VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ TRANG NHUNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH,
TỈNH BÌNH PHƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ TRANG NHUNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH,
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số
: 60220301
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN VĂN PHÚC
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc. Các nhận định nêu ra trong luận
văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập của tác giả luận văn, dựa trên
sự tìm tòi nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được công bố, đảm bảo tính
khách quan, trung thực và khoa học.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2016
Tác giả luận văn
Trần Thị Trang Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC .... 7
1.1. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ..... 7
1.2. Thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức và sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đản viên huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước ............................................................................................ 14
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HUYỆN
CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP ........................................................................................ 35
2.1. Một số nhân tố tác động tới vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước ............................................................................................... 35
2.2. Những thành tựu và nguyên nhân của vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức trong giáo dục đạo cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước ............................................................................ 39
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước ............................................................................ 50
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng
viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước ............................................... 56
KẾT LUẬN...................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 79
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANTT:
An ninh trật tự
ANCT:
An ninh chính trị
BCH:
Ban chấp hành
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND:
Hội đồng nhân dân
Hội LHPN:
Hội Liên hiệp phụ nữ
KDC:
Khu dân cư
MTTQ:
Mặt trận tổ quốc
NQTW4:
Nghị quyết trung ương 4
TNHH:
Trách nhiệm hữu hạn
TW:
Trung ương
UBND:
Ủy ban nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và một trong những nội dung quan trọng được
Người quan tâm, đó là vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên.
Đạo đức ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người và tồn tại, phát triển cùng
với sự xuất hiện của loài người. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, thể hiện vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định của xã hội nói chung và sự phát triển
con người nói riêng. Việc giáo dục đạo đức cho mỗi người, nhất là cho cán bộ đảng
viên luôn được xã hội, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Chúng ta muốn xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày càng giàu
mạnh, thì chúng ta cần có những con người cách mạng và người cách mạng đó phải
có đức, có tài, trong đó đức là gốc, như Bác đã dạy “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” [33, tr.252-253].
Cán bộ đảng viên là những người trực tiếp thay mặt Đảng và Nhà nước quan
tâm, giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày của người dân, liên
quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Muốn thực hiện được mục đích cao đẹp và nặng
nề này thì cán bộ đảng viên phải là người có phẩm chất, đạo đức tốt. Nhận thấy tầm
quan trọng của đạo đức và giáo dục đạo đức, nhất là đạo đức cho cán bộ đảng viên;
xác định tầm quan trọng của đạo đức theo tấm gương tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh trong thời kỳ đổi mới, năm 2006 Đảng ta đã chính thức phát động cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (Chỉ thị số 06-CT/TW
ngày 07/11/2006), đến năm 2011 tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày
14/5/2011 “Về việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” và đến nay tiếp tục thực hiện bằng Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016
của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”.
1
Tại Hội nghị lần thứ 12 (khóa XI) Đảng ta đã đánh giá: Bên cạnh kết quả đạt
được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có
những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách
thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Hội nghị đã chỉ
rõ một trong những vấn đề cấp bách đó là: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện,
vô nguyên tắc...
Vì vậy, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác
định ba vấn đề cấp bách hiện nay là:
- Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết
là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
- Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, đang chủ
động hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ đảng viên là
phải luôn nâng cao chất lượng về năng lực, vững vàng về chính trị, đạo đức, lối
sống là việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Huyện Chơn Thành trong những năm qua cùng với sự hội nhập, phát triển
của cả nước, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân huyện đã gặt hái được nhiều thành
2
tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Song, thực tế
cho thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên
vẫn còn diễn biến. Việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh và vận dụng để giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên cần được
đẩy mạnh và thường xuyên hơn.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước là rất cần thiết, để góp phần cùng huyện Chơn Thành hòa
nhập theo trào lưu phát triển chung của đất nước theo đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Với đề tài tâm đắc nhất này, học viên muốn nêu lên một cách khái quát nhất,
nhưng đầy đủ nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Từ đó, tìm hiểu, đánh giá
thực trạng và những nhân tố tác động trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng trong học tập, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng
của đội ngũ cán bộ đảng viên tại huyện Chơn Thành. Phân tích nguyên nhân, hạn
chế và đề ra một số giải pháp chủ yếu giúp cho cán bộ đảng viên của Đảng bộ
huyện Chơn Thành nâng cao hơn nữa ý thức tự rèn luyện đạo đức cách mạng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng Đảng bộ huyện trong sạch, vững mạnh.
Hoàn thành thật tốt nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Và thông qua luận văn, học viên muốn bày tỏ lòng kính yêu vô hạn của mình
đến lãnh tụ Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời về đạo đức của Đảng và dân
tộc Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, một di sản tinh thần vô giá mà Bác đã để
lại cho chúng ta. Việc nghiên cứu tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo
dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ
rất sớm. Trong Đại hội VII của Đảng (năm 1991), Đại hội IX (năm 2001), khi Đảng
ta đưa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh vào văn kiện Đại hội thì việc nghiên cứu,
giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân quan tâm
học tập, giáo dục và triển khai sâu rộng. Có rất nhiều tác giả, tác phẩm, tài liệu, nội
3
dung nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh, liên quan đến đạo đức và
giáo dục đạo đức nói chung và cụ thể là giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên.
Nhiều tác phẩm, tác giả, đề tài tiêu biểu liên quan đến vấn đề này là: các tài liệu học
tập ở các Trường đại học, cao đẳng, Trường chính trị; các văn kiện, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng.
Các tác phẩm, bài viết của một số tác giả trong và ngoài nước như: các giáo
trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong các Trường cao đẳng, đại học, sau đại
học, các Trường chính trị: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng Trung
ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh (biên soạn và phát hành năm 2003) giảng dạy trong các trường
học chuyên ngành, đào tạo sau đại học; giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (do Bộ
giáo dục và đào tạo biên soạn và phát hành năm 2004) giảng dạy trong các trường
cao đẳng, đại học; giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (do Bộ giáo dục và đào tạo tái
bản có sửa chữa, bổ sung năm 2011) dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối
không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bài viết “Tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng” - PGS.TS.
Phạm Ngọc Anh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Tạp chí Báo cáo viên
tháng 5/2016 của Ban Tuyên giáo Trung ương.
Ban Tuyên giáo Trung ương với cuốn sách 117 chuyện kể về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị quốc gia - 2007). Ngoài ra, còn có các tài liệu
khác do Ban Tuyên giáo Trung ương ấn hành hàng năm phục vụ cho việc đẩy mạnh
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chủ đề từng năm.
Nhiều tài liệu liên quan đến đề tài như: các Đề cương tuyên truyền về tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương; các Báo cáo sơ kết,
tổng kết Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
của Tỉnh ủy Bình Phước và Huyện ủy Chơn Thành .v.v…
Bên cạnh đó, còn có sách “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay,
thực trạng và giải pháp” Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005 do PGS, TS Nguyễn
Thế Kiệt chủ biên; “Người cán bộ, đảng viên” Nxb Thanh niên, 2010 do TS Trần
Đình Thêm biên soạn; “Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời
4
kỳ mới” Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, 2014 do Nguyễn Thế Trung - Ban Dân
vận Trung ương chủ biên…
Ngoài ra, còn có các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị như: Chỉ thị số 06-CT/TW,
ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về “Tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ
Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết số
12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IV,
khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; văn kiện Đại hội
Đảng bộ huyện Chơn Thành lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Đề tài về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, về giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho các đối tượng khác nhau ở nước ta có thể nói là rất phong phú và
đó là cơ sở cho nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về giáo
dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành thì cho đến nay
vẫn chưa có luận văn nào đề cập nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước, luận văn đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhăm
nâng cao hiệu quả của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc giáo
dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức.
+ Đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước.
5
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
- Phạm vi nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước từ năm
2005 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giáo
dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ đảng viên.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu: phân tích tổng hợp, lịch sử - logic, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa,...
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo nghiên cứu và vận dụng trong việc nâng cao
hiệu quả của việc “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
và vận dụng tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ đảng viên ở địa phương.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, đơn vị và
những người quan tâm đến vấn đề này. Đồng thời cũng có thể làm tài liệu tham
khảo để giảng dạy tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Chơn Thành.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn có phần nội
dung được chia thành 02 chương với 06 tiết.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
1.1. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh và đến Đại hội lần thứ IX (năm 2001) của Đảng, một lần nữa Đảng ta xác
định “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại...” [68, tr.11] Có thể thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ 4
nguồn gốc, nguồn gốc từ tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; của các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam; từ tinh hoa văn hóa nhân loại và từ
phẩm chất cá nhân của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan
điểm lý luận toàn diện và sâu sắc. Song hành cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và dân
tộc Việt Nam; tất cả những nội dung cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đều
liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam và tư tưởng của Người vẫn mãi là ngọn
đèn soi đường cho cách mạng Việt Nam, là tài sản vô giá của Đảng và Nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận hợp thành, một phương
diện cốt lõi, cơ bản của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam, như: Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp; về độc lập dân tộc gắn với CNXH; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân..., đều toát lên một tinh thần nhân văn, nhân đạo, cao cả; đều
xuất phát từ con người, nhân dân, dân tộc; đều hướng đến giải phóng giai cấp, dân
tộc, giải phóng con người, nghĩa là đều bao chứa phương diện đạo đức.
7
Cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc Việt Nam, được hình
thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh còn là sự kế thừa, đổi mới và phát triển tư tưởng đạo đức phương Đông,
phương Tây, những tinh hoa văn hóa, đạo đức nhân loại. Trong số những giá trị tư
tưởng đạo đức nhân loại, những tư tưởng, những tấm gương đạo đức của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, chủ nghĩa
Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất và chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
thể thật sự soi đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng là kết tinh những nỗ lực của một nhân
cách vĩ đại. Ngay từ khi còn trẻ, Người đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, tự
tin, giàu lòng nhân ái, sớm có chí cứu nước, giải phóng đồng bào. Những phẩm chất
đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy, giữa
thực tiễn sinh động, phong phú và phức tạp; giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác
biệt nhau; Hồ Chí Minh, với năng lực, tình cảm và bản lĩnh đặc biệt của mình đã
phân tích, khái quát, đánh giá và quyết chọn những giá trị của tư tưởng nhân loại để
hình thành tư tưởng và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh là một hệ thống những quan điểm, quan niệm hoàn chỉnh về đạo đức và xây
dựng đạo đức. Dưới đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Người
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội
và trong mỗi bản thân con người. Với chức năng nhận thức và giáo dục, giúp con
người kế thừa tri thức đạo đức, từ đó điều chỉnh hành vi, mối quan hệ giữa người
với người, cá nhân với tập thể,... và phát triển dần thành thói quen, truyền thống, tập
quán đạo đức tốt đẹp. Sự phát triển tiến bộ của xã hội không thể thiếu vai trò của
đạo đức. Đặc biệt, đối với người cách mạng, người cán bộ đảng viên, đạo đức cách
mạng là điều không thể thiếu được. Hồ Chí Minh ví đạo đức như gốc của cây,
nguồn của sông. Sông phải có nguồn mới có nước, không có nước thì sông cạn.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không
8
lãnh đạo được nhân dân. Bởi lẽ, muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho nhân
loại, đó là công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, thì không thể làm được.
Người còn nói, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ vẻ vang.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc trau dồi đạo đức cách mạng cho cán bộ
đảng viên. Người nhấn mạnh rằng, mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Đạo đức có ảnh hưởng lớn đến sự
nghiệp biến đổi xã hội cũ thành xã hội mới. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước; khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững được tinh thần chịu đựng gian khổ, không kèn cựa về
mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, hủ hóa. Bởi
vậy, ngay từ tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã nêu ra 23 điều về tư cách một
người cách mạng, thực hiện 3 mối quan hệ cơ bản: Đối với mình, đối với người, đối
với việc. Trong suốt những năm 40, 50, 60 của thế kỷ thứ XIX, Người luôn có
những bài viết ngắn gọn, súc tích về vai trò của đạo đức cách mạng, về sự cần thiết
tu dưỡng đạo đức cách mạng. Cho đến lúc đi xa Người vẫn không quên căn dặn,
Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn
viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa
hồng vừa chuyên.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực cơ bản của đạo đức
cách mạng
Một là, trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam và của phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và
phát triển trong điều kiện mới. “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” được Hồ Chí Minh
9
vận dụng thành nội dung mới, phù hợp với hoàn cảnh mới “Trung với nước, hiếu
với dân”. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên
trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên
trời” [34, tr.320-321]. Theo Người, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì
nước là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước; bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải là “Quan cách mạng”.
Trung với nước là yêu nước, yêu CNXH, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, với sự phát triển đi lên của đất nước, có trách nhiệm bảo vệ và
làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng.
Hiếu với dân là thương dân, tin dân, quý dân, lấy dân làm gốc, ra sức phục
vụ, chăm lo cho nhân dân hết lòng, hết sức. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất, chuẩn mực nền tảng của đạo đức
cách mạng, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, phải “Tuyệt đối trung thành với Đảng,
với nhân dân”, phải “Tận trung với nước, tận hiếu với dân” [31, tr.32].
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là chuẩn mực đạo đức trung tâm, điều
chỉnh hành vi ứng xử trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người, là nền tảng của đời
sống mới.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay, chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính là để cho cán
bộ đảng viên thực hiện và làm gương cho nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của
phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông), đất có bốn phương (Đông, Tây,
Nam, Bắc) và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
10
Cần: Cần cù, siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có
năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh, không ỷ lại, lười biếng, dựa dẫm.
Kiệm: Là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền
của…) không hoang phí của bản thân và đặc biệt quan trọng nhất là không hoang
phí của nước, của dân, không phô trương hình thức.
Cần, kiệm: Là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
Liêm: Liêm khiết, trong sạch, không tham lam tiền tài, địa vị, danh vọng; là
luôn tôn trọng của công và của dân; là không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của
nước, của nhân.
Chính: Chính trực, thẳng thắn, đứng đắn, không tà, thật thà đối với mình, với
người và đối với việc. Đối với mình - không tự cao, tự đại, phải khiêm tốn học hỏi,
phát huy những mặt tốt, khắc phục những mặt còn hạn chế, yếu kém; đối với người
- không nịnh người trên, khinh kẻ dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết; đối với việc - thì để việc công lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, việc thiện nhỏ mấy cũng
nên làm, việc ác nhỏ mấy cũng nên tránh.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện. Tuy nhiên, là cán bộ đảng viên phải thực hành
trước tiên để làm kiểu mẫu cho dân.
Chí công, vô tư: Là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc
gì cũng nghĩ đến nhân dân, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết; chỉ biết
vì Đảng, vì dân tộc, phải biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công, vô tư
là nêu cao chủ nghĩa tập thể, từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người
lãnh đạo.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô
tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, nếu đã có chí
công, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính.
11
Ba là, gương mẫu, nói đi đôi với làm
Hồ Chí Minh coi việc nói đi đôi với làm là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng một nền đạo đức mới. Bản thân Hồ Chí Minh là tấm guơng trong
sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản
chất của tư tuởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với
thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà
không làm. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, “Vác mặt làm quan cách
mạng”, nói mà không làm, làm tổn hại đến uy tín của Đảng và Chính phủ truớc
nhân dân.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm, có như vậy công việc
mới có hiệu quả thực sự cho bản thân mình và cho người khác. Còn nếu như nói
nhiều, làm ít, nói mà không làm thì chẳng có tác dụng gì.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phuơng
Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi
trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên.... là rất quan trọng. Người yêu
cầu, trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em,
ông bà làm gương cho con cháu; ở trường học, thầy cô giáo làm gương cho học
sinh; trong tổ chức, tập thể là tấm gương cho lãnh đạo, còn lãnh đạo làm gương cho
cán bộ, nhân viên cấp dưới, đảng viên phải làm gương trước quần chúng; đối với xã
hội, người này là tấm gương để người kia noi theo, thế hệ đi trước là tấm gương cho
thế hệ con cháu noi theo. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người khác bắt chước” [31,tr.37].
1.1.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức
Một là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Đã là con người thì ai cũng có những ưu điểm và những khuyết điểm, mỗi
người đều có một vài hạn chế, ai cũng có tính thiện - ác ở trong mình, không ai
12
hoàn mĩ. Quan trọng là chúng ta có dám tự nhận và sửa chữa hay không? Một nền
đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của
mỗi người. Đạo đức không phải tự nhiên mà có, phải do rèn luyện mà nên. Đạo đức
cách mạng gắn liền với cống hiến, dấn thân cho cách mạng, đạo đức trong hành
động vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động,
đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Hồ Chí Minh đưa ra một
lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [9, tr293] .
Hai là, nêu gương đạo đức
Tấm gương đạo đức của Bác là tấm gương sáng ngời để cho tất cả mọi
người, các thế hệ người Việt Nam mãi noi theo. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nói chung
thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [1, tr.263]. Với ý nghĩa đó,
Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý
luận cách mạng tiền phong, mà còn bằng chính bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong
việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng
“Đạo làm gương”. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức
cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” [12, tr.558]. Để làm được như
thế, phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi
trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong học
tập để mọi người học tập, noi theo.
Ba là, xây đi đôi với chống
Trong đời sống thường ngày, hiện tượng người tốt - xấu, đúng - sai, có đạo
đức - vô đạo đức vẫn song hành tồn tại cùng nhau, đan xen nhau, biểu hiện thông
qua hành vi của mỗi người. Cho nên, cùng với việc xây dựng đạo đức, bồi dưỡng
những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai
trái, xấu xa, sai với yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải
13
chống, chống nhằm mục đích xây. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến
hành bằng cách giáo dục, giáo dục từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn
xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp,
đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng
giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là
phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức
được và tự giác thực hiện.
Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu, trước hết phải chống lại chủ
nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào
quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc
thi đua “Ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục
về đạo đức, lối sống.
1.2. Thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo
dục đạo đức và sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đản viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
1.2.1. Thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
Để làm rõ thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, cần
xác định khái niệm cán bộ đảng viên.
Như chúng ta biết, Cán bộ là cách gọi quen thuộc trong ngôn ngữ chính trị
của các nước XHCN theo mô hình Xô Viết, bắt đầu từ thời Lênin sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười, khi Đảng Cộng sản đã cầm quyền và nước Nga Xô Viết
đã ra đời, thể chế quyền lực Nhà nước đã định hình và đi vào hoạt động.
Ở Việt Nam, cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
14
thuộc Tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách Nhà nước.
Cán bộ là những người có chức vụ, quyền hạn, có vai trò và cương vị nòng
cốt trong một cơ quan, tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan,
tổ chức đó và các quan hệ trong lãnh đạo, điều hành, góp phần vào sự phát triển của
địa phương.
Như vậy, khái niệm “Cán bộ” để phân biệt với “Quần chúng”, với những
người dân bình thường trong xã hội hay những người làm việc ở các công sở nhà
nước, các cơ quan đoàn thể không giữ chức vụ.
Đảng viên: Theo Điều 1 của Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua
ngày 19/1/2011 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI “Đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu
cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó
mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng”.
Đảng viên phải là những người có trách nhiệm, góp phần xây dựng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện
mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó. Đảng viên phải là người tiên phong
gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách. Đảng viên dù ở cương
vị nào cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng, mỗi đảng viên
đều là người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích cho dân hiểu những
chính sách của Đảng và Nhà nước, để dân tin và vui lòng thực hiện. Mỗi cán bộ
đảng viên đều phải nhận thức được rằng mình vào Đảng để làm đầy tớ cho dân, chứ
không phải làm quan cách mạng.
15
- Xem thêm -