- 1-
TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN
Giới thiệu tổng quát về đề tài:
Từ khi bước vào nền kinh tế hội nhập với thế giới, Việt Nam chúng ta đã có
những thành quả đáng ghi nhận về kinh tế – văn hóa – xã hội, với những thành quả
đó chúng ta ngày càng khẳng định vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Qua quá trình hội nhập và phát triển này, chúng ta cũng có những du nhập
văn hóa – kinh tế… trong đó có “nhượng quyền thương mại” được khởi đầu từ nửa
cuối những năm 90 của thế kỷ trước.
Vậy nhượng quyền là gì? Và tại sao chúng ta nên thực hiện nhượng quyền
khi thực hiện các hoạt động sản xuất – kinh doanh trong một số lĩnh vực có thể.
Lợi ích từ việc nhượng quyền cũng như những khó khăn khi thực hiện hoạt động
này sẽ được chúng tôi đề cập trong đề tài nghiên này. Hy vọng đề tài này, sẽ góp
phần vào sự phát triển của các tổ chức trong quá trình thực hiện việc kinh doanh
của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Trong đề tài chúng tôi thực hiên nghiên cứu “Nhượng quyền thương mại
tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, sẽ trình bày những vấn đề nhượng quyền
tại Việt Nam nhằm hỗ trợ các tổ chức đang và sẽ nhượng quyền trong tương lai có
có nhìn toàn diện hơn về vấn đề này. Đồng thời cũng rút tỉa những kinh nghiệm
của các tổ chức đã từng thực hiện hoạt động nhượng quyền nhằm phát huy tối đa
lợi ích có được từ hoạt động này, cũng như né tránh một số nguy cơ có thể xảy ra
khi thực hiện hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam và thế giới.
Với mục tiêu đó, hy vọng sẽ giúp được một số tổ chức trong công tác
nhượng quyền sau này vì chúng tôi dự đoán trong tương lai hoạt động này sẽ vẫn
típ tục được duy trì và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Trong đề tài này, chúng tôi khoanh vùng một số các hoạt động nhượng
quyền tiêu biểu trong hơn 10 năm qua tại Việt Nam về các lĩnh vực dịch vụ và sản
- 2suất thực phẩm tiêu dùng, với cách thức đó chúng tôi hy vọng người xem sẽ nắm
bắt được tổng quát nhất về hoạt động nhượng quyền và hiểu rõ hơn về hoạt động
này.
Chúng tôi cũng đánh giá lại những thành quả từ hoạt động nhượng quyền
thương mại này, kèm theo đó là trích dẫn một số các hợp đồng nhượng quyền tiêu
biểu trong thời gian qua.
Phương pháp nghiên cứu:
Chúng tôi khi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài này, đã sử dụng một số
phương pháp đăc trưng như: thống kê các hoạt động nhương quyền đã xảy ra tại
Việt Nam, phân tích những thuận lợi và khó khăn thường găp phải khi thực hiện
nhượng quyền tại Việt Nam. Đồng thời chúng tôi cũng có những so sánh ưu và
nhược khi thực hiện nhượng quyền với việc kinh doanh từ đầu hoặc mua lại doanh
nghiệp khác.
Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo thêm các tài liệu trên internet, các bài
báo có liên quan đến nhượng quyền thương mại, một số sách của các nhà nghiên
cứu về vấn đề này và trích dẫn một số điều luật thương mại.
Nội dung nghiên cứu:
Đề tài được trình bày thành 3 chương:
- Chương 1, tác giả đề cập đến những yếu tố cơ bản nhất của hoạt động nhượng
quyền thương mại, với các khái niệm, các yếu tố về luật liên quan đến hoạt
động nhượng quyền thương mại và sự tác động của nó đến hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Chương 2, tác giả giới thiệu khái quát về nền kinh tế Việt Nam, cũng như
những doanh nghiệp trong nước và nước ngoài thực hiện các hoạt động nhượng
quyền phát sinh tại Việt Nam. Đồng thời tác giả cũng đề cập đến một số thuận
lợi và khó khăn trong hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam.
- Chương 3, tác giả trình bày xu hướng nhượng quyền hiện nay trên thế giới và
tại Việt Nam, đồng thời xây dựng một số giải pháp để hỗ trợ hoạt động nhượng
quyền thành công trong tương lai.
- 3-
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ PHÁP LUẬT
VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về hoạt động nhượng quyền thương mại
1.1.1. Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng
quyền thương mại trên thế giới
Trong những năm qua NQTM (Franchise) đã phát triển rất mạnh mẽ trên thế
giới, nhưng đối với Việt Nam thì đây vẫn là một khái niệm còn nhiều mới mẻ.
Đi tìm nguồn gốc của hoạt động này có nhiều ý kiến khác nhau trong đó
quan điểm cho rằng hoạt động NQTM bắt đầu xuất hiện từ nước Mỹ vào khoảng
những năm 1850 có lẽ là phổ biến hơn cả. Sự phát triển của NQTM tăng tốc trong
những năm 30 của thế kỷ XX, khi bắt đầu tiến hành nhượng quyền các loại hình
khách sạn bên đường quốc lộ dành cho khách đi ôtô. Những năm 50 của thế kỷ XX
chứng kiến sự bùng nổ của hệ thống nhượng quyền cùng với sự phát triển của hệ
thống đường cao tốc nối liền các tiểu bang của Hoa Kỳ. Hệ thống các nhà hàng ăn
nhanh, quán ăn rẻ tiền và khách sạn bên đường quốc lộ đua nhau mọc lên. Năm
2000, NQTM chiếm khoảng 40% doanh thu bán lẻ của Hoa Kỳ. Chỉ đến những
năm 1980 hoạt động NQTM sau đó mới lan rộng và diễn ra một cách mạnh mẽ ở
các nước khác, sở dĩ là vì lúc này các nước mới phát hiện được tiềm năng đem lại
lợi nhuận cao của lĩnh vực này.
Sự phát triển ồ ạt của NQTM đã dẫn tới sự ra đời của Hiệp hội Nhượng
quyền quốc tế IFA (International Franchise Association) vào năm 1960, Ủy ban
Franchise thế giới (World Franchise Council – WFC) năm 1994. Sự ra đời của
IFA, WFC đã tạo điều kiện cho việc phát triển NQTM dần trở thành hệ thống và
ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Bởi vậy mà hiện nay kinh doanh theo
phương thức NQTM đã có mặt tại hầu hết các châu lục, trong rất nhiều ngành
nghề. Theo số liệu của phòng thương mại Mỹ thì từ năm 1974 đến năm 2005 trung
bình chỉ có 5% số doanh nghiệp hình thành theo mô hình nhượng quyền kinh
doanh tại Mỹ là thất bại, trong khi con số này là 30-65% cho các doanh nghiệp
- 4không theo mô hình nhượng quyền. Sự phát triển của hình thức kinh doanh này
còn thể hiện ở ngay việc trong năm 2005 có tới 12/52 tiểu bang của Mỹ đều có luật
bắt buộc bất kỳ công ty nào muốn tham gia vào thị trường chứng khoán đều phải
có đăng ký nhượng quyền. Những cái tên không hề xa lạ như California, New
York, Washington,…là một trong số đó [5]. Hiện tại hoạt động NQTM diễn ra phổ
biến tại Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và đang có phần gia tăng ở các nước đang
phát triển . Ở Việt Nam, cà phê Trung Nguyên, Phở 24, bánh ngọt Kinh Đô, hãng
thời trang Foci (công ty dệt may Nguyên Tâm), Công ty cổ phần kiến trúc xây
dựng Nhà Vui,… là những ví dụ về các doanh nghiệp thực hiện hoạt động NQTM
[6]. Tính đến thời điểm năm 2004, Việt Nam có khoảng 70 thương hiệu áp dụng
NQTM, với tốc độ tăng trưởng ước tính 15% - 20% / năm [3].
Tại Mỹ, lúc đầu NQTM được coi là những thoả thuận giữa các nhà sản xuất,
những tổ chức dịch vụ với những nhà kinh doanh độc lập khác liên quan đến việc
phân phối sản phẩm – chính là hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm sau
này. Trong hình thức này BNhQ chỉ được sử dụng nhãn hàng hoá của BNQ. Ví dụ
cho trường hợp này là Coca-Cola, hãng này đã thực hiện bán Franchising lần đầu
tiên cho nhà máy sản xuất vỏ chai là Georgia vào năm 1901. Phân phối theo hình
thức này, Coca-Cola đã giảm được đáng kể chi phí vận tải, bởi thay vì vận chuyển
nguyên cả chai, giờ đây Coca-Cola chỉ việc vận chuyển nước ngọt trong các thùng
lớn, khâu đóng chai sẽ được thực hiện ngay tại cơ sở sản xuất vỏ chai, dưới sự
kiểm soát chặt chẽ của Coca-Cola. Việc này có thể đảm bảo Coca-Cola không phải
tiết lộ bí quyết kinh doanh của mình, bởi nhượng quyền theo hình thức này CocaCola vẫn sẽ là nhà sản xuất, sản phẩm sau đó được vận chuyển trong các thùng lớn
đi các nơi, đến nơi nó sẽ được đóng vào các chai nhỏ.
Sau một thời gian tồn tại, NQTM tại Mỹ phát triển thêm một hình thái mới
đó là NQTM đối với phương thức kinh doanh. Ở hình thức này, BNQ kèm theo
việc chia sẻ quyền kinh doanh nhãn hiệu, sẽ phải chia sẻ thêm cách thức kinh
doanh thông qua việc thiết lập tài liệu hướng dẫn, đào tạo kỹ thuật, nhân viên, hỗ
trợ việc chọn mặt bằng,…Chính vì việc chia sẻ quá nhiều điều cho BNhQ mà BNQ
phải kiểm soát rất chặt chẽ hoạt động của BNhQ để bảo đảm được uy tín, sự tồn tại
của cả hệ thống kinh doanh. Hình thức nhượng quyền này hiện nay là phổ biến, có
thể tìm thấy rất nhiều ví dụ như McDonald’s, KFC,…
Như vậy, NQTM có thể diễn ra dưới một số hình thức:
- 5- Tại Mỹ, NQTM trọn gói hay NQTM cả một hình thức kinh doanh và NQTM sản
phẩm.
- Tại Châu Âu, trong bản án Propuptia, toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) đã phân biệt
ba hình thức NQTM, đó là NQTM dịch vụ, NQTM sản xuất và NQTM phân
phối[2].
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại
1.1.2.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại
Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp cổ là “Franc” có nghĩa là đặc quyền
hay tự do [4]. Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của NQTM thì nhiều
định nghĩa cũng được đưa ra. Nhưng do sự khác nhau về chế độ kinh tế, chính trị
cũng như xã hội của mỗi một quốc gia mà mỗi định nghĩa được đưa ra lại có khía
cạnh đặc trưng riêng.
Theo thông lệ quốc tế, NQTM được coi là một hoạt động thương mại, trong
đó BNQ (franchisor) sẽ chuyển mô hình kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ,
bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo cho BNhQ (franchisee).
BNhQ sau khi ký hợp đồng nhượng quyền được phép khai thác kinh doanh trên
một không gian địa lý nhất định và phải trả một khoản phí nhượng quyền và tỷ lệ
phần trăm doanh thu định kỳ cho BNQ trong một khoảng thời gian nhất định. Đây
là một hình thức để BNQ khai thác được lợi ích tài chính từ chính bí quyết kinh
doanh của mình mà không phải đầu tư thêm vốn. Ngoài ra, hình thức này cũng tạo
cơ hội cho các thương nhân không có đủ kinh nghiệm cần thiết để tiếp cận được
với các phương thức kinh doanh mà đúng ra họ phải nỗ lực vượt bậc mới có được,
và cũng tạo cơ hội cho họ được hưởng lợi từ chính tên thương mại, uy tín của
BNQ.
Theo quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển
thì hoạt động franchising thực chất là hoạt động chuyển giao quyền kinh doanh
(quyền thương mại) gắn liền với quyền SHTT, bao gồm cả quảng cáo, tiêu chuẩn
hàng hoá, đào tạo người lao động, khuyến mại v.v…
Việt Nam là một nước tiếp cận với hoạt động NQTM được coi là muộn, nên
trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước kết hợp với tình hình thực tế của hoạt
động này ở Việt Nam, lần đầu tiên Luật thương mại 2005 đã đưa ra định nghĩa về
- 6NQTM tại Điều 284 và có quy định cụ thể về NQTM tại Mục 8 Chương VI từ các
điều 284 đến điều 291. Tuy nhiên, thực ra NQTM đã xuất hiện tại Việt Nam từ đầu
thập niên 90 và thuật ngữ này lần đầu được đề cập đến trong hệ thống pháp luật
Việt Nam qua khái niệm “cấp phép đặc quyền kinh doanh” tại Thông tư số
1254/1999 của Bộ KHCN&MT. Tại Nghị định số 11/2005/NĐ-CP quy định chi
tiết về chuyển giao công nghệ (sửa đổi) quy định chi tiết thi hành Chương III Phần
VI Bộ luật Dân sự 1995 chính thức thừa nhận hoạt động “cấp phép đặc quyền kinh
doanh”- một dạng hoạt động NQTM, là một trong những hoạt động chuyển giao
công nghệ. Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị định số 11/2005, “cấp phép đặc quyền kinh
doanh” là hoạt động theo đó: “ bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng
hoá và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch
vụ thương mại”. Còn theo Luật thương mại 2005, NQTM được quy định “NQTM
là hoạt động thương mại, theo đó Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên
nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ …”
(Điều 284) theo cách thức và phương pháp kinh doanh mà BNQ quy định. Hoạt
động thương mại này phải được làm thành văn bản và phải đăng ký với Bộ thương
mại hoặc các Sở thương mại theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 35/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động NQTM [9].
Thực chất NQTM chính là hoạt động thương mại của các thương nhân nhằm
mở rộng quy mô kinh doanh của mình thông qua việc chia sẻ quyền phân phối sản
phẩm hoặc chia sẻ quyền sử dụng công thức kinh doanh trên một thương hiệu của
mình cho một hoặc nhiều thương nhân khác. Chính nhờ cách thức này mà Ray
Kroc đã thiết lập nên một hệ thống cửa hàng thức ăn nhanh Mc Donald’s trên toàn
thế giới như hiện nay, đem lại thành công mà nhiều công ty khác mong chờ, tuy
không thể nói rằng lợi nhuận của tập đoàn này chủ yếu là do kinh doanh thức ăn
nhanh. Có thể coi McDonald’s là trường hợp kinh điển trong lịch sử nhượng quyền
kinh doanh của mọi thời đại.
1.1.2.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Dù hoạt động NQTM có phát triển như thế nào thì về bản chất, pháp luật của
hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận NQTM không phải là “việc kinh
doanh” cụ thể nào đó mà là một phương thức kinh doanh [2]. Đó chính là phương
thức hợp tác giữa ít nhất là hai bên chủ thể: chủ sở hữu các quyền SHTT (như nhãn
hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, biển hiệu hay các biểu tượng quảng
- 7cáo,…) với một hoặc nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh khác trong việc cùng
khai thác giá trị thương mại của các đối tượng NQTM của BNQ. Đổi lại, BNQ sẽ
nhận được các khoản phí do BNhQ trả.
Dựa vào bản chất đã phân tích, có thể thấy hoạt động NQTM có một số đặc
điểm sau:
- Về mặt chủ thể, hoạt động này bao gồm BNQ và BNhQ. Trong đó BNQ
bắt buộc phải là thương nhân có một hệ thống và cơ sở kinh doanh đang có lợi thế
cạnh tranh trên thị trường. BNhQ là một doanh nghiệp độc lập về mặt tài chính,
pháp lý và đầu tư, đồng thời chấp nhận rủi ro đối với nguồn vốn bỏ ra khi thực hiện
việc tham gia vào hệ thống nhượng quyền của BNQ. Điều này nghĩa là các bên của
hợp đồng NQTM là các thương nhân có quyền kinh doanh độc lập. Sự độc lập này
thể hiện ở chỗ: BNhQ khai thác hệ thống NQTM vì lợi ích của chính mình, và
BNhQ được tự do thực hiện các hoạt động khác, ngoài hợp đồng NQTM. Đặc điểm
độc lập này là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa quan hệ NQTM với quan
hệ chi nhánh.
- Về tính đồng bộ, thống nhất. NQTM là sự phát triển đồng bộ một thương
hiệu tạo ra sự thống nhất một hình ảnh các cửa hàng, để khách hàng vào bất cứ cơ
sở, cửa hàng nào trong hệ thống cũng đều cảm thấy thoải mái, hài lòng như nhau.
Hệ thống nhượng quyền như một guồng máy mà mỗi cửa hàng, cơ sở là một mắt
xích, để tạo nên chính thể đó. Sự thay đổi của một mắt xích tất yếu làm ảnh hưởng
tới cả hệ thống. Đây là điểm nhạy cảm của NQTM, bởi nó có thể giúp phát triển
danh tiếng của hàng hoá, hệ thống nhượng quyền một cách nhanh chóng nhưng
cũng có thế làm cho uy tín xây dựng trong một thời gian dài của sản phẩm/dịch vụ
nhượng quyền đó sụp đổ.
- Về mặt nội dung của khái niệm “quyền thương mại”. Nội dung của khái
niệm này tuỳ thuộc vào từng loại hình NQTM và sự thoả thuận của các bên mà
“rộng, hẹp” khác nhau. Đây là một khái niệm trừu tượng, có mối liên hệ đặc biệt
đối với các đối tượng của SHTT. Theo cách hiểu NQTM là nhượng quyền phương
thức kinh doanh thì quyền thương mại không chỉ dừng ở việc sử dụng tên thương
mại, kiểu dáng thiết kế của hàng hoá mà còn mở rộng không ngừng bao gồm nhiều
quyền năng khác trong hoạt động kinh doanh [2]. Cũng như các quan hệ khác,
NQTM càng phát triển mở rộng thì khả năng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, tranh
- 8chấp càng cao. Sở dĩ như vậy là do, bản thân “quyền thương mại” đã liên quan đến
lợi ích thiết thân của một nhà kinh doanh. Việc nhượng lại quyền thiết thân này
cho một chủ thể kinh doanh khác để cùng kinh doanh, cùng chia sẻ những lợi thế
mà quyền kinh doanh đem lại, vì thế, chắc chắn sẽ gây ra không ít tranh chấp.Vì
đặc điểm này mà hoạt động NQTM phải được pháp luật điều chỉnh.
- Về tính gắn kết của các bên trong hợp đồng NQTM. NQTM luôn tồn tại
mối quan hệ mật thiết giữa BNQ và BNhQ. Trong NQTM sự gắn bó của BNhQ và
BNQ là vô cùng chặt chẽ. Bởi NQTM về bản chất là sự nhân rộng một mô hình
kinh doanh đã thành công, BNhQ được BNQ chia sẻ các công thức kinh doanh, các
bí quyết kinh doanh, phương thức kinh doanh của BNQ nhằm tạo ra sự đồng bộ ở
tất cả các cửa hàng nhượng quyền so với cửa hàng chính của BNQ. Vì thế BNQ và
BNhQ phải tạo ra một mối quan hệ liên tục, thông suốt trong toàn bộ thời gian của
hợp đồng NQTM. BNQ phải hướng dẫn, giúp đỡ kĩ thuật, đào tạo những nhân viên
chủ lực cho BNhQ, đồng thời BNhQ không thể tự mình sáng tạo thêm các ý tưởng
mới trong kinh doanh- nhất là các ý tưởng có khả năng phá vỡ sự đồng nhất trong
hệ thống NQTM.
1.1.3. Đánh giá về mô hình kinh doanh theo phương thức NQTM
Franchise với những đặc điểm của nó chứng tỏ nó không chỉ là phương thức
kinh doanh hốt bạc, đảm bảo khả năng thành công của các bên tham gia một hệ
thống NQTM bất kỳ, mà còn là cách thức kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì thế,
đánh giá được cả ưu và nhược điểm của phương thức kinh doanh NQTM sẽ giúp
cho các chủ thể của hoạt động này có cái nhìn khách quan, chính xác hơn về hoạt
động này để có thể khai thác hết những mặt mạnh, đồng thời hạn chế được phần
nào những khiếm khuyết của phương thức này.
1.1.3.1. Đối với BNQ
* Ưu điểm của việc nhượng quyền
NQTM đem lại nhiều lợi ích cho nhà nhượng quyền, trong đó có thể kể đến
một số lợi ích rõ ràng nhất sau:
- Ưu điểm lớn nhất mà franchising mang lại là hệ thống kinh doanh của
BNQ được mở rộng mà hầu như không phải bỏ thêm vốn. Kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền thì bên giao quyền không cần phải tiêu tốn quá nhiều
- 9vốn đầu tư mà cũng có thể nhanh chóng mở rộng hệ thống kinh doanh, thiết lập
một mạng lưới kinh doanh rộng lớn trên toàn quốc và thậm chí trên toàn thế giới
thông qua việc sử dụng vốn đầu tư của BNhQ. Số cơ sở kinh doanh bán lẻ của
mạng lưới NQTM có thể tăng lên với tốc độ rất nhanh bởi vì sự phát triển này
không bị phụ thuộc, hạn chế bởi vốn của bên giao quyền. Kinh doanh theo phương
thức nhượng quyền đem lại nhiều lợi ích hơn là việc đầu tư một số lượng tiền và
nguồn lực tài chính khổng lồ khác vào việc xây dựng một mạng lưới các chi nhánh
hay thiết lập mạng lưới các nhà phân phối độc lập mà không có sự kiểm tra, giám
sát của BNQ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng thích hợp với mô hình này. Ví dụ
đối với thương hiệu Phở 24 - là thương hiệu khi nhượng quyền còn cần xem xét
đến cả mặt bằng kinh doanh, để có được mặt bằng kinh doanh đạt tiêu chuẩn chủ
thương hiệu này đã phải mất một thời gian mới có thể đưa được sản phẩm của
mình phát triển ra miền Bắc. Đấy là chỉ trong nội bộ một quốc gia, chưa kể đến khi
muốn phát triển mở rộng thị trường ra nước ngoài thì rất khó để Phở 24 có thể tìm
được mặt bằng ưng ý, thuê hoặc mua được mặt bằng đó tại nước sở tại để phát
triển kinh doanh. Còn rất nhiều khó khăn nữa mà khi muốn trực tiếp kinh doanh sẽ
rất khó cho một doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có nhiều cách thức mà mỗi doanh
nghiệp có thể lựa chọn nhằm khắc phục những khó khăn đó và NQTM là một
phương pháp phù hợp.
- Khi thực hiện NQTM, BNQ sẽ nhận được một khoản phí nhất định. Khoản
phí này có thể là phí nhượng quyền ban đầu mà nhà nhận quyền phải trả để được
tham gia vào hệ thống nhượng quyền. Ngoài khoản phí tham gia hệ thống mà
BNhQ phải trả, bên này còn phải trả những khoản phí khác như: phí định kỳ
thường xuyên cho đến hết thời gian tham gia hệ thống, các loại phí khác cho các
hoạt động hỗ trợ của BNQ,... Bởi vậy có thể dẫn đến tiết kiệm và phân chia hiệu
quả hơn một số loại chi phí mà BNQ vốn phải gánh chịu, như chi phí quảng cáo,
chi phí bảo vệ quyền SHTT, chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm/dịch
vụ,…Không những thế BNQ còn được hưởng lợi ích vô hình, tức là việc tăng lên
không ngừng của giá trị nhãn hiệu, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại và các tài
sản SHTT khác do sự phát triển của mạng lưới NQTM mang lại.
- BNhQ là bên trực tiếp kinh doanh tại khu vực nhượng quyền nên BNQ
không cần phải quá lo lắng về sự am hiểu phong tục, tập quán, thói quen của người
tiêu dùng tại khu vực đó. Nhờ vào kiến thức kinh doanh mà các BNhQ có được
trên thị trường riêng của mình mà một mạng lưới sẽ có khả năng dễ dàng tương
- 10thích với những gò bó, những đặc điểm của kinh tế địa phương và nhu cầu đặc
trưng của mỗi thị trường hơn là hệ thống chi nhánh. Từ đó giúp nâng cao khả năng
thành công của hệ thống NQTM hơn.
* Nhược điểm của việc bán Franchise
Bên cạnh những thế mạnh, NQTM cũng có những hạn chế mà nếu BNQ
không chú ý rất có thể có những rủi ro xảy ra như:
- NQTM có thể khiến cho BNQ dễ bị ăn cắp bí quyết kinh doanh, làm nhái
sản phẩm: Ví dụ cho quan điểm này chính là: cà phê Trung Nguyên – doanh
nghiệp trong nước đầu tiên áp dụng NQTM - đến nay có khoảng 1000 cửa hàng
NQTM trong và ngoài nước, nhưng trên thị trường vẫn còn tồn tại hàng trăm cửa
hàng Trung Nguyên giả mà chưa xử lý được. Hay cũng Cà phê Trung Nguyên
trong tình huống bị chính đối tác Mỹ ăn cắp thương hiệu. Khi Trung Nguyên nộp
hồ sơ xin đăng kí thương hiệu tại Mỹ với tên gọi “Trung Nguyên - Nguồn cảm
hứng sáng tạo mới”, thì biết chính phía đối tác Mỹ của mình là Công ty Rice Field
Carp đã đăng kí nhãn hiệu trước với tên gọi “Cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột –
Trung Nguyên”. Sau đó Trung Nguyên đã đòi lại được nhãn hiệu của mình nhưng
phải mất một số tiền khá lớn và mất đi nhiều cơ hội nhượng quyền vào thị trường
lớn Hoa Kì [1]. Không những thế khả năng bị làm nhái sản phẩm còn bị đe doạ bởi
chính từ phía BNhQ khi hết thời hạn hiệu lực của hợp đồng NQTM, lí do là khi kí
kết hợp đồng thì BNQ sẽ phải trao cho BNhQ toàn bộ bí quyết kinh doanh, cách
thức quản lý, và BNhQ thì được toàn quyền sử dụng nhãn hiệu và tên thương mại
của BNQ. Đặc điểm này sẽ giúp BNhQ hiểu rõ, thấu đáo về các vấn đề của BNQ
bao gồm:
- Giảm giá trị của thương hiệu: Chỉ cần một BNhQ không thực hiện đầy đủ
và đúng các ý tưởng kinh doanh, các yêu cầu nghiêm ngặt của BNQ đưa ra thì rất
dễ gây ra ảnh hưởng tới không chỉ cơ sở nhượng quyền đó mà đối với toàn bộ hệ
thống nhượng quyền, làm giảm giá trị thương hiệu hoặc tồi tệ nhất là làm đổ bể cả
chuỗi hệ thống NQTM. Ví dụ cho quan điểm này chính là: chủ thương hiệu Phở 24
đã phát hiện trong số các cửa hàng NQTM của mình có cửa hàng đã làm trái quy
định khi tìm cách giảm chi phí kinh doanh bằng việc giảm số lượng thịt trong tô
phở, tắt máy lạnh,… khiến nhiều khách hàng phàn nàn. Điều này nếu không được
chủ thương hiệu phát hiện sớm sẽ có nguy cơ làm mất uy tín của thương hiệu. Hay
- 11đôi khi chỉ là thái độ thiếu lịch sự của một nhân viên một cửa hàng franchise hay
vết bẩn trong món ăn dẫn tới tổn hại chung cho cả thương hiệu và các đối tác trong
hệ thống. Trong những năm đầu do là đơn vị đi tiên phong trong lãnh vực franchise
tại Việt Nam nên Trung Nguyên đã khá bối rối trong hướng đi của mình và nếu
không muốn nói là quá dễ dãi trong việc bán franchise nên dẫn đến hiện trạng là có
quá nhiều cà phê mang cùng nhãn hiệu Trung Nguyên nhưng không cùng một đẳng
cấp. Nói cách khác Trung Nguyên rơi vào tình thế mất kiểm soát chất lượng và
tính đồng bộ của mình vì bắt đầu bán franchise với số lượng lớn khi chưa có đủ sự
chuẩn bị. Thật vậy, có quán thì khá bề thế, có quán lại quá xập xệ, khiêm tốn hay
có quán có máy lạnh phục vụ tốt, tay nghề khá và có quán thì tay nghề kém, bình
dân, trang trí nội thất cũng không được thực sự đồng bộ theo một chuẩn mực
chung. Vì thế, từ cuối năm 2002 Trung Nguyên đã cho mời chuyên gia người Úc
sang để khắc phục tình trạng này, nhưng trên thực tế để điều chỉnh lại hệ thống với
hơn 400 quán cà phê trải dài khắp nước quả là một thách thức của người điều hành
mỗi quán cà phê và của người chủ thương hiệu nói chung.
1.1.3.2. Đối với BNhQ
* Ưu điểm của việc nhận quyền
Đối với bên này thì NQTM đem lại khá nhiều lợi ích. Điều này là do :
- Sức hấp dẫn của NQTM có thể tổng kết ở hai điểm căn bản: chi phí thấp và
ít rủi ro. BNhQ không phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian vào việc xây dựng
mô hình kinh doanh, đào tạo đội ngũ quản lý hoặc xây dựng một thương hiệu trên
thị trường. Đối với việc tham gia vào hệ thống NQTM, BNhQ có thể tiến hành
kinh doanh ngay sau khi được nhượng “quyền thương mại”. Để bù đắp vào khoản
chi phí cho phí nhận NQTM, BNhQ tiết kiệm được rất nhiều chi phí so với việc tự
mình tham gia thị trường với thương hiệu và mô hình kinh doanh riêng của mình.
Hơn nữa, kinh doanh theo một mô hình quản lý có sẵn, cung cấp một loại hàng
hoá, dịch vụ đã có sức cạnh tranh trên thị trường, phần trăm rủi ro trong kinh
doanh được giảm xuống mức đáng kể.
- BNhQ khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền sẽ nhận được sự hỗ trợ
của BNQ cả trước và sau khi khai trương cửa hàng như: về nhân lực (ví dụ đối với
hệ thống nhượng quyền của Phở 24 thì khi ký hợp đồng nhượng quyền với BNhQ,
chủ thương hiệu sẽ đào tạo cho đầu bếp của BNhQ, trong một thời gian còn cử
- 12nhân viên trong công ty đến trợ giúp BNhQ cách điều hành, quản lý), về chọn mặt
bằng (McDonald’s là điển hình, vì tập đoàn này không chỉ hướng dẫn BNhQ cách
chọn mặt bằng phù hợp tiêu chuẩn mà thường là tự mình tìm kiếm những mặt bằng
thích hợp để mua lại, sau đó nếu có BNhQ nào phù hợp mà tập đoàn muốn nhượng
quyền thì tập đoàn cho thuê lại – đây cũng chính là một khoản làm tăng lợi nhuận
của tập đoàn này),…
- Không những thế đối với các thương nhân mới tham gia kinh doanh lần
đầu hoặc đã kinh doanh nhiều nhưng vẫn thất bại thì có thể qua chính cách thức
thành một BNhQ để có thể tiếp thu được những cách thức kinh doanh, phương
thức kinh doanh mà đã thu được thành công của BNQ. Lí do bởi trong hầu hết các
BNQ trên thế giới khi nhượng quyền đều thiết lập một tài liệu hướng dẫn cách thức
kinh doanh trong đó ghi rõ các cách thức kinh doanh,…, không những thế BNhQ
còn được học tập ngay tại những cửa hàng, cơ sở của BNQ để nắm được cách thức
điều hành quản lý ra sao. Điều này sẽ rất là hữu ích, lí do là vì khi bạn được học
cách vì sao doanh nghiệp khác thành công, bạn sẽ có thể nhìn lại xem điều gì dẫn
bạn tới thất bại, nhờ thế nếu bạn vẫn còn định tiếp tục kinh doanh thì bạn sẽ biết
bước đi đúng hơn, chứ không đảm bảo khả năng thành công của bạn! Chúng ta
chắc cũng biết đến Dave Thomas, ông cũng từng là một franchisee của hệ thống
nhượng quyền KFC trong nhiều năm trước khi trở thành sáng lập viên kiêm chủ
tịch tập đoàn thức ăn nhanh Wendy.
- Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, mặc nhiên người nhận quyền sẽ
có được những khách hàng truyền thống của hệ thống. Nếu doanh nghiệp tự lập và
kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của chính mình thì doanh nghiệp sẽ phải mất thời
gian để chứng minh được uy tín của sản phẩm. Trong khi nếu nhận NQTM doanh
nghiệp sẽ nghiễm nhiên có được các khách hàng của hệ thống, bởi lúc này sản
phẩm hay dịch vụ của hệ thống đã được chứng minh bởi BNQ và cả hệ thống trong
thời gian trước khi BNhQ tham gia hệ thống.
- Khi kinh doanh các doanh nghiệp còn phải không ngừng nâng cao uy tín và
hình ảnh của mình trong mắt công chúng, điều này có thể thấy rõ khi Coca – Cola
đã là một nhãn hiệu nổi tiếng được phần lớn người tiêu dùng trên thế giới biết đến
nhưng vẫn tiếp tục các chiến dịch quảng cáo, khuyến mại của mình. Nếu doanh
nghiệp của bạn nhỏ, vốn đầu tư hạn chế bạn rất khó để có thể thường xuyên quảng
cáo, tiếp thị cho sản phẩm/dịch vụ của mình, nhất là trong thời đại ai ai cũng nhìn
- 13thấy sức mạnh của quảng cáo như ngày nay. Nếu bạn là một thành viên của hệ
thống NQTM, bạn chỉ cần đóng một lượng phí nhỏ hơn rất nhiều mà lại được
quảng cáo thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng.
* Thách thức của việc nhận franchise
- Đối với BNhQ thì mặc dù có tính tự chủ tương đối nhưng bởi vì đặc trưng
của NQTM là chia sẻ cùng sử dụng “quyền thương mại” nên để bảo vệ uy tín của
thương hiệu, để tránh sự sụp đổ của cả hệ thống mà BNhQ vẫn phải chịu các ràng
buộc, hạn chế nhất định liên quan đến hoạt động kinh doanh, cạnh tranh, hay
chuyển giao doanh nghiệp từ BNQ, không hoàn toàn được tự do quyết định hay
thay đổi tất cả những gì nằm trong cửa hàng của mình. Ví dụ như phần trang trí nội
thất, thực đơn, đồng phục, giờ hoạt động của cửa hàng phải đồng bộ với các cửa
hàng khác trong cùng hệ thống franchise, BNhQ không thể tự tiện thêm bớt các ý
tưởng của riêng mình. Bởi những quy định này được áp dụng chung cho cả hệ
thống NQTM nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của chuỗi cửa hàng NQTM.
Không những thế để hạn chế tới mức tối đa các nhược điểm của NQTM, BNQ
thường buộc BNhQ phải chấp nhận những HCCT nhất định như giới hạn về địa
điểm kinh doanh, nghĩa vụ không cạnh tranh với BNQ, hạn chế về giá, về khách
hàng, buộc BNhQ phải mua các nguyên vật liệu đầu vào từ BNQ hay bên thứ ba
được chỉ định,…Điều này dẫn đến tình trạng là về mặt hình thức thì BNhQ có vẻ
độc lập nhưng thực tế lại luôn luôn bị kiểm soát. Sự kiểm soát này có thể làm cho
BNhQ mất đi sự sáng tạo của mình.
- Bất lợi chính từ điểm có lợi: Đó chính là việc ảnh hưởng dây chuyền của
hệ thống Franchise. Nếu như mặt có lợi của Franchise chính là việc BNhQ được
hưởng lợi từ chính những thành quả của cả hệ thống, thì do tính chất thống nhất
đồng bộ của NQTM nên rất dễ dẫn tới ảnh hưởng dây chuyền trong toàn bộ hệ
thống nhượng quyền. Chỉ cần một cơ sở “có vấn đề” có thể sẽ làm ảnh hưởng xấu
tới các cơ sở khác mặc dù lỗi đó là thuộc về bản thân cơ sở nhận quyền đó, chứ
không phải là đặc điểm của cả hệ thống.
- Thêm một điều nữa là tất cả những công sức và tiền của mà chủ cửa hàng
franchise bỏ ra để quảng cáo, củng cố thêm cho thương hiệu đều sẽ thuộc về người
chủ thương hiệu. Điều này làm cho một số BNhQ dự kiến lưỡng lự, không nhiệt
tình đóng phí marketing hay quảng cáo cho hệ thống franchise. Mà điều này lại có
- 14thể chính là một lí do để BNQ chấm dứt hợp đồng với BNhQ làm cho toàn bộ công
sức và nguồn vốn mà BNhQ đã bỏ ra để tham gia vào hệ thống thành vô nghĩa.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế thị trường
* Ưu điểm
Nhượng quyền thương mại bùng nổ và phát triển mạnh mẽ đem lại nhiều
cái lợi cho nền kinh tế nói chung:
- Về phía người tiêu dùng: Hoạt động NQTM giúp người tiêu dùng thuận lợi
hơn trong việc tiếp cận với hàng hoá, dịch vụ với một hệ thống bán hàng hoặc cung
cấp dịch vụ đồ sộ. Hơn nữa, ở hướng tích cực thì người tiêu dùng có thể có những
sản phẩm/dịch vụ đảm bảo chất lượng, được phục vụ như nhau tại nhiều nơi không
có sự phân biệt đối xử. NQTM còn sẽ làm cho khả năng người tiêu dùng được bảo
vệ tăng lên, bởi nếu có điều gì đó xấu xảy ra thì với một tiềm lực mạnh và vì uy tín
của thương hiệu mà chủ thương hiệu sẽ cố gắng để người tiêu dùng có thể phục hồi
nhanh nhất, được người tiêu dùng ủng hộ, hơn nữa vì thương hiệu của mình mà
chủ thương hiệu sẽ hạn chế đến mức tối đa những tác động xấu có thể ảnh hưởng
đến người tiêu dùng.
- Về sự phát triển của xã hội: NQTM giúp cho các doanh nghiệp mới tránh
được thất bại, nhờ thế lượng vốn được đầu tư hợp lý, các tình trạng xấu như phá
sản, vốn tồn đọng được giải quyết. BNQ khi kiểm soát được các tiêu chuẩn đối với
BNhQ thì uy tín được đảm bảo, lượng khách hàng tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ của
mình được nâng cao, sẽ giúp cho BNQ yên tâm phát triển sản phẩm phục vụ người
tiêu dùng tốt hơn, đem lại lợi nhuận ngày càng tăng cho BNQ. Đất nước có nhiều
doanh nghiệp tham gia các hệ thống NQTM thành công thì khả năng phát triển
được tiềm lực kinh tế, tăng uy tín của mình trên trường quốc tế, thu hút đầu tư, đời
sống người dân được ổn định càng tăng cao.
- Về nền kinh tế: Nền kinh tế theo sự phát triển của NQTM sẽ cũng được
phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Khi NQTM phát triển sẽ kích thích cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp nhượng quyền, các doanh nghiệp này để cạnh tranh
với nhau sẽ cố gắng tìm cách nâng cao uy tín doanh nghiệp, để được nhiều thương
nhân khác chú ý tham gia vào hệ thống nhượng quyền của mình. BNQ ngày càng
mở rộng hệ thống kinh doanh và ngày càng tiếp nhận thêm nhiều BNhQ mới, vì
- 15thế, sự sôi động của nền kinh tế càng được thúc đẩy bởi sự gắn bó, sự liên kết bằng
lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh trong hoạt động NQTM.
* Ảnh hưởng xấu tới thị trường
- Do tính chất của hoạt động NQTM mà các bên chủ thể thường xây dựng
các thoả thuận có tính chất HCCT. Những quy định HCCT như vậy trong NQTM
trong một chừng mực nhất định có thể bị lạm dụng bởi các bên, nhất là bởi BNQ,
và có thể vi phạm PLCT. Bởi nó tác động xấu tới cạnh tranh trên thị trường, có thể
hạn chế các doanh nghiệp khác tham gia thị trường, không khuyến khích phát triển
cạnh tranh trên thị trường, làm ảnh hưởng lợi ích người tiêu dùng.
- Nếu pháp luật về hoạt động này không đủ mạnh thì chính bởi việc NQTM
có liên quan tới các bí quyết kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu,…các đối
tượng của quyền SHTT, sẽ làm cho tình trạng xâm phạm quyền SHTT tăng cao,
không khuyến khích các bên phát triển hoạt động này, nhất là BNQ. Không những
thế còn đe doạ tới lợi ích của bất kì chủ thể nào có ý định kinh doanh bằng phương
thức NQTM. Dễ dẫn tới sự sụp đổ của cả hệ thống NQTM đang tồn tại, hoặc một
thương hiệu sản phẩm/ dịch vụ đang tồn tại, gây tổn hại tới lợi ích kinh tế của các
bên chủ thể của hoạt động này nói riêng và lợi ích kinh tế của toàn xã hội nói
chung.
1.2. Khái quát về pháp luật nhượng quyền thương mại
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về NQTM
Càng được khuyến khích mở rộng quan hệ NQTM càng chứa đựng những
khả năng gây ra tranh chấp thương mại. Việc nhượng lại quyền thương mại-vốn là
tài sản thuộc sở hữu của BNQ - cho một chủ thể kinh doanh khác để cùng kinh
doanh, cùng chia sẻ những lợi thế mà “quyền kinh doanh” đem lại, vì thế, chắc
chắn sẽ gây ra không ít tranh chấp. Sự không tuân thủ nghĩa vụ của BNhQ đôi khi
lại là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống, gây thiệt hại cho không chỉ
những chủ thể của quan hệ này mà còn là cho cả nền kinh tế. Hơn nữa, khi một
quan hệ xã hội mới xuất hiện luôn đặt ra một yêu cầu là Nhà nước phải xây dựng
các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đó nhằm đẳm bảo được chức
năng quản lý xã hội của Nhà nước. Xuất phát từ các yêu cầu đó, đòi hỏi các quốc
gia phải đặt hoạt động này vào trong khuôn khổ pháp lý. Chính vì vậy pháp luật về
- 16NQTM ra đời. Sự tồn tại và phát triển của hoạt động NQTM là cơ sở thực tiễn cho
sự ra đời và phát triển của pháp luật về NQTM. Có thể định nghĩa pháp luật về
NQTM chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và thừa
nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực
hiện hoạt động NQTM.
Hoạt động NQTM chính là hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh, bởi thế nên pháp luật về NQTM chính là một bộ phận cấu thành nên hệ
thống pháp luật thương mại. Trong vị trí ấy, pháp luật về NQTM có những vai trò
sau:
- Pháp luật về NQTM có vai trò tạo hành lang pháp lý cho hoạt động NQTM
diễn ra một cách lành mạnh.
Pháp luật về NQTM sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động
NQTM. Họ sẽ thấy hoạt động kinh doanh của mình được pháp luật thừa nhận, bảo
vệ và khuyến khích, từ đó họ sẽ mạnh dạn trong kinh doanh hơn, mở rộng quy mô,
tìm nhiều đối tác để nhượng quyền,…Không những thế, pháp luật với chức năng
tiên liệu trước được các quan hệ xã hội có thể phát sinh, các tình huống có thể xảy
ra, có thể giúp doanh nghiệp căn cứ vào đó tránh được những sai sót không đáng
có. Pháp luật sẽ có những hướng dẫn đứng mực cho các chủ thể kinh doanh để họ
có thể đi đến thành công trong việc áp dụng phương thức kinh doanh NQTM. Mặt
khác, pháp luật về NQTM lại là công cụ trong tay Nhà nước để duy trì hoạt động
NQTM diễn ra một cách lành mạnh bằng việc kiểm soát các hành vi có thể làm
biến dạng cạnh tranh, làm mất đi động lực phát triển của nền kinh tế. Vai trò lớn
nhất của pháp luật về NQTM là đảm bảo được chức năng điều tiết các hoạt động
NQTM, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách phù hợp với quy luật của nền
kinh tế thị trường, xác lập các hoạt động kinh doanh công bằng.
- Pháp luật về NQTM bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan
hệ nhượng quyền và lợi ích của toàn xã hội.
Đây là vai trò không chỉ của pháp luật NQTM mà là của cả hệ thống pháp
luật. Pháp luật về NQTM khi điều chỉnh quan hệ NQTM luôn dung hoà lợi ích của
các bên để tránh lợi ích của người này ảnh hưởng xấu tới lợi ích của người khác.
Khi pháp luật đã đảm bảo được lợi ích của các bên thì sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả kinh tế, tạo lập môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động NQTM. Đây cũng
- 17chính là những lợi ích mà xã hội được hưởng khi có một chính sách pháp luật
NQTM đúng đắn. NQTM chỉ thực sự phát huy được các ưu điểm của nó tại những
nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, do đặc điểm của NQTM liên quan nhiều
đến vấn đề về bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, công nghệ và việc
giữ gìn bí mật kinh doanh, giữ gìn uy tín. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của
pháp luật trong sự phát triển của hoạt động NQTM.
1.2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về NQTM và PLCT
Trong hoạt động NQTM thường thấy xuất hiện quy định BNQ yêu cầu
BNhQ không được chuyển cửa hàng khỏi vị trí đã được xác định trong hợp đồng
NQTM hay không được chuyển giao cửa hàng cho bên thứ ba bất kì mà không có
sự đồng ý của BNQ; hay BNQ có quyền chuyển giao quyền thương mại cho nhiều
BNhQ khác nhau; BNhQ có quyền độc quyền sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu,
kinh doanh trong một khu vực địa lý theo sự xác định trong hợp đồng NQTM. Việc
pháp luật về NQTM trao quyền khai thác độc quyền cho BNQ và các BNhQ có thể
dẫn tới việc xung đột với pháp luật về cạnh tranh. Tuy nhiên, không nên hiểu rằng
sự xung đột này là cố hữu, bởi vì cả hai lĩnh vực pháp luật nói trên cùng chia sẻ
một mục tiêu cơ bản là khuyến khích sự thịnh vượng của người tiêu dùng và sự
phân phối hiệu quả các nguồn lực. NQTM khuyến khích sự cạnh tranh bằng việc
cổ vũ các BNQ tập trung đầu tư vào việc phát triển các sản phẩm và quy trình mới,
hoặc cải tiến sản phẩm nhằm tích cực thu hút khách hàng hơn nữa, hoặc bởi việc
độ thành công của NQTM là tương đối cao nên thu hút nhiều đối thủ cạnh tranh
tiềm năng gia nhập thị trường, làm môi trường cạnh tranh sôi động hơn. Tuy nhiên,
như đã trình bày pháp luật NQTM trao cho các chủ thể một số độc quyền, việc này
có thể gây ảnh hưởng đến cạnh tranh nên tuỳ từng tình huống cụ thể,căn cứ vào
hậu quả HCCT so với ảnh hưởng khuyến khích cạnh tranh của mỗi quy định trong
hợp đồng NQTM mà một quy định có vi phạm PLCT hay không.
Kinh nghiệm pháp luật các nước cho thấy việc quy định cụ thể một dạng
điều khoản nào đó trong hợp đồng NQTM là vi phạm PLCT đều có thể dẫn tới hậu
quả bóp méo hoạt động này. Do đó, việc phải thiết lập các quy định linh hoạt phù
hợp với cả PLCT và pháp luật về NQTM là cực kỳ cần thiết. Sự linh hoạt này phải
thực hiện được mục tiêu ngăn chặn sự lạm dụng quyền độc quyền nhưng không
ảnh hưởng đến việc khuyến khích phát triển hoạt động NQTM. NQTM đóng vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế bằng việc phổ biến các phát minh, sáng kiến,
- 18phương thức kinh doanh thành công qua đó làm giảm các tiêu cực của nền kinh tế
thị trường như phá sản và việc khuyến khích các thành viên mới gia nhập thị
trường. Điều này dẫn đến sự khai thác có hiệu quả các thành quả của SHTT và
kinh nghiệm kinh doanh. Chủ sở hữu thương hiệu nói chung thường không thể tự
mình phát triển việc kinh doanh rộng khắp thông qua việc khai thác giá trị quyền
SHTT mà không giao kết các hợp đồng NQTM. NQTM cũng góp phần làm tăng
giá trị của quyền thương mại thông qua việc chia sẻ chi phí quảng cáo, chi phí
nghiên cứu phát triển sản phẩm, chi phí giới thiệu các cải tiến mới và thông qua đó
làm gia tăng thu nhập của các bên. Chính vì vậy, NQTM phải được khuyến khích,
dù đó là NQTM giữa các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác như đã đề cập đến ở trên,
những quy định HCCT trong các thoả thuận nhượng quyền có thể bị lạm dụng bởi
các bên, gây ảnh hưởng đến quy luật cạnh tranh của thị trường mà sau cùng là ảnh
hưởng trực tiếp đến thị trường, bóp méo thị trường.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về NQTM và pháp luật về
cạnh tranh đều là những bộ phận của hệ thống pháp luật thương mại, vì thế giữa
chúng có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau. Hay nói theo quan điểm triết học
Mác Lênin thì pháp luật về NQTM và pháp luật về cạnh tranh là hai cái riêng trong
một cái chung là hệ thống pháp luật thương mại. Vì thế việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa chúng là việc nên làm, để có thể hoàn chỉnh hệ thống pháp luật thương mại
của quốc gia thì việc nghiên cứu mối quan hệ giữa NQTM và PLCT và cả với các
pháp luật khác như pháp luật về SHTT,…là cần thiết.
Ở Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU) cho đến nay đã có nhiều tranh chấp liên
quan đến NQTM trên cơ sở PLCT. Mặc dù pháp luật về NQTM ở các quốc gia này
đã phát triển và luôn được hoàn thiện, nhưng các bên có liên quan vẫn sử dụng các
quy định của PLCT để chống lại những hành vi HCCT trong NQTM, chống lại các
hành vi lạm quyền của BNQ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền về cạnh tranh
thậm chí vẫn ban hành các quy định về việc áp dụng PLCT trong hoạt động
NQTM. Ở Việt Nam, trong hệ thống pháp luật thương mại thì NQTM là khái niệm
dù còn nhiều bỡ ngỡ nhưng dù sao cũng đã được đề cập tại nhiều văn bản dưới luật
như: Nghị định số 35/2006 của Chính phủ quy định chi tiết về NQTM và Thông tư
số 09/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn đăng ký NQTM. Trong khi đó PLCT
thực sự còn mới ở Việt Nam dù được ban hành từ năm 2004, và vì điều này nên
việc áp dụng PLCT trong hoạt động NQTM có thể vẫn còn là vấn đề xa lạ ở Việt
Nam. Tuy nhiên, hoạt động NQTM hiện đang rất phát triển ở Việt Nam và tương
- 19lai sẽ còn phát triển hơn nữa. Do đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về
cạnh tranh khi thực hiện hoạt động NQTM cũng như các vụ tranh chấp liên quan là
rất cần thiết nhằm có thể đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt
động NQTM diễn ra trên thị trường Việt Nam; có thể vận dụng những quy định đó
để bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt
động NQTM ra nước ngoài, đặc biệt là vào các nước có PLCT phát triển như Mỹ
và EU, có thể tránh được các kiện tụng liên quan tới các hành vi HCCT của BNQ
Việt Nam, giúp cho cả các cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực tương ứng có
những hiểu biết đầy đủ, từ đó có những hướng để hoàn thiện dần pháp luật về
NQTM nói chung và pháp luật về thương mại nói riêng, hoàn thiện pháp luật quốc
gia để phù hợp với pháp luật quốc tế đưa pháp luật Việt Nam gần với pháp luật thế
giới hơn, đáp ứng xu thế hội nhập.Trên cơ sở đó, luận văn này có mục đích phân
tích những nội dung cơ bản của việc áp dụng PLCT của Mỹ và EU trong hoạt động
NQTM; xem xét và so sánh với những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực này. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm áp dụng có hiệu quả
PLCT trong hoạt động NQTM ở Việt Nam.
Tóm tắt chương 1
Như vậy có thể thấy, việc nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và trên thế
giới - tại các nước phát triển như tại Mỹ và các nước Châu Âu, đều phải tuân thủ
những quy định ràng buộc của pháp luật nước sở tại và luật pháp quốc tế liên quan
đến vấn đề nhượng quyền thương mại. Những ràng buộc này sẽ góp phần cho hoạt
động nhượng quyền thương mại đi vào chiều sâu của sự phát triển, cũng như nếu
có xảy ra những rủi ro trong tranh chấp cũng có cơ sở để giải quyết các vấn đề trên
một cách hợp lý theo luật.
Đối với Việt Nam, dù cũng mới tham gia vào hình thức nhượng quyền
thương mại này, việt Nam cũng đã xây dựng những bộ luật và các nghị định hướng
dẫn thi hành những hoạt động trên nhằm phù hợp với điều kiện Việt Nam và luật
pháp quốc tế nói chung, góp phần vào việc ổn định và phát triển kinh tế theo
hướng nhượng quyền thương mại trong tương lai.
- 20-
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.1. Đôi điều về nhượng quyền thương mại trên thế giới:
Luật kinh doanh của nhiều quốc gia trên thế giới cấm chủ thương hiệu bắt
buộc đối tác mua franchise phải mua hàng do chính mình cung cấp trừ khi mặt
hàng đó không thể tìm mua ở các nguồn cung cấp khác. Coca-Cola là một trường
hợp điển hình khi lúc nào cũng yêu cầu đối tác mua franchise phải mua nguyên
liệu với công thức bí mật từ công ty mẹ - chủ thương hiệu. Một trường hợp khác là
Mc Donald’s: Mc Donald’s còn độc quyền cung cấp cho cả hệ thống franchise một
số mặt hàng chiến lược như máy xay sinh tố đa năng, khoai tây chiên, phomát và
bánh táo chiên. Hay chuỗi cửa hàng tiện ích 7-to-Eleven tính phí nhượng quyền
cao là vì trong phí này có bao gồm luôn các trang thiết bị cung cấp bởi chủ thương
hiệu. Những trường hợp này liệu có được coi là điều khoản vi phạm PLCT bởi
theo lý luận thông thường thì những quy định này có thể gây HCCT trên thị trường
sản phẩm liên quan, hạn chế sự tham gia thị trường của các bên thứ ba.
Bên cạnh những điều khoản độc quyền thì trong hợp đồng NQTM còn có thể
có một số quy định về phân chia thị trường giữa BNQ và BNhQ, hoặc giữa các
BNhQ với nhau. Điều khoản về phân chia thị trường trong hợp đồng NQTM
thường có hai dạng:
- Điều khoản về phân chia lĩnh vực kinh doanh
- Điều khoản về phân chia khách hàng.
Điều đó chứng tỏ trong hợp đồng NQTM bao giờ cũng có các điều kiện về
HCCT giữa BNQ và BNhQ. Những điều kiện về HCCT này có thể nói, hết sức
nhạy cảm với pháp luật về cạnh tranh của quốc gia cũng như quốc tế, vì vậy hai
bên phải hết sức cẩn thận khi đưa các điều kiện này vào hợp đồng, vì nếu một điều
khoản nào đó trái với pháp luật về cạnh tranh thì hợp đồng có thể coi là vô hiệu.
Dưới góc độ pháp lý, những điều kiện HCCT được coi là nghĩa vụ của các bên
- Xem thêm -