BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Lan Ngọc
BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG TÁC
CỦA VƯƠNG MÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Lan Ngọc
BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG TÁC
CỦA VƯƠNG MÔNG
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số
: 60 22 02 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nào
khác.
Tác giả
Phan Thị Lan Ngọc
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình từ thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến:
Quý thầy cô trong khoa Ngữ văn và phòng Sau đại học trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi thực hiện đề tài
này.
Cô Đinh Phan Cẩm Vân, người đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình tôi trong
suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Qua đây, tôi xin gửi tới cô lời biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất.
Gia đình, bạn bè, người thân luôn hỗ trợ, động viên tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Với việc thực hiện một đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian và khả năng
còn hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự
góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2013
Phan Thị Lan Ngọc
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài ..............................................................................................................5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................6
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................................10
7. Cấu trúc luận văn .........................................................................................................10
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 12
1.1. Giới thuyết chung về biểu tượng ..............................................................................12
1.1.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................................ 12
1.1.2. Biểu tượng văn hoá ............................................................................................... 14
1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật ........................................................................................... 15
1.2. Trung Hoa – biểu tượng truyền thống văn hóa ......................................................17
1.3. Vương Mông – biểu tượng sóng gió cuộc đời ..........................................................19
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG
TÁC CỦA VƯƠNG MÔNG ..................................................................................... 22
2.1. Ý nghĩa của biểu tượng .............................................................................................22
2.1.1. Biểu tượng chia li .................................................................................................. 22
2.1.2. Biểu tượng biến hóa .............................................................................................. 25
2.1.3. Biểu tượng hy vọng ............................................................................................... 36
2.1.4. Biểu tượng “hiện đại”............................................................................................ 41
2.2. Chức năng của biểu tượng ........................................................................................43
2.2.1. Biểu tượng và kết cấu tâm lý................................................................................. 43
2.2.2. Biểu tượng và giọng điệu u mua ........................................................................... 46
2.2.3. Biểu tượng và trò chơi tiếp nhận ........................................................................... 48
CHƯƠNG 3: THỦ PHÁP XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG SÁNG TÁC
CỦA VƯƠNG MÔNG............................................................................................... 58
3.1. Biểu tượng và nhan đề tác phẩm ..............................................................................58
3.2. Biểu tượng và khả năng tạo nghĩa............................................................................63
3
3.3. Biểu tượng và thời gian ý thức .................................................................................69
3.4. Biểu tượng và khả năng ảo hóa ................................................................................77
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 88
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 100
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trung Quốc, đất nước nổi tiếng với những câu chuyện huyền thoại, đất nước
với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, kết tinh trong mình những dấu ấn văn hóa đặc sắc.
Nền văn chương Trung Hoa, “một nền văn xuôi và thơ ca nhiều màu vẻ từng làm xúc
động biết bao thế hệ người đọc” [54, tr.10] đã và đang mang trong mình dòng chảy
những tác phẩm huyền thoại. Từ ngàn xưa, Trung Hoa đã có những tác phẩm được
coi là kinh điển không chỉ của nền văn học truyền thống nói riêng mà còn của nền
văn chương Thế giới nói chung. Từ những tác phẩm cổ điển như Kinh thi, Sở từ,
Tam Quốc diễn nghĩa, Tây Du Ký, Thủy Hử, Sử ký, Đông Chu liệt quốc, Liêu Trai
chí dị, Hồng lâu mộng,... đến các tác phẩm thời hiện đại như sáng tác của Lỗ Tấn,
Quách Mạt Nhược, Ba Kim,... hay gần đây nhất là những sáng tác của Mạc Ngôn,
Vương Mông, Lưu Tâm Vũ, Giả Bình Ao, Thiết Ngưng, Trương Vệ Tuệ, Quách
Kính Minh,... đều gây được sự chú ý.
Văn học Trung Quốc từ xưa đến nay luôn thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu lẫn độc giả chính vì sự đa dạng trong phong cách sáng tác, sự tìm tòi đổi
mới về mặt nghệ thuật, sự tiếp thu truyền thống và sự tiếp biến có chọn lọc trong tác
phẩm. Điều này đem đến cho văn chương Trung Hoa sự phong phú về đề tài, thể loại,
khuynh hướng sáng tác và sự điêu luyện trong bút pháp thể hiện. Đây chính là mảnh
đất màu mỡ để các nhà nghiên cứu mong muốn tìm hiểu nền văn học mang đậm bản
sắc Á Đông. Trong số những nhà văn tiêu biểu, làm nên diện mạo nền văn học hiện
đại Trung Quốc không thể không nhắc đến Vương Mông, nhà văn đi đầu trong việc
vận dụng sáng tạo thủ pháp “dòng ý thức” Tây phương hiện đại. Điểm nhấn trong
sáng tác của nhà văn chính là hệ thống biểu tượng phong phú. Nghiên cứu tác phẩm
của ông từ phương diện văn hóa là hướng đi có nhiều ý nghĩa vì:
Thứ nhất, nghiên cứu biểu tượng là hướng nghiên cứu mới mẻ, được nhiều tác
giả quan tâm. Biểu tượng được sử dụng như một phương thức nghệ thuật nhằm phản
ánh cuộc sống và liên quan đến vấn đề văn hóa, tìm hiểu biểu tượng phần nào hiểu
được nền văn hóa của dân tộc đó.
5
Thứ hai, nghiên cứu để thấy được sự giao lưu văn hóa trong sáng tác, không
chỉ tiếp thu từ truyền thống mà Vương Mông còn sáng tạo những biểu tượng độc đáo.
Nhà văn được nhiều nhà nghiên cứu nhận định đi đầu trong việc đổi mới tiểu thuyết
Trung Hoa hiện đại, do vậy những biểu tượng được sử dụng không chỉ thuần túy có
trong dân tộc mà chúng cũng mang những nét độc đáo của nhà văn.
Từ những lí do trên, người viết mạnh dạn chọn đề tài: “Biểu tượng trong sáng
tác của Vương Mông” với mong muốn kiếm tìm những thông điệp mà nhà văn gửi
gắm cũng như mối liên hệ giữa các biểu tượng, khẳng định tính nhân văn của tác
phẩm. Đồng thời, qua công trình nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng đóng góp một
phần tri thức vào việc giảng dạy, nghiên cứu tác phẩm văn học trong nhà trường theo
hướng tiếp cận từ mã văn hoá.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Chúng tôi tìm thấy hai công trình nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh về biểu
tượng trong nền văn hóa Trung Hoa cũng như biểu tượng trong sáng tác của Vương
Mông như sau:
+ Luận án tiến sĩ “Biểu tượng văn hóa trong văn học hiện đại Trung Quốc” 1
F
0
(Символ в культуре повседневности современного китая) của tác giả Сюй
Марина Вячеславовна (Xu Marina V) đã có những đóng góp thiết thực trong việc
giải mã và đánh giá hệ thống biểu tượng Trung Quốc. Luận án triển khai trong hai
chương. Chương 1 Biểu tượng truyền thống văn hóa Trung Quốc tác giả triển khai
các nội dung quan trọng: các khái niệm cơ bản, phân loại các biểu tượng, bối cảnh
cho sự tồn tại các biểu tượng và đại diện trong nền văn hóa, trong đó tác giả chủ yếu
trình bày những biểu tượng về quyền lực, thuyết giáo, cây cối, trang sức, màu sắc,...
Chương 2 Phương thức tượng trưng trong cuộc sống hàng ngày là truyền thống
văn hóa Trung Quốc được triển khai ở các nội dung: chức năng văn hóa trong đời
sống hàng ngày ở Trung Quốc, việc đưa các biểu tượng văn hóa và chức năng các
nhân vật trong văn hóa hàng ngày ở Trung Quốc.
1
Nguồn: http://www.dissers.ru/avtoreferati-kandidatskih-dissertatsii1/a281.php
6
Như vậy, luận văn nghiên cứu trên bình diện khá rộng những biểu tượng văn
hóa xét trên nhiều lĩnh vực như văn học, quân sự, thể thao, tôn giáo, mỹ thuật,… xem
xét trong mối quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu giúp người đọc tiếp cận nền văn hóa Trung
Hoa. Tuy nhiên, luận văn chưa tập trung đi sâu vào một tác giả cụ thể để thấy được
biểu tượng văn hóa biến đổi hay sản sinh ý nghĩa khi đi vào tác phẩm.
+ Luận án tiến sĩ “Khái niệm sự sáng tạo, cá tính sáng tạo trong văn xuôi và
báo chí của nhà văn Trung Quốc Vương Mông” 2 (Концепция творчества и
F
1
творческой личности в прозе и публицистике китайского писателя Ван Мэна)
của tác giả Шулунова, ЕвгенияКонстантиновна (Shulunova, Eugene K) năm 2005
với độ dài 139 trang đã khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn trên nhiều
lĩnh vực. Tác giả đánh giá Vương Mông là nhà văn vượt ra ngoài tầm cỡ quốc gia vì
tư tưởng và tài năng sáng tạo không ngừng từ cuộc đời truyền kì cho đến tác phẩm
mang đầy cá tính. Chương 1 tác giả khái quát cá tính sáng tạo trong phê bình văn học
và báo chí. Tác giả cho rằng bản chất của văn học là sáng tạo và văn học có khả năng
lãnh đạo chính trị. Chương 2 tác giả khẳng định giá trị những tác phẩm văn xuôi với
việc người nghệ sĩ cải tạo xã hội và chứng minh bằng cuộc đời riêng tư. Chương 3 tác
giả đi vào nghệ thuật tiêu biểu, làm nên phong cách sáng tạo, đầy chất Vương Mông
chính là việc sử dụng biểu tượng để phản ánh thế giới. Tác giả dành trọn một tiểu
mục cho biểu tượng nước và tiểu mục hai dành cho hệ thống các biểu tượng khác.
Biểu tượng theo tác giả chính là phương thức giúp nhà văn thể hiện đa chiều tư duy
sáng tạo, là sự trở về quan niệm truyền thống thế giới trong sự mở rộng tư duy con
người.
Như vậy, luận án có sự phong phú về đối tượng nghiên cứu xét ở các lĩnh vực
sáng tác như báo chí, văn xuôi và phê bình của nhà văn Vương Mông. Cá tính sáng
tạo được triển khai ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Trong đó, nghệ
thuật góp phần không nhỏ trong việc phản ánh tư duy sáng tạo chính là biểu tượng. Ở
đây, biểu tượng được tác giả nhắc đến và đề cập tuy nhiên chưa đi sâu khai thác và
giải nghĩa trong hệ thống cũng như tìm hiểu những thủ pháp xây dựng ý nghĩa.
2
Nguồn: http://www.dissercat.com/content/kontseptsiya-tvorchestva-i-tvorcheskoi-lichnosti-v-
proze-i-publitsistike-kitaiskogo-pisately
7
Trên đây là hai trong số những công trình nghiên cứu biểu tượng trong nền
văn hóa Trung Hoa và sáng tác của Vương Mông, mỗi đề tài đều có hướng nghiên
cứu riêng xét theo mục đích của từng ngành khoa học cụ thể vì vậy chưa đi sâu tìm
hiểu biểu tượng trong sáng tác của nhà văn một cách bao quát nhưng phần nào giúp
chúng tôi định hướng và hoàn thiện cơ sở lý luận. Từ những ý nghĩa trên, chúng tôi
tiến hành tìm hiểu, đánh giá biểu tượng trong tác phẩm của nhà văn một cách toàn
diện và hệ thống.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Các công trình nghiên cứu trong nước về Vương Mông không nhiều, có thể nói
hạn chế về nguồn tài liệu. Người viết chỉ tìm thấy hai bài nghiên cứu tương đối khái
quát về tác phẩm của nhà văn như sau:
+ Bài nghiên cứu “Vương Mông – Nhà văn đi tiên phong trong việc đổi mới
tiểu thuyết đương đại Trung Quốc” [111, tr.27-34] của GS Lê Huy Tiêu đã khái
quát những đặc trưng cơ bản trong phong cách nghệ thuật, đồng thời đề cập sơ qua về
các biểu tượng được sử dụng. Tác giả đã định hình phong cách nghệ thuật chính của
Vương Mông xét trên các phương diện: dòng ý thức, kết cấu tâm lý, chủ đề đa nghĩa,
bút pháp tượng trưng, giọng điệu u mua. Đặc biệt trong bút pháp tượng trưng, giáo sư
cho rằng nhà văn thường sử dụng hình ảnh mang tính chất ẩn dụ và nêu vài biểu
tượng nhưng chỉ ở mức khái quát chứ chưa đưa ra hệ thống phân loại cụ thể cũng như
chưa chỉ ra thủ pháp nghệ thuật xây dựng biểu tượng. Tuy nhiên bài viết cũng là
hướng đi mới giúp người viết có hướng tiếp cận sâu sắc.
+ Bài nghiên cứu “Nhà văn nổi tiếng Vương Mông” của PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp
trong công trình nghiên cứu Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì mới [46,
tr.246-258] cũng nhắc đến hình ảnh ẩn dụ như hồ điệp. Tuy nhiên bài viết chỉ tập
trung giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn chứ chưa đi sâu vào vấn
đề nghệ thuật, đặc biệt là biểu tượng.
Ngoài hai bài viết tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn, những
tài liệu, công trình nghiên cứu chỉ nhắc đến Vương Mông như một tác gia sơ lược khi
đề cập đến tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Đối với đề tài: “Biểu tượng trong sáng
tác của Vương Mông” hiện tại trong nước chưa có công trình nghiên cứu. Từ đó,
8
người viết nhận thấy nghiên cứu tác phẩm của nhà văn xét từ biểu tượng là hướng đi
mở cần được tìm hiểu kỹ lưỡng.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm phân loại hệ thống biểu tượng, cắt nghĩa, lý giải từ nguồn gốc
đến nội dung trong mối quan hệ văn hóa nói chung và tác phẩm nói riêng. Đồng thời,
tìm hiểu thủ pháp nghệ thuật xây dựng biểu tượng cũng như chức năng mà biểu
tượng đem lại cho toàn bộ tác phẩm. Nghiên cứu biểu tượng không chỉ nằm ở yếu tố
riêng rẽ mà phải đặt chúng trong hệ thống tác phẩm để thấy được đầy đủ những nét
nghĩa cũng như cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các biểu tượng trong sáng tác của nhà văn Vương Mông
(bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn)
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát các tác phẩm:
- Tiểu thuyết: Hoạt động biến nhân hình, Cáo xanh
- Truyện vừa: Hồ điệp
- Truyện ngắn: Chiếc lá phong, Sáu cây cầu trên đê mùa xuân, Cát-xet
viêm, Mắt đêm, Dải cánh diều, Tiếng mùa xuân.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đề tài nghiên cứu biểu tượng có liên
quan đến hệ thống các ngành khoa học khác như triết học, tôn giáo, văn hóa, dân
tộc,... Do vậy, phương pháp này là không thể thiếu.
- Phương pháp thống kê: Phân loại hệ thống biểu tượng để sắp xếp theo yêu
cầu cũng như làm rõ tần số xuất hiện của biểu tượng.
- Phương pháp nghiên cứu văn học: Nghiên cứu biểu tượng dựa trên cơ sở
phân tích, đánh giá với việc biểu đạt nội dung ý nghĩa.
- Phương pháp nghiên cứu văn hóa học: Dựa trên cách tiếp cận biểu tượng,
9
đi sâu giải mã nền văn hóa ảnh hưởng đến việc sử dụng biểu tượng.
- Phương pháp tiểu sử: Nghiên cứu biểu tượng trên cơ sở tìm hiểu cuộc đời
nhà văn để làm sáng tỏ những nét tư tưởng cũng như quan niệm sống của tác giả.
- Phương pháp cấu trúc: Biểu tượng chỉ trở thành phương thức nghệ thuật
khi nhà văn đặt nó trong hệ thống cấu trúc tác phẩm.
- Phương pháp ký hiệu học: Nghiên cứu biểu tượng dưới góc độ ký hiệu học
giúp giải mã các nét nghĩa cũng như cách thức phái sinh nghĩa trong tác phẩm.
- Phương pháp so sánh: Biểu tượng không phải là tài sản riêng của cá nhân
mà là của chung nhân loại. Cùng một biểu tượng mỗi nhà văn lại có cách sử dụng,
cách giải nghĩa trái chiều bởi mỗi nền văn hóa có những cách giải nghĩa khác nhau.
So sánh để thấy được sự đa dạng trong cách tiếp nhận biểu tượng của từng tác giả.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu xác lập hệ thống biểu tượng trên cơ sở tìm hiểu nghĩa gốc
và sự vận dụng sáng tạo trong tác phẩm đồng thời chỉ ra nét khác biệt với những nhà
văn khác. Qua đó thấy được những nét đặc sắc về nội dung tư tưởng, chức năng cũng
như thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trong việc xây dựng biểu tượng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Lời cảm ơn, Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và
Phụ lục, Luận văn gồm ba chương chính:
Chương 1. Những vấn đề chung
Trình bày khái quát biểu tượng, biểu tượng văn hóa, biểu tượng nghệ thuật
dưới những góc độ khác nhau. Đồng thời giới thiệu sơ lược về thời đại, cuộc đời giàu
ý nghĩa của Vương Mông.
Chương 2. Ý nghĩa và chức năng của biểu tượng trong sáng tác của
Vương Mông
Phân loại, giải nghĩa các biểu tượng nhằm làm rõ nguồn gốc các biểu tượng có
trong truyền thống văn hóa Trung Hoa cũng như những biểu tượng riêng của Vương
Mông. Qua đó thấy được chức năng của biểu tượng trong việc triển khai tác phẩm.
10
Chương 3. Thủ pháp xây dựng biểu tượng trong sáng tác của Vương
Mông
Tìm hiểu thủ pháp nghệ thuật xây dựng biểu tượng để hình thành ý nghĩa biểu
tượng, thấy được sự khác biệt trong cách thức xây dựng cũng như nét sáng tạo độc
đáo của nhà văn.
11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết chung về biểu tượng
1.1.1. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng xuất hiện sớm trong tư duy nhân loại ngay từ thời nguyên thuỷ, khi
chưa có ngôn ngữ, con người đã biết sử dụng những tín/kí hiệu để đánh dấu và giao
tiếp. Khởi nguyên của biểu tượng (Symbol) bắt nguồn từ tập quán Hy Lạp cổ đại, một
vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần,
chủ và khách, người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp chia tay
lâu dài… Sau này, ráp hai mảnh với nhau, họ sẽ nhận ra mối thân tình xưa, món nợ
cũ hay tình bạn ngày trước. Biểu tượng chia ra và lại kết lại với nhau như vậy nên nó
chứa hai ý nghĩa phân ly và tái hợp. Điều này cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa
đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ trong cái vừa gãy vừa nối kết
những phần đã bị vỡ ra. Biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô bày, trở thành
một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng nhằm diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng.
Trong lịch sử đã có nhiều triết gia đã đề cập đến biểu tượng như Chu Hy - Nhà
dịch số Trung Hoa thần bí, Hêghen - nhà triết học duy tâm khách quan Đức, sau này
là Singmund Freud - Bác sĩ thần kinh, tâm thần người Áo rồi đến C.G.Jung…
Theo quan niệm của Freud: "Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió
và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết
thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, mọi lời nói với ý nghĩa
tiềm ẩn của chúng" [55, tr.XXIV].
Đối với C.G.Jung, ông cho rằng: "Biểu tượng không phải là một phúng dụ,
cũng chẳng phải một dấu hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để
chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh" [55, tr.XXIV] hay
"Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình ảnh,
ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa đựng những ý
nghĩa khác, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của nó" [55,
tr.XXIV].
12
Theo Chu Hy, nhà triết học Trung Quốc nổi tiếng đời Tống (1131-1200) trong
"Dịch thuyết cương lĩnh" khi bàn về biểu tượng đã viết: "Tượng là lấy hình ảnh này
để tỏ nghĩa kia" [12, tr.58]
Biểu tượng được nghiên cứu và tiếp nhận khá sớm trong lịch sử, đứng trên
những quan điểm và lập trường khác nhau nhưng mỗi nhà nghiên cứu lại đưa ra khái
niệm riêng phù hợp với ngành khoa học của mình như Triết học, Tâm lí học, Xã hội
học.
Theo Từ điển Tâm lý học Biểu tượng là “hình ảnh các vật thể, bối cảnh và sự
kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có
thể mang tính chất khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại thì biểu tượng
liên quan đến quá khứ và tương lai" [16, tr.41]
Dưới góc độ xã hội học, biểu tượng được hiểu là “hình thức dùng hình này để
tỏ nghĩa nọ” hay nói khác đi “mượn một cái gì đó để tượng trưng cho một cái gì
khác” [36, tr.11]
Dưới góc độ văn hóa học, biểu tượng “là bất kì thực thể nào có chứa nghĩa và
có thể quy chiếu sang thực thể khác, chúng được sử dụng và được diễn giải như là
một đại diện cho một loại thông tin nào đó căn cứ vào một tương ứng loại suy” [19,
tr.71]. Cũng theo tác giả, “Để con người có thể tư duy và thông báo với nhau bức
tranh về thế giới ý niệm nằm trong đầu anh ta, con người đã sáng tạo ra một thế giới
biểu tượng làm vật thay thế, làm cầu nối giữa thế giới ý niệm và thế giới thực tại
bằng cách mô phỏng một hiện tượng tự nhiên và cấp cho nó một ý nghĩa, một thông
tin” [19, tr.72].
Dù đứng trên quan điểm của những ngành khoa học khác nhau nhưng chúng ta
vẫn có thể thấy điểm chung của biểu tượng: Biểu tượng không hoàn toàn là thực tế
nhưng cũng không hoàn toàn là chủ quan xuất phát từ hoạt động tâm trí của chủ thể.
Nó vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp, được hình thành
do sự phối hợp bổ sung lẫn nhau của các giác quan và sự tham gia của các yếu tố
phân tích, tổng hợp. Vì vậy, biểu tượng phản ánh đặc trưng của các sự vật, hiện tượng
một cách khái quát nhất. Nhà nghiên cứu Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cho
rằng: "Tự bản chất của biểu tượng, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các
13
thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay mà không bay, đứng im
mà biến ảo, hiển nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra
một hay nhiều ý nghĩa của một biểu tượng" [55, tr.XIV, XXIV]. Nói như Georges
Gurvitch: "Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che giấu mà tiết lộ" [55, tr.XIV]
Con người với khả năng biểu trưng hóa có thể tiếp nhận hình ảnh trong thực tại
bằng các biểu tượng và mở rộng khả năng nội hàm của nó. Theo phạm vi nghiên cứu
và mục đích của luận văn, chúng tôi làm rõ nội hàm của hai khái niệm cơ bản: biểu
tượng văn hóa, biểu tượng nghệ thuật.
1.1.2. Biểu tượng văn hoá
Văn hoá là một khái niệm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau dưới con mắt
của nhiều ngành khoa học, văn hóa liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần
của con người. Theo tác giả Nguyễn Văn Hậu, “Biểu tượng luôn ở vị trí trung tâm và
được coi như “hạt giống” của đời sống văn hóa”. “Cách tiếp cận văn hoá bằng các
hình thái biểu tượng không có sự đối lập hoàn toàn với các cách tiếp cận văn hoá
khác. Bởi ở góc độ nào đó để nghiên cứu về văn hoá đi chăng nữa thì văn hoá không
có gì khác là toàn bộ sự hiểu biết của con người tích luỹ được trong quá trình hoạt
động thực tiễn - lịch sử được đúc kết thành các giá trị và chuẩn mực xã hội. Hệ thống
giá trị xã hội đó được khách thể hoá - biểu tượng hoá trở thành các biểu tượng nhờ
vào năng lực tượng trưng hoá - một năng lực đặc trưng cơ bản của hoạt động
người. Biểu tượng được xem như là "tế bào"của văn hoá, nó làm nên toàn bộ đời
sống văn hoá và chi phối mọi hoạt động, mọi ứng xử của con người trong đời sống xã
hội.”3
F
2
Biểu tượng văn hóa bao gồm những biểu tượng vật thể như trong các ngành
hội họa, điêu khắc, kiến trúc (tượng Nữ thần tự do là biểu tượng của nước Mỹ, chợ
Bến Thành là biểu tượng của Việt Nam,…) đồng thời là biểu tượng phi vật thể (tín
ngưỡng, phong tục, văn học),… Biểu tượng có khả năng mở rộng ý nghĩa hơn chính
hình thức cảm tính, tồn tại và phát triển trong một hệ thống ổn định, đặc trưng cho
3
Nguyễn Văn Hậu (19/4/2009), “Biểu tượng như là đơn vị cơ bản của văn hóa”, Tạp chí Văn hóa học
(http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de-chung/1186-nguyen-van-hau-bieu-tuongnhu-la-don-vi-co-ban-cua-van-hoa.html)
14
nền văn hóa từng dân tộc. Tác giả Jean Chevalier cho rằng “biểu tượng có khả năng
cùng lúc thâm nhập vào tận bên trong cá thể xã hội”, hiểu ý nghĩa biểu tượng là tiếp
cận bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Các biểu tượng văn hóa xuất hiện sâu rộng và có ảnh hưởng đến đời sống tinh
thần mỗi dân tộc, là nguồn mạch dân gian nuôi dưỡng những giá trị tâm linh. Mối
quan hệ giữa biểu tượng văn hóa và con người tạo nên thế tương liên, đối thoại và sự
quy ước chung theo chiều sâu. Mỗi quốc gia có những biểu tượng đặc trưng cho
mình, có khi cùng một biểu tượng nhưng ở mỗi nước lại có cách giải thích nghĩa khác
nhau. Biểu tượng văn hóa cùng với sự phát triển trong đời sống ngày càng bồi đắp
thêm ý nghĩa, ngày càng có nhiều biểu tượng mới xuất hiện theo cá tính sáng tạo của
nhà văn. Đó là sự mở rộng nội hàm ý nghĩa, một đặc trưng của biểu tượng làm cho
văn bản trở nên đa chiều tiếp thu và tiếp biến.
Con người tư duy bằng biểu tượng, giao tiếp bằng biểu tượng và thể hiện tâm
tư, tình cảm sâu kín nhất, những khát vọng của mình cũng bằng biểu tượng. Vì thế đi
sâu tìm hiểu những biểu tượng văn hoá là tìm thấy những giá trị khoa học và nhân
văn của cả dân tộc.
1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật
Biểu tượng nghệ thuật là một biến thể của biểu tượng văn hóa xét trên một
ngành khoa học cụ thể như hội họa, âm nhạc,... Biểu tượng văn học là loại biểu
tượng đa nghĩa, được xây dựng trong sáng tác văn chương. Theo C.G.Jung: “Biểu
tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc
trong đời sống hàng ngày vẫn chứa đựng mối quan hệ liên cận, cộng thêm vào đó cái
ý nghĩa quy ước và hiển nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì
đó mơ hồ, chưa biết hay bị che giấu đối với chúng ta” [55, tr.29]
So với hình tượng, khả năng tạo nghĩa của biểu tượng vô cùng phong phú, hình
tượng chỉ gói gọn trong phạm vi nghĩa nhất định còn biểu tượng tạo chiều sâu cho
văn bản. Từ một biểu tượng, chúng ta có thể hiểu nhiều hình tượng riêng biệt, tạo nên
tính thống nhất hệ thống biểu tượng. Biểu tượng gần gũi với kí hiệu, ẩn dụ, phúng
dụ… nhưng nếu kí hiệu, ẩn dụ, phúng dụ tạo ra những mối liên hệ lâm thời, rời rạc,
những quy ước đơn giản giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, có tác dụng biểu
15
nghĩa thì biểu tượng tạo được sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo
nghĩa khác. Các tác giả “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” đã chỉ ra rằng:
“Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu là một qui ước tuỳ tiện trong đó cái biểu đạt
và cái được biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau, trong khi biểu
tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa
một lực năng động tổ chức” [55, tr.XIX]. Gilbert Durand cũng khẳng định: “biểu
tượng rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân tạo, nó có một sức
vang cốt yếu và tự sinh” [55, tr.XIX]. “Như vậy, biểu tượng phong phú hơn là một
dấu hiệu, ký hiệu đơn thuần: hiệu lực của nó vượt ra ngoài ý nghĩa, nó phụ thuộc
vào cách giải thích và cách giải thích thì phụ thuộc vào một thiên hướng nào đó. Nó
đầy gợi cảm và năng động. Nó không chỉ vừa biểu hiện, theo một cách nào đó, vừa
che đậy; nó còn vừa thiết lập, cũng theo một cách nào đó, vừa tháo dỡ ra” [55,
tr.XX]. Mặt khác, cần nhấn mạnh rằng dung lượng của cái biểu trưng và cái được
biểu trưng trong biểu tượng không phải là quan hệ 1-1, biểu tượng luôn mang tính
đa trị, “chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt, hoặc giản
đơn hơn…cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt”, đây chính là “tính không
thích hợp giữa tồn tại và hình thức, sự ứ tràn của nội dung ra ngoài dạng biểu đạt
của nó” như cách nói của Tevezan Todorov [55, tr.XXVII]
Theo nghĩa rộng, có thể xem tác phẩm văn học là một biểu tượng, một chỉnh
thể thẩm mỹ chứa nhiều thông điệp bởi văn học phản ánh hiện thực cuộc sống thông
qua những hình tượng nghệ thuật đặc biệt. Việc giải mã biểu tượng góp phần giúp
chúng ta hiểu được những giá trị riêng biệt, độc đáo của tác phẩm. Văn học phản ánh
thế giới hiện đại theo những cách rất riêng, trong đó biểu tượng là phương thức phản
ánh có hiệu quả đối với người nghệ sỹ.
Theo nghĩa hẹp, biểu tượng “là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói, là
một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có sức biểu hiện lớn” [2, tr.24]. Nhìn ở góc
độ này, biểu tượng văn học là một “nhân vật” đặc biệt, được hiện diện dưới nhiều
hình thức khác nhau, có thể là con vật, đồ vật, hình ảnh, hình tượng… nhằm biểu hiện
ý nghĩa của tác phẩm văn học. Đó là một thủ pháp đặc biệt để tác giả thể hiện ý đồ
sáng tạo.
16
Biểu tượng nghệ thuật được cấu tạo thông qua tín hiệu ngôn ngữ trong văn học.
Trong phạm vi ngôn từ nghệ thuật, biểu tượng được chuyển sang các từ-biểu tượng
(word – symbol). Các tín hiệu này mở rộng khả năng tạo nghĩa của văn bản.
Tiểu kết
Biểu tượng là hình ảnh cụ thể gợi đến một ý nghĩa trừu tượng mà mối quan hệ
giữa chúng mang sự gắn kết nhất định, được hình thành, phát triển, gắn bó trong đời
sống văn hóa xã hội, là công cụ của tư duy trong tiến trình nhận thức, là sự mã hóa
các giá trị tinh thần của loài người. Biểu tượng mang trong mình giá trị vĩnh hằng
các tầng ý nghĩa văn hóa của một đất nước đồng thời cũng luôn có sự luân chuyển,
bồi đắp ý nghĩa thông qua vốn hiểu biết và tài năng của người nghệ sĩ, do vậy “biểu
tượng là một sinh thể có khả năng mở rộng nghĩa theo thời gian” [65, tr.110]. Từ
đó, chúng tôi rút ra những đặc trưng chủ yếu của biểu tượng nghệ thuật trong văn
học: tính dân tộc, tính sáng tạo, tính hàm súc và tính khái quát. Hệ biểu tượng mang ý
nghĩa cơ bản, tồn tại trong tiềm thức loài người (tính dân tộc) và ở mỗi quốc gia, đến
lượt mình, mỗi nhà văn lại tiếp thu và tiếp biến theo cách riêng của mình làm nên thế
giới biểu tượng phong phú trong việc phản ánh thế giới (tính sáng tạo). Với giá trị
tiềm ẩn cùng khả năng mở rộng ý nghĩa, biểu tượng vừa mang tính hàm súc, đồng
thời gợi lên tầng ý nghĩa khái quát sâu rộng. Vì vậy, việc nghiên cứu biểu tượng văn
học là việc làm thiết thực nhằm giải mã ý nghĩa nội dung, nghệ thuật của tác phẩm,
khẳng định giá trị văn học cũng như phong cách tác giả.
1.2. Trung Hoa – biểu tượng truyền thống văn hóa
Trung Hoa là đất nước của nhiều tôn giáo, sự giao thoa giữa các nền văn hóa là
điều không tránh khỏi. Chiều sâu tư tưởng, bề dày triết lý trong những tác phẩm đã
từng làm kinh ngạc bao thế hệ bạn đọc. Đó là Liêu Trai chí dị với những câu chuyện
được bao phủ bởi lớp sương huyễn hoặc kì ảo của giấc mộng mà phản ánh hiện thực
xã hội sâu sắc, đó là Hồng lâu mộng với bao câu chuyện trong Đại Quan Viên để rồi
người đọc nhận ra tất cả những vinh hoa đó chỉ là màu hồng phù du, đó còn là Tây
Du Ký với câu chuyện thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh mà ẩn chứa triết lý nhân sinh
sâu sắc,... Như vậy, những tác phẩm có giá trị phải mang ý nghĩa xã hội, phải được
viết từ trái tim chân thành của chính nhà văn và phải mang trong mình ý nghĩa nhân
17
bản. Ta còn nhớ tác phẩm Linh Sơn được giải thưởng Nobel của Cao Hành Kiện
cũng đã đề cập đến vấn đề nhân sinh, về con đường đời mà chúng ta đi tìm. Linh Sơn
như đưa ta bước vào thế giới đầy tâm linh, đi tìm bản thể, cội nguồn hay như tiểu
thuyết Mạc Ngôn thông qua những câu chuyện đan xen những tình tiết hư ảo, những
giấc mơ mà phản ánh hiện thực, mang đậm giá trị nhân văn. Gốc rễ những tác phẩm
ấy chính là triết lí mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm, là bài học mà độc giả muốn
chiêm nghiệm và khám phá.
Điều dễ nhận thấy trong văn chương Trung Hoa là tính triết lý vô cùng thâm
thúy và hơn cả, biểu tượng nghệ thuật góp phần không nhỏ trong việc phản ánh hiện
thực cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của người sáng tác. Tác giả Trần Lê Bảo cho
rằng “đó là lối tư duy thiên về nhận thức những biểu tượng cụ thể” [4, tr.45]. Mô
hình tư duy triết học cổ đại nhất Kinh Dịch chỉ với triết lý âm-dương mà tạo được hệ
thống tín hiệu, biểu tượng phong phú trong việc nhận thức thế giới. Từ những hào,
quẻ trong hệ thống đều mang ý nghĩa biểu trưng nào đó. “Tư duy mỹ học cụ tượng
hình thành trong Chu Dịch đã tạo ra tư duy độc đáo Trung Hoa”, “là đặc điểm tư
duy phương Đông, trong đó có tư duy nghệ thuật”, “vì bản thân các phù hiệu tượng
trưng trên đã chứng tỏ năng lực tư duy đương thời có thể bao quát bản chất sự việc
vào một số tượng, một số phạm trù cụ thể” [4, tr.46].
Bên cạnh đó, kho tàng truyền thuyết vô cùng phong phú, bề dày lịch sử đã để
lại biết bao biểu tượng văn hóa đa dạng. Chính việc sử dụng hệ biểu tượng mà các tác
phẩm ở những mức độ khác nhau có thể truyền đạt nội dung tư tưởng một cách chân
thực nhất. Biểu tượng là thủ pháp đắc dụng, một mặt các nhà văn Trung Quốc tìm
đến biểu tượng như tìm về truyền thống cội nguồn, tính hàm súc, ít ý ngoài lời, gợi
nhiều hơn tả như các thể thơ Đường luật. Mặt khác, những câu chuyện đậm chất
huyền thoại, thực ảo đan xen là mảnh đất cho những liên tưởng thú vị cùng hình
tượng những giấc mơ, người - vật, hình tượng con đường,… đều để lại dư ba.
Văn học hậu hiện đại ngày nay có xu hướng tìm về truyền thống từ cách tân về
mặt thi pháp, sử dụng yếu tố kì ảo, những hệ biểu tượng phong phú nhằm xóa nhòa
đường biên lịch sử, đem những yếu tố mới lạ vào tác phẩm nhằm phản ánh thế giới.
Chúng tôi sẽ đề cập đến nguyên tắc trò chơi đa chiều nhìn từ góc độ biểu tượng trong
18
- Xem thêm -