Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ áp dụng pháp luật về thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình tại cục thi...

Tài liệu áp dụng pháp luật về thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình tại cục thi hành án tỉnh bình phước tình trạng và giải pháp

.DOCX
28
460
143

Mô tả:

áp dụng pháp luật về thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình tại cục thi hành án tỉnh bình phước tình trạng và giải pháp
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT Võ ngọc cảnh ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TẠI CỤC THI HÀNH ÁN - TỈNH BÌNH PHƯỚC. TÌNH TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH Tp. Hồ chí minh - năm 2017 i BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT Võ ngọc cảnh ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TẠI CỤC THI HÀNH ÁN - TỈNH BÌNH PHƯỚC TÌNH TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH - MÃ SỐ 52380101 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VÂN LONG TP HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017 ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chuyên đề này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ts. Trần vân long, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết chuyên đề tốt nghiệp. Tôi chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa luật, đại học kinh tế thành phố hồ chí minh đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để tôi bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Tôi chân thành cảm ơn cục thi hành án tỉnh bình phước đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực tập tại đây. Cuối cùng tôi kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các cô, chú, anh, chị trong cục thi hành án tỉnh bình phước luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công việc. Tp.hồ chí minh, ngày …. Tháng ….. Năm 2017 Tác giả Võ ngọc cảnh iii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của việt nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tp.hồ chí minh, ngày …. Tháng ….. Năm 2017 Tác giả luận văn Võ ngọc cảnh iv PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển qua các giai đoạn, nó mang những chức năng tự nhiên và xã hội riêng biệt mà các thiết chế xã hội khác không có. Các chức năng của gia đình hình thành gắn liền với sự phát triển của loài người và được chính con người xã hội hóa chúng. Về cơ bản, gia đình có ba chức năng: sinh đẻ, giáo dục và kinh tế, chúng là cơ sở để hình thành các quyền tự nhiên của con người về gia đình và được xã hội hóa thành các quyền cơ bản. Trong những năm qua, việc trong giải quyết án hôn nhân và gia đình đã giải quyết được những mâu thuẫn bất hoà trong gia đình, đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình giải quyết án hôn nhân và gia đình vẫn còn những thiếu sót, như có vụ án trong quá trình giải quyết còn để tồn đọng, dây dưa kéo dài, có vụ án còn bị sửa, huỷ gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự. Với các đường lối chính sách hiện nay của đảng và pháp luật ta của nhà nước ta đã nói tới vấn đề như vậy, tuy nhiên trong thực tế xã hội hiện nay các vụ án về hôn nhân và gia đình vẫn phát sinh rất nhiều và có chiều hướng gia tăng theo thời gian , đòi hỏi cục thi hành án phải áp dụng pháp luật để giải quyết các loại án này. Thông qua việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình góp phần làm ổn định quan hệ trong hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự trị an toàn xã hội, góp phần tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa trên toàn thành phố. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật về thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình tại cục thi hành án - tỉnh Bình Phước. Tình trạng v à giải pháp”. 2. Mục tiêu nghiên cứu + Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình; v + Đánh giá thực tiễn của việc thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình tại cục thi hành án tỉnh bình phước; + Đề ra những giải pháp đảm bảo việc thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của cục thi hành án tỉnh bình phước hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Là việc áp dụng pháp luật trong việc thi hành án và giải quyết án hôn nhân và gia đình của cục thi hành án tỉnh bình phước. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Chuyên đề xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật trong việc thi hành án để giải quyết án hôn nhân và gia đình của cục thi hành án tỉnh bình phước. 4. Kết cấu chuyên đề Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề được chia thành 03 chương như sau: Chương 1: lý luận và cơ sở pháp lý về hoạt động thi hành án. Chương 2: thực tiễn công tác thi hành án đối với các vụ án hôn nhân, gia đình tại cục thi hành án tỉnh bình phước. Chương 3: kết luận và kiến nghị. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN.................................................................................................................. iii LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................................iv PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1 1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu................................................................................1 2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................2 3.1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2 3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................2 4. Kết cấu chuyên đề.......................................................................................................2 vi CHƯƠNG 1.......................................................................................................................6 LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN.........................6 1.1. Khái niệm hoạt động thi hành án.............................................................................6 1.1.1. Khái niệm..........................................................................................................6 1.1.2 Đặc trưng của thi hành án dân sự.......................................................................6 1.1.3 Những nguyên tắc trong thi hành án dân sự.......................................................7 1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với thi hành án..................................................................9 1.3 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thi hành án.......................................................9 1.4. Đặc trưng của công tác thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình...............12 CHƯƠNG 2.....................................................................................................................15 THỰC TIỄN CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC.............................15 2.1. Tổng quan công tác thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình....................15 2.2. Vướng mắc trong quá trình thi hành án từ thực tiễn thi hành án............................17 2.2.1. Thi hành án đối với các yêu cầu cấp dưỡng....................................................17 2.2.2. Thi hành án đối với các yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng........................23 2.2.3. Thi hành án đối với các yêu cầu về quyền nhân thân trong các vụ án HNGĐ............................................................................................................................25 CHƯƠNG 3.....................................................................................................................27 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................................27 3.1. Những hạn chế đối với thực hiện thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình............................................................................................................................... 27 3.3. Kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình................................................................................................28 3.4. Kết luận.................................................................................................................. 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................32 vii CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN 1.1. Khái niệm hoạt động thi hành án 1.1.1. Khái niệm Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án. Ngày nay, pháp luật cho phép Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền thi hành án tương tự như Chi cục thi hành án. Tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn dịch vụ thi hành án một cách tốt nhất để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình.Thads cũng không đơn giản là hoạt động của các cơ quan hành chính. Thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử là hoạt động nối liền giữa hoạt động tư pháp và hoạt động hành chính. Với tính chất là một hoạt động chấp hành, căn cứ để thads là các bản án, quyết định của tòa án. Trong quá trình thads, cơ quan thads và các bên có liên quan không chỉ áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng mà phần lớn là áp dụng các quy định pháp luật về hành chính – tư pháp. Bên cạnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thi hành án không do luật tố tụng điều chỉnh như: kê biên tài sản, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án,… thì thi hành án còn có những quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh do luật tố tụng điều chỉnh và chi phối khác. 1.1.2 Đặc trưng của thi hành án dân sự Thads là một dạng hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của tòa án. Hoạt động này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền viii (bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án và cơ quan trực tiếp thi hành án) thực hiện. - hoạt động thi hành án được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. Thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án, quyết định của cơ quan tài phán. Nó có tính chất bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến bản án, quyết định của tòa án. Việc không chấp hành, chấp hành không nghiêm chỉnh bản án, quyết định của tòa án dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể bị xử lý bằng chế tài. Trong quá trình thi hành án, những người phải thi hành án và những người được thi hành án vẫn có thể tự thỏa thuận với nhau để tự thi hành án phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Cơ quan thads có trách nhiệm theo dõi, giám sát và ghi nhận việc tự thỏa thuận thi hành của các bên đương sự. Đây là một hành lang pháp lý “mở” nhằm tiếp tục đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự ở giai đoạn thi hành án. Chính tính “mở” này tạo ra những điều kiện quan trọng cho chủ trương xã hội hóa một số mặt của hoạt động thads, giảm thiểu can thiệp, hỗ trợ từ phía nhà nước, tăng tính chủ động của các đương sự, phù hợp với những yêu cầu của nhà nước về nâng cao tính tích cực của công dân. Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan thads được lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành án (cưỡng chế, kê biên tài sản, ủy thác thi hành án) sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả. 1.1.3 Những nguyên tắc trong thi hành án dân sự Bảo đảm tính tối cao các quy định về thi hành án trong hiến pháp. Về cơ bản, hiến pháp quy định việc chấp hành nghiêm ngặt những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án do đó không được trái với hiến pháp và nhằm thực hiện được mục tiêu mà hiến pháp đã đề ra. ix Các cơ quan thads phải hoạt động trong khuôn khổ đó và chỉ làm những gì pháp luật cho phép, không được tùy tiện trong thads. Nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong thi hành án. Thads là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được hiến pháp quy định. Vì vậy, các cơ quan thi hành án phải đảm bảo và tôn trọng các quyền đó; ngoài ra, quyền tự định đoạt của các đương sự cũng phải được tôn trọng. Vì vậy, chỉ trong trường hợp cần thiết mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, còn lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trong thads; đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc nhân đạo. Trong thi hành án, đòi hỏi phải đảm bảo việc bảo vệ có hiệu quả, hài hòa các loại lợi ích khác nhau, tôn trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân. Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện rõ trong nhiều quy định của pháp luật về thads, ví dụ như khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản để thi hành án, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ để thi hành án và thanh toán chi phí về việc thi hành án chứ không kê biên tất cả tài sản của người đó. Đồng thời, khi kê biên tài sản, chấp hành viên không được kê biên những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống của họ và gia đình họ; trong trường hợp người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định của tòa án thì người đó phải tự mình thực hiện thì chánh án tòa án có quyền ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành. Nguyên tắc kết hợp tự nguyện với cưỡng chế. Xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận và tự định đoạt của giao dịch dân sự, trong thads, đảm bảo và khuyến khích tự nguyện thads là một yếu tố rất quan trọng để thi hành án có hiệu quả, ít tốn kém nhất. Trường hợp sau một khoảng thời gian luật định, các cơ quan thads mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản, cưỡng chế trả nhà… Nguyên tắc phối hợp hành động giữa các cơ quan thads với các cấp chính quền, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong thads. Thi hành án là hoạt động mang tính hành chính – tư pháp phức tạp mà hiệu quả của nó không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực x của các cơ quan thads chuyên trách mà còn phụ thuộc vào sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và công dân. Trong quá trình thi hành án, ngoài việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các cơ quan thads một mặt phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, mặt khác phải phối hợp với cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể xã hội. Sự chỉ đạo của chính quyền địa phương đối với việc tổ chức thi hành án đang tạo điều kiện cho công tác thi hành án có hiệu quả. Trong công tác thads, chính quyền cơ sở có nhiệm vụ giúp chấp hành viên xác minh hoàn cảnh kinh tế của người phải thi hành án, giúp đỡ lực lượng, phương tiện để cưỡng chế thi hành án. Lực lượng cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội có nhiệm vụ thực hiện những yêu cầu của chấp hành viên liên quan đến việc thi hành án. Mối quan hệ phối hợp giữa ba cơ quan: cơ quan thads, tòa án, viện kiểm sát đảm bảo hoạt động thi hành án được tiến hành hiệu quả, đúng pháp luật. 1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với thi hành án Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của luật thi hành án dân sự thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời xi gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án. 1.3 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thi hành án Căn cứ vào nội dung, chúng ta có thể phân chia thi hành án thành năm loại hình cơ bản gồm thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động, thi hành án hành chính. Tuy nhiên, trong các văn bản luật có liên quan như pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, luật thi hành án dân sự năm 2008, luật tố tụng hành chính năm 2010, các khái niệm thi hành án dân sự, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động, thi hành án hành chính cũng không được định nghĩa cụ thể. Luật thi hành án hình sự năm 2010 chỉ định nghĩa thi hành án hình sự theo từng hình phạt cụ thể ví dụ như: thi hành án tử hình, thi hành án treo... Mà cũng không có định nghĩa tổng quát chung về thi hành án hình sự. Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá trình thi hànhán. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng tính tư pháp trong thi hành án là tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Trong thực tiễn ở nước ta, cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Theo tác giả điều này là không đúng. Nghị địnhsố: 62/2015/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và triển khai các văn bản liên quan như Luật Đấu giá tài sản năm 2016 (có hiệu lực từ 01/7/2017), Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Tiếp tục rà soát, tổng hợp khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức thi hành Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn THADS. xii Tổng cục cũng yêu cầu các đơn vị và địa phương thực hiện nghiêm Quy trình tổ chức thi hành án trong Hệ thống THADS; rà soát, giải quyết đối với những vụ việc đấu giá thành nhưng chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá. Thực hiện nghiêm quy định về tiếp công dân và các chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ tại các buổi tiếp công dân. Tổ chức thi hành nghiêm túc các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, bảo đảm thực hiện kiểm tra theo đúng quy trình; tập trung kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ về THADS; kiểm tra việc thực hiện trình tự, thủ tục thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế thi hành án; công tác tổ chức cán bộ, kế hoạch tài chính; tăng cường kiểm tra đột xuất, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh, xử lý nghiêm đối với những sai phạm, thiếu sót; chú trọng công tác phúc tra việc thực hiện các kết luận kiểm tra. Cũng theo Tổng cục THADS, các cơ quan thuộc Tổng cục và địa phương cần tổ chức quán triệt nghiêm túc việc thực hiện Nghị quyết Trung ương IV khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp và Chuẩn mực đạo đức chấp hành viên. Đồng thời, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong công tác, kiên quyết xử lý nghiêm đối với những cán bộ vi phạm đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác THADS, các Quy chế, Quy trình nội bộ. Tập trung điều hành ngân sách và thu nộp, quản lý sử dụng phí thi hành án đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, đúng quy định. Chủ động đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn, trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến độ thực hiện các đề án đã được phê duyệt về xây dựng trụ sở, kho vật chứng và đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc. xiii 1.4. Đặc trưng của công tác thi hành án đối với các vụ án hôn nhân gia đình Hoạt động thi hành án là một quá trình diễn ra sau khi quá trình xét xử của toà án kết thúc. Bản án và quyết định của toà án khi xét sử đã có hiệu lực pháp luật và là một cơ sở để tiến hành các hoạt động của hoạt động thi hành án. Người yêu cầu công tác thi hành án có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự. Như vậy, nếu bạn biết về công việc hay tài sản, các khoản thu nhập của chồng bạn thì bạn nên chủ động xác minh vấn đề này và nộp kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án thì việc thi hành án sẽ có lợi hơn cho bạn; Việc xác minh do cơ quan thi hành án thực hiện: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. xiv CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC 2.1. Tổng quan công tác thi hành án đối với các vụ hôn nhân và gia đình Tại Bình Phước hiện nay, số lượng các vụ án về hôn nhân và gia đình ngày càng gia tăng theo hướng tiêu cực. Đối với loại án này mỗi vụ án có rất nhiều nội dung đa dạng và tính phức tạp khác nhau về từng sự việc , nên việc giải quyết loại án này gặp rất nhiều những khó khăn trong tòa á, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy vậy, quá trình giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án nhân dân bình phước trong những năm qua đạt những kết quả nhất định, đạt những kết quả cao, góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hoà trong hôn nhân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và thống nhất các vụ việc. . Đồng thời, hoạt động thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nảy sinh trong lĩnh vực về hôn nhân, còn phổ biến tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật, nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân, đồng thời qua thực tiễn thi hành án trong giải quyết án hôn nhân và gia đình sẽ phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Thông qua việc thi hành án trong việc giải quyết án hôn nhân và gia đình góp phần làm ổn định quan hệ trong hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự trị an toàn xã hội, góp phần tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Bên cạnh những mặt đã đạt được về công tác sử án trên của tỉnh, qua quá trình kiểm tra giám đốc án và xét xử phúc thẩm của tand bình phước đã phát hiện có những thiếu sót trong việc thi hành án trong quá trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị sửa, bị huỷ; và một số ít vụ án còn bị dây dưa kéo dài theo thời gian Đặc biệt, một số vụ án do thi hành án không chuẩn xác, nên còn bị sửa, huỷ nhiều lần, kéo dài nhiều xv năm gây ảnh hưởng đến đời sống, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc nhân dân khiếu kiện vượt cấp đến các cơ quan trung ương., làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự gây mất thời gian. Trong hoạt động xét xử, ngành toà án bình phước cũng đã bộc lộ một số tồn tại, như án tồn đọng còn nhiều, vi phạm thời hạn tố tụng. Tồn tại trên là những lực cản trở trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại việt nam. Về thi hành án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, các thẩm phán đã hướng dẫn đương sự thực hiện đúng những nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, tài liệu cho việc giải quyết vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết hoặc theo quy định của pháp luật; quan tâm, làm tốt công tác hòa giải nên tỷ lệ các vụ việc được hòa giải để ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn đạt tỷ lệ cao trên 92% tổng số vụ án đã giải quyết. Về thi hành án trong giải quyết án HN&GĐ cấp sơ thẩm. Trong những năm qua (từ năm 2009 đến năm 2013), các tand bình phước đã thụ lý và giải quyết một số lượng lớn các vụ án về hn&gđ, cụ thể bằng bảng thống kê sau: Bảng 2.1. Kết quả thụ lý và giải quyết án hôn nhân gia đình sơ thẩm 5 năm (2009 – 2013)1 Năm Thụ lý(vụ) Giải quyết(vụ) Còn lại(vụ) 2009 1148 1010 138 2010 1381 1242 139 2011 1582 1464 118 2012 089 1809 280 2013 2075 1870 205 Tổng 8275 7395 880 Như vậy, tổng số các vụ án hn&gđ mà tand ở bình phước giải quyết là rất lớn. Đây là kết quả của việc thi hành án trong giai đoạn nhận đơn khởi kiện của các cán bộ 1 Theo thống kê của toàn án nhân dân tỉnh Bình Phước xvi tòa án. Theo thống kê, trong 5 năm gần đây, số lượng án hn&gđ mà tand ở bình phước thụ lý có chiều hướng tăng nhanh. Cụ thể năm 2009 là 1148 vụ đến năm 2013 là 2075 vụ, tăng 927 vụ. - về thi hành án trong giải quyết án hn&gđ cấp phúc thẩm. Thời gian qua, trong phạm vi thẩm quyền của mình tand tỉnh bình phước đã xem xét theo trình tự phúc thẩm với tổng số án thụ lý cấp sơ thẩm là 228 vụ bị kháng cáo, kháng nghị trong 5 năm gần đây. Cụ thể bằng bảng thống kê như sau: Bảng 2.2. Kết quả thụ lý và giải quyết án hôn nhân gia đình phúc thẩm của toà án tỉnh 5 năm (2009 – 2013) Năm 2009 2010 2011 2012 2013 Tổng Sơ thẩm ta giải quyết phúc thẩm 55 44 45 42 35 221 Rút kháng cáo kháng nghị(vụ) 28 19 15 13 17 92 Sửa án (vụ) Hủy án (vụ) 24 23 30 25 15 117 3 2 0 4 3 12 Về thi hành án trong hoạt động xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong những năm qua, từ năm 2009 - 2014 không có kháng nghị của cấp có thẩm quyền theo trình tự tái thẩm. Đối với trình tự giám đốc thẩm tand tỉnh đã thi hành án xét xử 26 vụ án, qua đó đã phát hiện những sai sót của cấp sơ thẩm trong quá trình thi hành án của tand cấp huyện từ giai đoạn điều tra thu thập chứng cứ, đến việc xét xử tại phiên tòa. Để đạt được những kết quả như đã phân tích trên, trong thời gian qua, việc thi hành án của tand ở tỉnh Bình Phước trong giải quyết án hn&gđ đã được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, phiên tòa đã thực sự được diễn ra dân chủ, trang nghiêm, khách quan. Bên cạnh đó, ban cán sự đảng tand tỉnh, cấp ủy đảng của các tand cấp huyện ở tỉnh Bình Phước cũng luôn tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động thi hành án trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung và án hn&gđ nói riêng nhằm đạt được kết quả cao nhất. xvii 2.2. Vướng mắc trong quá trình thi hành án từ thực tiễn thi hành án 2.2.1. Thi hành án đối với các yêu cầu cấp dưỡng Bảng.2.3. Tình hình các vụ li hôn 2 Năm 2012 2013 2014 Số vụ li hôn (vụ) 1120 850 1120 Số vụ giải quyết(vụ) 932 780 932 Đạt ( %) 92 90.7 92 Nghĩa vụ cấp dưỡng không phải lúc nào cũng phát sinh mà nó chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định, chỉ khi những điều kiện đó xảy ra thì nghĩa vụ đó mới phát sinh. Vậy nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ phát sinh trong những điều kiện sau: * Người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng không sống chung với nhau. Khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng sống chung với nhau thì người cấp dưỡng đã trực tiếp thực hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng người được nuôi dưỡng bằng tài sản của mình, do đó việc cấp dưỡng không đặt ra. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng vì hoàn cảnh không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người kia, do đó họ phải chu cấp một khoảng tiền hoặc tài sản nhất định (như lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men…) để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người cần cấp dưỡng, đảm bảo sự sống còn của họ. Ví dụ: trước khi li hôn, cả vợ và chồng đều có thể hàng ngày chăm sóc con của mình, nhưng khi họ li hôn, người con khi đó chỉ có thể ở với bố hoặc mẹ và như vậy người còn lại không thể quan tâm chăm sóc con như trước họ chỉ có thể thể hiện sự quan tâm đó bằng cách cấp dưỡng cho con. * Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng. * Điều kiện về người được cấp dưỡng là người chưa thành niên (người dưới mười tám tuổi) người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người túng thiếu khó khăn. Không có khả năng lao động có thể là do già yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự. ...“ không có 2 Tòa án tỉnh Bình Phước xviii khả năng lao động” phải gắn liền với “ không có tài sản để tự nuôi mình”. Vấn đề quan trọng là khi nào một người được xác định là “ không có tài sản để tự nuôi mình” để có thể được người khác cấp dưỡng. Vấn đề này Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định rõ do vậy cần có sự quy định cụ thể để đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn xét xử. Việc cấp dưỡng nhằm cung cấp những thứ cần thiết như tiền bạc, tài sản để đáp ứng nhu cầu sống thiết yếu của người được cấp dưỡng, nên nó chỉ nảy sinh khi người được cấp dưỡng không có khả năng về kinh tế, không tự lo cho cuộc sống bình thường của mình. Cấp dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống với mức tối thiểu của người được cấp dưỡng. * Điều kiện về người được cấp dưỡng là người có khả năng cấp dưỡng. Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 30/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị định số 70/2001/NĐ - CP) quy định: “ Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó” (Điều 16). Như vậy, đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cấp dưỡng có thể dựa vào hai yếu tố: Thu nhập thường xuyên và tài sản hiện có hoặc một người tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng lại còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phi cần thiết cho bản thân thì cũng được coi là có khả năng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo Điều 56 và Điều 92 Luật HN&GĐ năm 2000 thì khi li hôn cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2000/NQ - HĐTP ngày23/01/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Sau đây gọi là Nghị quyết số 02/2000/NQ – HĐTP) quy định: “Đây là nghĩa vụ của cha mẹ do đó không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lí do nào đó thì Tòa án xix cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy, khi xem xét, giải quyết sự việc Toà án nên căn cứ vào tình hình thực tế của các bên đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của con cái để đưa ra các phán quyết “ thấu tình đạt lí hơn”. Biết rằng mọi phán quyết đều phải dựa trên các quy định của pháp luật, làm đúng theo pháp luật nhưng trong một số trường hợp có thể áp dụng linh hoạt các quy định đó, “biến hoá” các quy định đó để xet xử hợp tình hợp lí hơn, thuyết phục được các bên qua đó đề cao truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt NamVấn đề cấp dưỡng được quy định khá cụ thể và đầy đủ trong Luật HN&GĐ năm 2000 và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng cho con khi vợ chồng li hôn, cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, cùng với sự vận động và phát triển của nền kinh tế đã tác động vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ cấp dưỡng nói riêng. Một số quy định của pháp luật đã không còn phù hợp với thực tế, một số vấn đề còn chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, đòi hỏi pháp luật về cấp dưỡng cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tế. Cùng với đó, chúng ta cần tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về cấp dưỡng trên thực tế và nâng cao trách nhiệm, năng lực chuyên môn của cán bộ có thẩm quyền, phải chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về cấp dưỡng, đặc biệt là cấp dưỡng trong trường hợp vợ chồng li hôn để mọi tầng lớp nhân dân có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề này và ý thức được quyền lợi, trách nhiệm của mình trong việc cấp dưỡng. Nhằm ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong việc cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng li hôn như: Trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ…đảm bảo mục đích của việc cấp dưỡng nuôi con một trong những biện pháp quan trọng và cần thiết là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc cấp dưỡng nuôi con. Công tác đó cần được thực hiện một cách thường xuyên theo định kì hoặc tiến hành đột xuất khi có dư luật, hay có đơn tố cáo của quần chúng nhân dân.Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn các vấn đề liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con được chính xác, đúng đắn xx
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan