tiểu luận môn kinh tế xã hội đại cương
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÝ
------
TIỂU LUẬN
Chuyên đề: ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
1
Giảng viên hướng dẫn:
TS. Nguyễn Tưởng
Học viên thực hiện:
Phan Thị Cẩm Giang
Lớp:
LL và PPDH Địa lí K25
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
Huế, tháng 12 năm 2016
Xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo TS.
Nguyễn Tưởng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để em hoàn
thành đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh
khỏi những hạn chế khi thực hiện bài tiểu luận này. Kính mong
Quý thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp đóng góp ý kiến để
tiểu luận hoàn thiện hơn!
Học viên: Phan Thị Cẩm Giang
2
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................4
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................4
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................6
Chương 1: CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐÊN MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...................................................6
1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa...............................................................6
1.2. Ảnh hưởng của công nghiệp hóa hiện đại hóa.......................................7
1.3. Tác động của công nghiệp hóa hiện đại hóa đến môi trường ở
Việt Nam.......................................................................................................8
Chương 2: VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Phát triển công nghiệp xanh ..................................................................11
2.2. Phát triển ngành công nghiệp môi trường - bảo vệ môi trường trong
quá trình công nghiệp hóa.............................................................................12
2.3. Giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường........14
2.4. Công nghiệp hóa - sinh thái...................................................................15
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁP VỀ VẤN ĐỀ CÔNG
NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI MÔI TRƯỜNG .....................16
3.1. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận
thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường.....................................................16
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, bảo vệ môi trường. . ..16
3.3. Chủ động hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển môi trường bền vững
....................................................................................................................17
3.4. Đẩy mạnh CNH HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường..................................................................................................17
3.5. Xử lí triệt để những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đẩy
mạnh cải tạo môi trường..............................................................................18
3.6. Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường…………………………..…..20
3.7. Tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh việc chuyển
giao ứng dụng công nghệ và đào tạo nhân lực.………………….…...........20
3
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
3.8. Nâng cao hiệu quả quản lí Nhà Nước về bảo vệ môi trường...…….....20
C. PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................22
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những thập niên gần đây, các nước và nhiều tổ chức quốc tế rất quan tâm
đến phát triển bền vững. Trong đó quan tâm đến vấn đề môi trường trong sự phát
triển bền vững vì vấn đề này ngày càng đe dọa một cách hiện hữu đến kinh tế xã
hội của mỗi quốc gia cũng như toàn cầu.
Trong hơn 30 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn trong kinh tế xã hội và đã quan tâm, chú ý đến lĩnh
vực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên trên thực tế hiện
nay việcbảo vệ môi trường ở nước ta chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước.
Môi trường vẫn bị chính các hoạt động sản xuất và sinh hoạt làm ô nhiễm
nghiêm trọng hơn, sự phát triển bền vững vẫn đứng trước những thách thức lớn
lao. Điều này đòi hỏi mọi người, mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương trong cả
nước phải thường xuyên cùng nhau nỗ lực giải quyết vấn đề môi trường.bảo vệ
môi trường có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự nghiệp phát triển của đất nước
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đề tài "Công nghiệp hóa - hiện đại hóa với vấn đề môi trường" tìm hiểu
cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động của CNH - HĐH đến môi trường; vấn đề
bảo vệ và cải thiện môi trường trong quá trình CNH - HĐH và một số giải pháp
phát huy tác động tích cực và hạn chế tiêu cực của CNH - HĐH đến môi trường
ở Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
a, Mục tiêu Tìm hiểu về tác động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến vấn
đề môi trường ở Việt Nam.
b, Nhiệm vụ
4
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động của CNH - HĐH đến môi
trường ở Việt Nam.
- Tìm hiểu vấn đề bảo vệ và cải thiện môi trường trong quá trình CNH - HĐH
- Đề xuất một số giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tiêu cực của
CNH - HĐH đến môi trường ở Việt Nam.
3, Phạm vi nghiên cứu
Trong một khoảng thời gian ngắn, đề tài chỉ tìm hiểu nội dung cơ bản về
tác động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến vấn đề môi trường ở Việt Nam.
4, Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, phân loại tài liệu
Thu thập các tài liệu, số liệu thống kê có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Các nguồn tư liệu chủ yếu ở các thư viện, trên Internet. Từ những tài liệu, số liệu
thống kê thu thập được, tác giả tiến hành phân loại các nguồn tài liệu này thành
các nhóm phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Trên cơ sở những số liệu thống kê, tài liệu đã thu thập và phân loại, tác giả
tiến hành phân tích, xử lí và tổng hợp chúng để phục vụ cho việc nghiên cứu đề
tài; đồng thời xem xét mức độ khách quan và chính xác của chúng.
- PP khảo sát, điều tra thực tế
5
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM
1.1. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Trong cuốn giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô (1958) định nghĩa
"công nghiệp hoá XHCN là phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp
nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên
cơ sở kỹ thuật tiên tiến.” Quan điểm công nghiệp hoá là quá trình xây dựng và
phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng của các nhà kinh tế học
Liên Xô đã được chúng ta tiếp nhận thiếu sự phân tích khoa học đối với điều
kiện cụ thể của nước ta. Cuốn “Từ điển tiếng Việt” đã giải thích công nghiệp hoá
là quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh
tế quốc dân và đặc biệt công nghiệp nặng, dần tới sự tăng nhanh trình độ trang bị
kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế, quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước những năm 60, ta đã mắc phải sai lầm
đó, kết quả là nền kinh tế vẫn không thoát khỏi nền công nghiệp lạc hậu, nông
nghiệp lạc hậu, kết cấu hạ tầng yếu kém... Mặc dù không đạt được mục tiêu
nhưng cũng chính nhờ công nghiệp hoá mà nước ta đã xây dựng được một số cơ
sở vật chất kỹ thuật nhất định, tạo ra tiềm lực về kinh tế- quốc phòng, phục vụ
chiến tranh, đảm bảo được phần nào đời sống nhân dân.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO)
đã đưa ra một định nghĩa: “công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế,
trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân
được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở chính trong nước với
kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn thay
đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo cho
toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của nền
kinh tế và xã hội.” Theo quan điểm này, quá trình công nghiệp hoá nhằm thực
hiện nhiều mục tiêu chứ không phải chỉ nhằm một mục tiêu kinh tế - kỹ thuật.
6
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Theo quan niệm mới phù hợp với điều kiện nước ta thì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công
nghệ, xây dựng cơ cấu vật chất - kỹ thuật, là quá trình chuyển nền sản xuất xã
hội từ trình độ công nghệ thấp sang trình độ công nghệ cao hơn, nhờ đó mà tạo
ra sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu
hóa, chúng ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế
nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH); chuyển từ kinh tế nông-công
nghiệp lên kinh tế tri thức (HĐH). Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá
trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này
được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển
nhảy vọt, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hóa là nhằm phát triển kinh tế-xã
hội, đưa nước ta theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
1.2. Ảnh hưởng của công nghiệp hóa hiện đại hóa
Đối với kinh tế:
Thông qua công nghiệp hóa, các nguồn lực được phân bổ nhiều hơn cho khu
vực công nghiệp, khu vực năng suất lao động được nâng cao nhanh chóng. Nhờ
đó, kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Khi công nghiệp với đặc trưng sản xuất
quy mô lớn là sản xuất hàng loạt phát triển, sẽ dẫn tới việc cần nhiều đầu vào
hơn và cần thêm thị trường tiêu thụ, nên công nghiệp hóa làm cho thương mại
nội địa lẫn thương mại quốc tế phát triển.
Đối với xã hội và môi trường:
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa sẽ phát triển. Sự hình thành
và phát triển của các đô thị lại dẫn tới sự bùng nổ dân số, và sự phát triển của xã
hội đại chúng. Do vậy, chế độ chính trị và pháp luật cũng có những thay đổi,
những tập quán và truyền thống của xã hội nông nghiệp bị mai một. Công
nghiệp hóa làm tăng sự mất công bằng trong phân phối thu nhập giữa các địa
phương, các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội.
Công nghiệp hóa nảy sinh những vấn đề của đời sống hiện đại như ô nhiễm
tiếng ồn, không khí, nước, dinh dưỡng nghèo nàn, máy móc nguy hiểm, công
7
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
việc cộng đồng, sự cô đơn, vô gia cư và lạm dụng vật chất. Những vấn đề sức
khỏe ở các quốc gia công nghiệp gây ra bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị
và văn hóa. Công nghiệp hóa dẫn tới ô nhiễm môi trường do chủ yếu trên
phương diện sự gia tăng các loại chất thải công nghiệp. Biến đổi khí hậu toàn
cầu cũng là một minh chứng cụ thể cho những ảnh hưởng của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đến môi trường.
1.3. Tác động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến môi trường ở Việt
Nam.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đang trong quá trình
phát triển mạnh mẽ. Không những ở thành thị mà cả ở nông thôn. Quá trình này
đã đem lại những thành tựu to lớn cho đất nước. Những khu công nghiệp , cụm
công nghiệp ngày càng nhiều, những khu đô thị mới hiện đại mọc lên, sản xuất
hàng hóa, chế biến nông sản, thực phẩm ở nông thôn ngày càng trở nên sôi động.
Khối lượng của cải vật chất đã tăng lên theo cấp số nhân. Sau gần 30 năm đổi
mới, công nghiệp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng trung bình trên 10%/năm,
đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Song phát triển công nghiệp thường kèm theo nguy cơ gây ra ô nhiễm môi
trường. Quá trình công nghiệp hóa thường kèm theo tốc độ đô thị hóa nhanh,
mức độ phát thải lớn, tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng tăng đến mức
tối đa và kết cục là môi trường bị hủy hoại do ô nhiễm mạnh, tài nguyên thì cạn
kiệt ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và đe dọa toàn bộ hệ sinh thái. Công
nghiệp là một những ngành tạo ra nhiều chất thải nhất ảnh hưởng tiêu cực đến
môi trường. Những ngành công nghiệp có mức độ gây ô nhiễm cao như khai
thác than và khoáng sản; công nghiệp sản xuất điện; công nghiệp hóa chất; công
nghiệp luyện kim; công nghiệp thực phẩm, dệt may, da giầy… khiến cho Chính
phủ phải đặt ra những bài toán kèm theo lời giải mang tính hiệu quả cao.
Theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia môi trường nước ta, tỷ lệ tốc độ
tăng ô nhiễm so với tốc độ tăng GDP ở nước ta thấp hơn một số nước có cùng
trình độ. Thế nhưng nhìn chung tình trạng môi trường nước ta vẫn đang trong
chiều hướng suy thoái nghiêm trọng.
8
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Chỉ tiêu tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công
nghiệp hàng năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các khu công
nghiệp và vùng đô thị; việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra
những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường. Nạn ô nhiễm ở các khu công
nghiệp đang gia tăng, nhiều nơi đang là vấn đề nan giải. Theo số liệu của ủy ban
Khoa học - Công nghệ - Môi trường của Quốc hội cho thấy, mới có 60 khu công
nghiệp có trạm xử lý nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận
hành). Mỗi ngày, các khu công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải độc
hại ra môi trường. Hầu hết các cụm, điểm, khu công nghiệp chưa đáp ứng được
những tiêu chuẩn môi trường
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ kéo theo hiện tượng đô thị hóa.
Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010 đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào
2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý đô thị. Theo nghiên
cứu của Bộ Khoa học - Công nghệ các đô thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Việt Trì,
Ninh Binh, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa... là những tụ điểm phát thải các
chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600
tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng... Như vậy ở các
khu dân cư, nhất là các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm không khí, ô nhiễm các
nguồn nước khá nặng đang chờ những khoản đầu tư rất lớn để giải quyết.
Đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn
phát triển các làng nghề. Theo thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra
11 triệu việc làm thường xuyên và không thường xuyên. Tuy nhiên do sản xuất
tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các làng nghề gây ô nhiễm môi
trường. Thiết bị, công nghệ sản xuất ở các làng nghề vẫn lạc hậu, mặt bằng thì
chật hẹp. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do quy
mô sản xuất trong các làng nghề là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất, gia công hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống ở địa bàn nông thôn, chủ
yếu là quy mô hộ gia đình; công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc
hậu, chắp vá, chưa được đầu tư đồng bộ, hầu hết các cơ sở sản xuất trong làng
nghề chỉ chú trọng sản xuất, kinh doanh, vấn đề thu gom xử lý chất thải, khói bụi
9
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
độc hại, nước thải của các làng nghề chưa được quan tâm đúng mức. Kết quả
khảo sát tại 52 làng nghề điển hình trong cả nước cho thấy, có đến 46% số làng
nghề có môi trường (không khí, nước, đất hoặc cả ba dạng trên) bị ô nhiễm nặng
và có 27% ô nhiễm vừa. Riêng tại 3 tỉnh Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên đã cho
kết luận, hầu hết các làng nghề không có hệ thống xử lý nước thải và kiểm soát
chất thải rắn. Hiện nay, ô nhiễm môi trường ở các làng nghề vẫn tiếp tục có
những diễn biến phức tạp.
Cũng cần chú ý rằng xu thế hiện nay là các nước phát triển đang chuyển
các ngành sản xuất không thân thiện môi trường cho các nước đang phát triển.
Một nghiên cứu của VCCI cho thấy, ở nước ta có khoảng trên 70% máy móc
thiết bị sử dụng công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là máy móc cũ.
Sự buông lỏng trong quản lý, giám sát kiểm tra trong quá trình nhập công nghệ,
trong quá trình lắp đặt công nghệ đối với các dự án đầu tư FDI mà Formosa là
điển hình. Cụ thể, chúng ta chấp thuận cho Formosa sản xuất theo công nghệ lò
cao, công nghệ dập cốc khô, nhưng họ thay đổi thành công nghệ dập cốc ướt cho
ra nhiều nước thải, do thiếu kiểm tra nên không ngăn chặn được từ đầu. Việc
kiểm tra sau chuyển giao công nghệ, cũng có tình trạng “lỗ hổng” như trường
hợp dự án bôxít Tây Nguyên, các dự án chế biến gỗ dăm, xây dựng, xăng sinh
học... Điều này gây ô nhiễm môi trường khá nặng nề.
Như vậy song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu
những áp lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ.
10
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
Cụm từ “Phát triển bền vững” đã và đang trở thành tuyên ngôn và
chiến lược hành động của nhiều quốc gia trên thế giới. Kể từ Hội nghị Stockhom
năm 1987 đến Hội nghị Rio de Janeiro năm 1992 và Johanesbour năm 2002 thì
trên 200 quốc gia tham gia đã xác định vấn đề môi trường là yếu tố quyết định
cho phát triển bền vững. Các nước ngày càng nhận thức rõ hơn các nguy cơ tiềm
ẩn đe dọa đến sự phát triển bền vững, hệ quả của quá trình công nghiệp hóa thiếu
cân nhắc về môi trường.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm ký tuyên bố chung về thực
hiện phát triển bền vững từ năm 1992. Cuối năm 1993, luậtbảo vệ môi trường
được ban hành cùng với sự tích cực chuẩn bị Chương trình nghị sự 21 của Việt
Nam đã thể hiện quyết tâm đối với các cam kết quốc tế và được cộng đồng quốc
tế đánh giá cao.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa với sự tăng trưởng nhanh của công
nghiệp, những vấn đề môi trường cũng đang tích tụ và tăng nhanh. Từ năm
2004, Bộ Chính trị đã kịp thời ra chỉ thị về công tácbảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó xác định rõ:bảo
vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; bảo vệ môi
trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan
trọng đảm bảo phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc
chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên.
Chính phủ Việt Nam đã thông qua chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường và
Định hướng chiến lược phát triển bền vững vào năm 2004. Đó là cơ sở để tiến
hành các vấn đề bảo vệ và cải thiện môi trường trong quá trình CNH - HĐH.
2.1. Phát triển công nghiệp xanh
Công nghiệp xanh đang được ứng dụng và phát triển mạnh mẽ ở Mỹ,
Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… Công nghiệp xanh là một chiến lược hoạt
11
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
động mà các ngành công nghiệp tại các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển
có thể sử dụng để đạt được phát triển bền vững bằng cách tách tăng trưởng kinh
tế ra khỏi việc sử dụng quá mức tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường. Các
ngành công nghiệp xanh sẽ giảm thiểu lượng chất thải phát thải, sử dụng năng
lượng một cách hiệu quả và triển khai sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái
tạo làm nguyên liệu cũng như năng lượng đầu vào. Ngoài ra, các ngành công
nghiệp xanh còn cung cấp hàng hóa và dịch vụ môi trường, như quản lý chất
thải, năng lượng tái tạo, v.v... theo cách có thể dự đoán được để đảm bảo rằng
môi trường làm việc, cộng đồng địa phương và thiên nhiên nói chung được an
toàn trước những rủi ro nguy hiểm về môi trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với môi trường là hai vấn đề có mối quan
hệ hữu cơ với nhau. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa
để đem lại hiệu quả kinh tế thuần túy, mà quên vấn đề môi trường thì hiệu quả
kinh tế thu được chắc gì đã đủ để giải quyết hậu quả do ô nhiễm môi trường gây
ra. Chính vì vậy, dù ở bất kỳ cơ sở sản xuất nào, khu công nghiệp nào, thành thị
hay nông thôn, cũng phải gắn liền với vấn đề môi trường xanh, sạch, đẹp để phát
triển nền kinh tế-xã hội một cách bền vững. Chính sách nhất quán của Việt Nam
là phát triển công nghiệp trên cơ sở phát triển bền vững, chuyển dần sang phát
triển công nghiệp xanh nhằm bảo vệ môi trường, môi sinh và cân bằng sinh thái.
2.2.
Phát triển ngành công nghiệp môi trường - bảo vệ môi trường trong
quá trình công nghiệp hóa
Quá trình công nghiệp hóa hơn hai thế kỷ qua đã làm tăng của cải trên
Trái đất gấp mấy trăm lần, đưa lại sự giàu có, phồn vinh cho nhiều quốc gia,
nhưng đó là cách sản xuất, khai thác ào ạt và tiêu thụ ào ạt, do chạy theo lợi
nhuận, vì những lợi ích trước mắt, đã lạm dụng thái quá nguồn tài nguyên thiên
nhiên, bất chấp môi trường sống của con người và những điều kiện cho sự phát
triển trong tương lai. Đó còn là do sự hạn chế về khả năng công nghệ. Rõ ràng,
ngày nay các nước đi sau không thể lặp lại con đường công nghiệp đó được mà
phải đi theo hướngcông nghiệp hóa sinh thái, công nghiệp hóa nhân văn, tuân
thủ nguyên tắc phát triển bền vững.
12
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Nước ta đã sớm có Chiến lược bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ môi
trường, hệ thống quản lý nhà nước về môi trường. Trong thời gian qua đã có
nhiều cố gắng và tiến bộ trong bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên, nhất là
khôi phục và phát triển rừng, ngăn ngừa, hạn chế được một phần nạn ô nhiễm do
các hoạt động sản xuất gây ra, đã xử lý được một số trường hợp sự cố môi
trường....
Hiện nay tại Việt Nam, ngành công nghiệp môi trường có thể nói còn khá
mới mẻ và đang tìm hướng phát triển phù hợp. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực
trong việc xây dựng khung khổ pháp lý phù hợp cho các hoạt động bảo vệ môi
trường. Các quy định về đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý
nước thải, quản lý chất thải rắn, chất thái nguy hại, kế hoạch xử lý triệt để cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ... ngày càng rõ và cụ thể hơn. Công tác
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật kèm theo các chế tài hành chính,
hình sự và các biện pháp bổ sung khác cũng ngày càng được quan tâm hơn. Việc
thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” thông qua các quy định về
thuế, phí, lệ phí môi trường như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, chất
thải rắn, khai thác khoáng sản, phí xăng dầu, v.v., cơ chế ký quỹ phục hồi môi
trường, cơ chế bồi thường thiệt hại cũng dần hình thành và đi vào thực hiện. Đến
năm 2009, Chính phủ đã phê duyệt một đề án gọi là Đề án phát triển ngành công
nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025. Mục tiêu
của đề án này là phát triển ngành công nghiệp môi trường thành ngành công
nghiệp có khả năng cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ sản phẩm môi
trường nhằm xử lý, kiểm soát ô nhiễm, khắc phục suy thoái, hạn chế mức độ gia
tăng ô nhiễm và cải thiện chất lượng môi trường.
Cần phát triển mạnh công nghệ môi trường để trở thành một ngành mũi
nhọn. Làm tốt công tác quản lý và xử lý chất thải. Phát triển các doanh nghiệp
môi trường. Nhanh chóng hoàn chỉnh và hiện đại hóa hệ thống theo dõi, kiểm
soát, phân tích, đánh giá các yếu tố môi trường trên toàn quốc. Đây phải là một
dự án lớn của quốc gia, có đủ nguồn vốn, sử dụng các công nghệ tiên tiến nhất
và công nghệ thông tin.
13
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
2.3.
Giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường
Trong giai đoạn tăng tốc, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay, vấn đề nổi cộm hàng đầu là giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và
lợi ích môi trường. Ví dụ: Thành phố Hạ Long có Vịnh Hạ Long hai lần được
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và hiện nay đã được bình
chọn là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới, nơi lý tưởng cho phát
triển du lịch, thì nên tính toán, cân nhắc phát triển công nghiệp dịch vụ gì?
Đương nhiên du lịch phải là hàng đầu, nhưng còn phát huy các thế mạnh khác
nhau như thế nào? Cần có cảng nước sâu bảo đảm khối lượng vận chuyển lớn,
cần khai thác than, nguồn tài nguyên truyền thống quan trọng của cả nước, rồi
còn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện... mà những việc ấy đều có khả
năng gây ô nhiễm, có thể đánh mất Vịnh Hạ Long. Phải chăng là ngoài ngành du
lịch, cần phát triển các ngành công nghiệp sạch, các ngành dựa vào tri thức,
trong đó có nhiều ngành gắn với du lịch; xây dựng cảng là cần thiết nhưng có
các giải pháp phòng ngừa, bảo đảm không gây ô nhiễm biển; khai thác than cần
đưa ra xa thành phố và phải tuân thủ nghiêm ngặt Luật Môi trường; phần tài
nguyên chưa khai thác vẫn giữ nguyên lại đó cho thế hệ mai sau, lúc đó có thể có
những công nghệ mới khai thác mà không gây ô nhiễm; nhà máy nhiệt điện có
thểđặt ở xa thành phố, mà vẫn gần các mỏ than... Lời giải tối ưu phải trên cơ sở
phân tích kinh tế dài hạn, trong đó có phân tích kinh tế về môi trường, coi môi
trường là yếu tố cơ bản của sản xuất và của chất lượng cuộc sống. Những bài
toán về môi trường như thế đang đặt ra ở khắp nơi khi xây dựng chiến lược phát
triển. Hay ở khu tam giác kinh tế phía Nam phát triển công nghiệp như thế nào
trong mối quan hệ với lưu vực sông Đồng Nai và sông Thị Vải, với diện tích
rừng ngập mặn...biết bao nhiêu khu dân cư, khu công nghiệp , các công trình cụ
thể khác đều cần có lời giải tối ưu cho bài toán phát triển mà gìn giữ được môi
trường. Để giải quyết những vấn đề căn bản như thế cần đứng trên quan điểm
kinh tế tri thức, tức là dựa nhiều hơn vào nguồn lực trí tuệ, ít hơn vào tài nguyên
thiên nhiên để phát triển kinh tế.
14
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Tăng cường nghiên cứu phân tích kinh tế về môi trường, từ đó đi tới các
chính sách tài chính và công cụ quản lý về môi trường. Có nhiều vấn đề đặt ra:
Yếu tố môi trường được tính trong GDP như thế nào hay không tính đến? Rõ
ràng nếu để sản xuất làm suy thoái môi trường thì sau đó khó phát triển sản xuất,
khó có tăng trưởng; chi cho bảo vệ môi trường để nâng cao chất lượng môi
trường sẽ làm tăng GDP, có tính không? Trên cơ sở đó quy định mức chi ngân
sách nhà nước cho bảo vệ môi trường , mức chi cho bảo vệ môi trường trong
các dự án, trong các doanh nghiệp, xác định mức đền bù do gây ô nhiễm theo
nguyên tắc ai gây ô nhiễm người ấy trả. Nếu không phân tích kỹ về kinh tế môi
trường thì rất dễ chấp nhận cách sản xuất ào ạt gây hại cho TN&MT, hậu quả
sẽ rất nghiêm trọng.
2.4.
Công nghiệp hóa - sinh thái
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành thân thiện với
môi trường, sử dụng các công nghệ mới, công nghệ sạch, thực hiện "sản xuất
sạch" là nội dung và yêu cầu cơ bản của công cuộc công nghiệp hóa dựa vào tri
thức, đó là hướng đi công nghiệp hóa - sinh thái.
Thế giới ngày nay đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, lực lượng sản
xuất từ dựa nhiều vào vật chất đang chuyển sang dựa nhiều hơn vào trí lực và
sức sáng tạo của con người. Nhờ sử dụng các tri thức mới, các quá trình sản xuất
mới dựa vào công nghệ cao và công nghệ thông tin, cho nên của cải tạo ra nhiều
hơn mà tiêu hao tài nguyên và năng lượng ít đi, tổng trọng lượng của sản phẩm
tăng không đáng kể. Do vậy, phát triển kinh tế tri thức là nhằm mục tiêu phát
triển nhanh và bền vững. Chỉ có phát triển kinh tế tri thức mới giải quyết được
mâu thuẫn giữa công nghiệp hóa và suy thoái môi trường, bảo đảm phát triển
nhanh và bền vững.
15
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁP VỀ VẤN ĐỀ
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI MÔI TRƯỜNG
Để bảo vệ và phát triển môi trường bền vững trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa cần phải có các số giải pháp phát huy tác động tích
cực và hạn chế tiêu cực của CNH - HĐH đến môi trường ở Việt Nam.
3.1.
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, ý
thức về hoạt động bảo vệ môi trường của toàn xã hội.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm
soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; khắc phục suy
thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Vì vậy, trước hết cần tập trung làm tốt
công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi
trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm
với thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Phải tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về
môi trường, các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
3.2.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Khẩn trương hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa,
xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường”. Vì vậy, để thực hiện “kinh tế
hóa” trong lĩnh vực môi trường, cần phải tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống
pháp luật về môi trường đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; đồng thời chuẩn bị cơ sở pháp lý theo hướng thống nhất, công bằng,
hiện đại và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ
luật môi trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành để khắc phục tình trạng chồng chéo, không phân rõ trách nhiệm và thiếu
tính xã hội, mọi người dân tham gia bảo vệ môi trường, làm kinh tế từ môi
trường. Tạo điều kiện, hỗ trợ để các tổ chức phản biện xã hội về môi trường, các
16
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
hội, hiệp hội về thiên nhiên và môi trường hình thành, lớn mạnh và phát triển,
đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.
3.3.
Chủ động hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển môi trường bền
vững trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp
đỡ của cộng đồng quốc tế cho công tácbảo vệ môi trường là một giải pháp rất
quan trọng. Vì vậy, Chính phủ phải luôn chủ động và tích cực tham gia các hoạt
động hợp tác quốc tế về phát triển bền vững và thực hiện đầy đủ các công ước
quốc tế đã ký kết về lĩnh vực môi trường; đồng thời, thực hiện các chính sách
đổi mới, thu hút sự tham gia của các cá nhân, tổ chức quốc tế trong việc thực
hiện Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, đặc biệt là chuyển
giao các công nghệ sản xuất sạch và thân thiện với môi trường.
Thông qua đối thoại và trao đổi quốc tế, chúng ta cần tham gia tích cực
các hoạt độngbảo vệ môi trường toàn cầu, đặc biệt là trong việc kiểm soát khí
thải gây hiệu ứng nhà kính, hạn chế sự ô nhiễm do hóa chất và chất thải nguy
hại. Đảng và Nhà nước cũng khuyến khích cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp và giới trí thức tham gia đóng góp vào sự
nghiệp phát triển môi trường bền vững ở Việt Nam trong công cuộc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.4.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở nước ta, thực chất
là công nghiệp hóa rút ngắn, bằng cách kết hợp nguồn vốn tri thức tiên tiến của
nhân loại với nguồn vốn tri thức của dân tộc. Trên cơ sở đó, một mặt, sử dụng tri
thức để đổi mới, tạo ra những bước đột phá mới, những mức tăng trưởng cao, sử
dụng tiết kiệm nhiên liệu nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Phát triển kinh
tế là điều kiện cốt yếu để con người thoát khỏi đói nghèo, nhằm phát triển con
người toàn diện và là cơ sở để xây dựng xã hội văn minh, hiện đại. Hiện đang có
một nghịch lý là phát triển kinh tế thường đi kèm với việc khai thác (thậm chí là
17
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
khai thác quá mức) tài nguyên thiên nhiên và thải vào môi trường một lượng lớn
chất thải độc hại khiến cho nó không còn khả năng tự phục hồi, gây ô nhiễm môi
trường, biến đổi khí hậu. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng sống của con người,
mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người toàn diện sẽ không đạt được.
Trước tình hình đó, chúng ta cần tỉnh táo khi ra những quyết sách cho phát triển
kinh tế cũng như cho việc bảo vệ môi trường . Bởi vì, một chính sách về môi
trường, nếu chỉ tập trung vào việc bảo vệ tài nguyên mà không chú ý giải quyết
thỏa đáng những vấn đề nhằm phát triển kinh tế thì vừa không giảm được nghèo
đói, vừa không thể bảo vệ được môi trường. Ngược lại, một chính sách phát triển
chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế, không quan tâm đến môi trường thì sớm
hay muộn cũng lâm vào cảnh phải bỏ tiền ra để khôi phục môi trường và lại dẫn
đến đói nghèo. Việt Nam là một nước còn nghèo, tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, vì
vậy, tài nguyên thiên nhiên càng đóng vai trò đặc biệt trong quá trình phát triển
kinh tế. Việc lồng ghép yếu tố môi trường trong các chiến lược, kế hoạch và dự
án phát triển kinh tế của các cấp, các ngành phải được quan tâm đúng mức và
thực hiện một cách nghiêm túc. Cần phải phát triển năng lượng sạch, sản xuất
sạch và tiêu dùng sạch; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi
trường, triển khai mạnh mẽ hơn nữa các nhiệm vụ bảo vệ môi trường ở các khu
kinh tế, khu công nghiệp , làng nghề.
3. 5. Xử lý triệt để những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đẩy
mạnh cải tạo môi trường
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều biện pháp nhằm
khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong các văn bản pháp
luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, chúng ta đặc biệt chú ý
tới Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày
22-4-2003 Về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Nội dung của Quyết định chỉ rõ: đến năm 2005 phải xử lý
triệt để 51 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; đến năm 2007 tiếp tục
xử lý xong 388 cơ sở; đến năm 2012 tiếp tục xử lý xong đối với 3.856 cơ sở gây
ô nhiễm môi trường khác và các cơ sở mới phát sinh. Tuy nhiên, trong số 439
18
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý dứt điểm trong giai đoạn
2003 - 2007, mới có 87 cơ sở (chiếm 19,85%) đã được cấp chứng nhận hoàn
thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để; có 27 cơ sở đã giải thể, phá sản,
không còn gây ô nhiễm môi trường; 106 cơ sở cơ bản đã hoàn thành, nhưng
chưa được cấp quyết định chứng nhận đã hoàn thành; 194 cơ sở đang triển khai
xử lý ô nhiễm môi trường triệt để và 25 cơ sở chưa triển khai. Như vậy, tính đến
tháng 3-2010 vẫn còn 49,88% số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
chưa hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để. Nguyên nhân chính là
do mức độ chấp hành các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi
trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh thời gian qua rất thấp. Hoạt động kiểm
tra, thanh tra quá trình triển khai công tác bảo vệ môi trường chưa thường
xuyên; các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được xử lý kịp thời và
việc cưỡng chế thi hành còn nhiều bất cập. Do vậy, tình trạng suy thoái môi
trường, ô nhiễm môi trường ở cả thành thị và nông thôn nước ta đang có chiều
hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Trong những năm tiếp theo, để bảo vệ và
cải thiện môi trường sống của người dân thì “Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử
lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường” là việc làm cần thiết và quan trọng của
công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường . Nếu không làm tốt công việc
này thì tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường sẽ vẫn diễn ra và đó là
nguyên nhân dẫn đến môi trường sống bị hủy hoại.
3.6.
Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường
Xã hội hóa công tác BVMT chính là việc huy động các nguồn lực từ các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các tổ chức xã hội và cộng đồng tham gia
các hoạt động BVMT, là việc huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự
nghiệp BVMT và của đất nước. Nói cách khác, xã hội hóa công tác BVMT là
phải biến các chủ trương, chính sách, các bộ luật về BVMT thành nghĩa vụ, trách
nhiệm và quyền lợi của mọi tầng lớp trong xã hội, từ những nhà hoạch định
chính sách, những nhà quản lý cho tới mọi người dân ở mọi lứa tuổi trong xã
hội. Mục đích của xã hội hóa công tác BVMT là nhằm huy động tối đa các
nguồn lực trong xã hội tham gia vào các hoạt động BVMT, nhằm giữ cho môi
19
PHAN THỊ CẨM GIANG - LỚP CAO HỌC LL VÀ PPDH ĐỊA LÍ K25
trường luôn trong lành, sạch đẹp, bảo đảm sự cân bằng sinh thái. Ý nghĩa to lớn
của việc xã hội hóa công tác BVMT là ở chỗ, mọi đối tượng trong xã hội từ trẻ
em cho đến người già, từ người sản xuất đến người tiêu dung đều ý thức được
vai trò và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc giữ gìn và
BVMT. Từ nhận thức sẽ đi đến hành động. Mọi người sẽ chuyển từ lối sống, nếp
nghĩ, thói quen của người sản xuất tiểu nông, tự do tùy tiện, sang lối sống, nếp
nghĩ theo hướng văn minh, tôn trọng môi trường.
3.7.
Tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh việc chuyển
giao, ứng dụng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động bảo vệ
môi trường
Thực tế cho thấy khoa học công nghệ có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển. Đặc biệt đối với phát triển bền vững, khoa học và công nghệ đã dần
thể hiện được vai trò có ích với môi trường, thân thiện và góp phần bảo vệ, cải
thiện môi trường.
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hệ thống quan trắc, công tác dự báo, cảnh
báo về tài nguyên, môi trường. Việc dự báo chính xác, kịp thời, đầy đủ chính là
cơ sở quan trọng để có thể đưa ra những kế hoạch, biện pháp đúng đắn nhằm
ngăn chặn sự ô nhiễm, bảo vệ môi trường. Khuyến khích và triển khai nhanh các
đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong việc xử lý ô
nhiễm, suy thoái môi trường.
3. 8. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn nhiều yếu kém và
bất cập như hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường còn chưa đồng
bộ, thiếu thống nhất, chồng chéo và mâu thuẫn nhau; các văn bản hướng dẫn thi
hành một số nội dung của Luật bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu cụ thể; một
số hành vi vi phạm pháp luật chưa được quy định chi tiết, cụ thể, thậm chí có
nhiều hành vi vi phạm còn chưa có chế tài xử phạt; hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, như cơ cấu tổ chức bộ máy chưa tương
xứng với nhiệm vụ; chức năng, thẩm quyền của các bộ phận trong hệ thống tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường chưa rõ ràng; đội ngũ cán bộ quản
20
- Xem thêm -