương sự không có mặt nên buổi hòa giải không thể tiến hành được. Do vậy đề nghị Thành phố cần có quy định cụ thể cho phép phường được xử phạt hành chính đối với trường hợp cố tình vắng mặt - Vì đây là hành vi không thực hiện nghĩa vụ công dân. - Các tranh chấp về đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã nhưng không thành, các bên cũng không khởi kiện ra toà án nhân dân giải quyết. Sau một thời gian họ lại yêu cầu UBND cấp xã giải quyết. Hiện chưa có văn bản nào quy định UBND cấp xã phải thụ lý, hay không phải thụ lý để giải quyết tiếp. Do đó đề nghị Chính phủ, các Bộ ngành và Thành phố cần có quy định cụ thể, tránh tình trạng nơi này thì nhận, nơi kia không nhận giải quyết, đồng thời tránh làm mất thời gian, công sức của chính quyền cơ sở. - Theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003 thì kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của UBND cấp xã nơi có đất. Tuy nhiên Luật đất đai và các văn bản 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan