1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ VĂN HIỆP
CHẾ TÀI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ
: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AM HIỂU
HÀ NỘI - NĂM 2007
MUC LUC
Trang phụ bìa
Trang
Lời cam đoan
2
Lời cảm ơn
3
MỤC LỤC
4
LờI NóI đầu
7
Chƣơng 1
11
những vấn đề chung về bồi
thƣờng thiệt hại DO VI PHạM HợP ĐồNG
1.
11
Khái niệm và bản chất
1.1. Khái niệm
11
1.2. Bản chất
12
2.
Căn cứ phát sinh bồi thƣờng thiệt hại
13
2.1. Hành vi vi phạm
13
2.2. Thiệt hại thực tế
15
2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực
16
tế
2.4. Yếu tố lỗi
3.
17
ý nghĩa của chế tài bồi thƣờng thiệt hại
20
3.1. Đối với bên vi phạm
20
3.2. Đối với bên bị vi phạm
21
3.3. Đối với xã hội
22
Chƣơng 2
thực trạng pháp LUậT về bồi
thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
4
22
1.
Nguyên tắc luật chung - luật riêng liên quan đến bồi
23
thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
2.
Các chế tài vi phạm hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại
25
3.
Căn cứ áp dụng chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm
30
hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại
4.
Trƣờng hợp miễn trách đối với hành vi vi phạm và nghĩa
35
vụ thông báo của bên vi phạm
5.
Nghĩa vụ chứng minh tổn thất và hạn chế tổn thất của bên
37
bị vi phạm
6.
Mối quan hệ giữa chế tài bồi thƣờng thiệt hại và chế tài
38
phạt vi phạm
7.
Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng, đình chỉ, huỷ bỏ hợp
39
đồng và quyền yêu cầu đòi bồi thƣờng thiệt hại
8.
Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
41
hoá quốc tế
8.1. Cơ sở pháp lý của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
41
mua bán hàng hóa quốc tế
8.2. Các loại thiệt hại cơ bản do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
43
hóa quốc tế
8.3. Điểm tương đồng và khác biệt giữa bồi thường thiệt hại do vi
43
phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại và bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chƣơng 3
50
một số bất cập và PHƢƠNG
HƢớng hoàn thiện pháp luật về Bồi
thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
1.
Một số bất cập của pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại do vi
5
50
phạm hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại
2.
Một số kiến nghị sửa đổi pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại
55
do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại
2.1. Hành vi vi phạm và yếu tố lỗi
56
2.2. Thiệt hại và cách tính thiệt hại
59
2.3. Hội nhập pháp luật quốc tế
60
Kết luận
64
Tài liệu tham khảo
65
6
LOI NOI DAU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn đầu của tiến trình đổi mới, Nhà nước đã ban hành
nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh, thay thế
cho các quy định pháp luật cũ, lạc hậu với sự ra đời của các văn bản pháp luật
điều chỉnh về lĩnh vực kinh tế, hợp đồng kinh tế, đặc biệt là bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng kinh tế. Là sản phẩm pháp luật đặc trưng của thời kỳ
bao cấp, cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế, pháp luật đã thay đổi tính
chất từ việc quy định hợp đồng kinh tế mang tính bắt buộc và tính kế hoạch,
nay chuyển sang hợp đồng kinh tế dựa trên sự thoả thuận ý chí, nhu cầu của
các bên và đòi hỏi của thị trường. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày
25/9/1989; Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/02/1990 quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, cùng các văn bản pháp luật khác là những minh
chứng quan trọng cho sự phát triển của pháp luật kinh tế.
Với sự phát triển của nền kinh tế, Bộ luật Dân sự 1995 ra đời cùng với
Luật Thương mại 1997 và các văn bản pháp luật liên quan đã góp phần tích
cực vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy
nhiên, cùng với thời gian các quy định của Bộ luật Dân sự 1995 và Luật
Thương mại 1997 đã trở nên lạc hậu do đó cần có sự sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với tình hình mới và Bộ luật Dân sự 2005; Luật Thương mại 2005 đã đáp
ứng các đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế. Bộ luật Dân sự 2005 và Luật
Thương mại 2005 cùng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại trở thành hành lang pháp lý cần thiết,
tạo đà cho sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
7
Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, các quan hệ kinh doanh liên
tục phát sinh và phát triển dẫn đến nhiều quy định pháp luật điều chỉnh về
lĩnh vực hợp đồng kinh doanh, thương mại, đặc biệt là các quy định pháp luật
liên quan đến bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương
mại đã trở lên lạc hậu do đó vấn đề sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
này trở thành một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần minh bạch hoá pháp luật
về kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển, tạo tiền đề để hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương
mại là một vấn đề quan trọng của pháp luật về kinh doanh nói chung và pháp
luật về hợp đồng kinh doanh, thương mại nói riêng, do vậy được nhiều nhà
khoa học và các học giả quan tâm nghiên cứu, được thể hiện trong nhiều cuốn
sách, các bài viết trên báo chí, tạp chí chuyên ngành luật như: “Một số vấn đề
liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp đồng” của TS. Nguyễn
Am Hiểu - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2004; “Hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng ở Việt Nam“ của TS. Dương Đăng Huệ - Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 6/2002; “Trách nhiệm dân sự và một số vấn đề về xác định thiệt
hại” của ThS. Trần Thị Huệ - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 1/2005;“Lỗi
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của TS. Phùng Trung
Tập - Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 10/2004..... Tuy nhiên, các nghiên
cứu từ trước tới nay liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng kinh doanh, thương mại chỉ tập trung về mặt lý luận, dừng lại ở việc nêu
vấn đề, tiếp cận ở một khía cạnh hẹp mà ít có góc nhìn tổng thể, khái quát
hoặc so sánh đối chiếu với các loại chế tài bồi thường thiệt hại khác. Mặt
khác, hạn chế đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại.
8
Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về vấn đề
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại trên cơ sở
lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về hợp đồng kinh doanh,
thương mại ở nước ta trong những năm qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung nhất về chế tài bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, thực tiễn thực hiện các quy định pháp
luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại,
đánh giá thực trạng thực hiện các quy định pháp luật, nêu ra những tồn tại, bất
cập của các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
kinh doanh, thương mại những năm qua, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật tương ứng về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung nhất về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, các quy định pháp luật về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại cũng như thực tiễn
thực hiện các quy định này trong những năm qua, so sánh đối chiếu với các
quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại khác.
5. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác xít, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách pháp luật, chính
sách kinh tế.
- Cơ sở thực tiễn: Thực tế công tác thực hiện các quy định pháp luật về
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại những năm
9
qua, bối cảnh nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hội
nhập kinh tế quốc tế.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử, thống kê, tổng
hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, logic, quan sát....
7. Điểm mới của đề tài
- Nghiên cứu vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nói
chung và hợp đồng kinh doanh, thương mại nói riêng một cách toàn diện và
có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật kinh doanh, hợp đồng kinh doanh, thương mại, bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại thời gian qua.
- So sánh một số điểm tương đồng và khác biệt giữa bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại của Việt Nam với bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại Nhật Bản, bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại, cụ thể là
cần sửa đổi và bổ sung các điều, khoản tương ứng trong các văn bản pháp luật
liên quan.
8. Cơ cấu luận văn
Luận văn này bao gồm lời nói đầu, ba chương và phần kết luận.
* Lời nói đầu: Phần này trình bày tính cấp thiết của đề tài, mục đích và
nhiệm vụ của luận văn, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, cơ sở khoa học của
đề tài, phương pháp nghiên cứu, điểm mới của đề tài.
* Chương 1: Những vấn đề chung về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng.
10
* Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng.
* Chương 3: Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
* Kết luận: Khái quát những vấn đề đã nghiên cứu trong luận văn.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm và bản chất
1.1. Khái niệm
Bồi thường thiệt hại là một chế tài dân sự được áp dụng nhằm bù đắp
những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm đã gây ra cho bên bị vi phạm. Cùng
với chế tài bồi thường thiệt hại thì chế tài phạt vi phạm hợp đồng cũng là một
chế tài được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Tuy nhiên, việc
áp dụng hai chế tài này có ý nghĩa khác nhau, nếu như chế tài phạt hợp đồng
với chức năng chủ yếu là trừng phạt, giáo dục và phòng ngừa thì chế tài bồi
thường thiệt hại lại có chức năng là bồi hoàn, bù đắp và khôi phục những lợi
ích vật chất cho bên bị thiệt hại.
Tiền bồi thường thiệt hại là khoản tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên
bị vi phạm do hậu quả trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng gây ra (chỉ kể
những hậu quả trực tiếp do vi phạm hợp đồng này dẫn đến sự vi phạm hợp
đồng với người khác).
Thực tiễn cho thấy, khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá
trình thực hiện hợp đồng và xử lý vi phạm hợp đồng, Toà án và các bên tranh
chấp đã áp dụng các hình thức trách nhiệm vật chất nói trên tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể.
11
Khi so sánh chế tài bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với chế tài bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, có thể thấy rằng chế tài bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng bên cạnh những điểm tương đồng thì cũng có những
điểm khác biệt cơ bản đó chính là pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng không có quy định về phạt vi phạm hợp đồng, bởi lẽ sự vi phạm trong
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phát sinh trên cơ sở hợp đồng.
1.2. Bản chất
Xét về bản chất, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được hiểu là
một loại trách nhiệm dân sự mà hậu quả pháp lý của nó về mặt tài sản được
xác định dựa trên thiệt hại thực tế đã xảy ra và phát sinh khi có hành vi vi
phạm hợp đồng. Theo đó, thì bên vi phạm hợp đồng buộc phải bồi thường cho
bên bị vi phạm những thiệt hại thực tế xảy ra. Trong khi đó, bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng lại là hình thức trách nhiệm dân sự buộc người có lỗi xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác phải bồi thường và cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là những quy định của pháp luật (quy định những hậu quả
pháp lý ngoài mong muốn của chủ thể) không có sự thoả thuận trước của các
bên và được phát sinh trên cơ sở hành vi bất hợp pháp. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ bốn điều kiện1.
Khoa học luật dân sự phân biệt hai loại trách nhiệm dân sự đó là trách
nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự do gây ra thiệt hại2.
Theo đó, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ được hiểu là một bên không
1
Xem: Toà án nhân dân Tối cao, các văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn
thi hành pháp luật, Hà Nội 2005, tr. 186.
2
ThS. Trần Thị Huệ ”Trách nhiệm dân sự và một số vấn đề về xác định thiệt hại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 1/2005, tr. 2.
12
thực hiện được hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những cam kết
trong nội dung của nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự với bên có
quyền. Tuy nhiên, nếu sự vi phạm chưa gây ra thiệt hại thì bên vi phạm phải
có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ, nếu sự vi phạm đã gây ra thiệt hại
cho bên mang quyền thì bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Trong khi đó, trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại chỉ được
áp dụng chừng nào hành vi vi phạm đó đã gây ra trên thực tế một thiệt hại
nhất định.
Chính vì vậy, để bên bị vi phạm có thể được bồi thường thiệt hại thì
phải thoả mãn 4 căn cứ làm phát sinh việc bồi thường thiệt hại.
2. Căn cứ phát sinh bồi thƣờng thiệt hại
Trách nhiệm pháp lý nào cũng vậy, từ trách nhiệm hình sự, dân sự,
hành chính, lao động….đều luôn được dựa trên những căn cứ pháp lý nhất
định. Đó chính là những cơ sở, những yếu tố để xác định trách nhiệm bồi
thường cũng như xác định chủ thể và mức bồi thường. Việc bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng chỉ được xem xét, áp dụng khi có những căn cứ nhất
định phát sinh, đó là phải có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế
xảy ra; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế; Có
lỗi của bên vi phạm.
2.1. Hành vi vi phạm
Hành vi là một yếu tố gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con
người và hành vi chính là phương thức để con người duy trì đời sống của
mình trong sự tương tác hữu cơ với thế giới tự nhiên và xã hội. Khi con người
trở thành đối tượng của khoa học thì hành vi là một nội dung cơ bản và được
nhiều bộ môn khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tại Việt
13
Nam hiện nay, khi bàn đến khái niệm hành vi cũng có nhiều ý kiến khác
nhau, mỗi ý kiến được tiếp cận ở một góc độ nhất định.
Dưới góc độ ngôn ngữ, hành vi tiếng Anh (Behaviour) được hiểu là
“Cách thức mà con người xử sự trong những tình huống cụ thể”3. Theo tiếng
Pháp, hành vi (Conduite) là “Việc một người làm và bằng cách đó thực hiện
một ý định của mình”4. Theo từ điển tiếng Việt, “Hành vi là cách ứng xử
được biểu hiện bằng cử chỉ, hành động cụ thể”5. Hoặc hành vi là một bộ phận
của hoạt động và luôn được điều khiển bởi ý thức “Hành vi là những biểu
hiện chỉ bộc lộ ra bên ngoài của hoạt động và bao giờ cũng gắn liền với động
cơ, mục đích”6. Hoặc “Hành vi là những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra
ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ thể, nhất định”7.
Dù được hiểu ở góc độ này hay góc độ khác thì hành vi có phương thức
biểu hiện thực tế là hành động và không hành động, đây chính là yếu tố thể
hiện phương thức sống (hay tồn tại) của hành vi trên thực tế. Hành động là
dạng thức hành vi thể hiện thái độ chủ động của chủ thể trong việc bộc lộ
những thao tác ra bên ngoài thế giới khách quan. Không hành động là dạng
thức hành vi thể hiện thái độ chủ động của chủ thể trước một yêu cầu nào đó
và đã không bộc lộ những thao tác cụ thể ra ngoài thế giới khách quan nhưng
gắn với một kết quả thực tế8.
3
Oxford University (2006); Oxford Advance Learner’s Dictionary, Oxford University Press, Oxford.
4
(1996) Le Nouveau Petit Robet, Société Dictionaires Le Robet, Paris.
5
Nguyễn Như Ý (Chủ biên -1994) Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, H, tr. 456.
6
Phạm Minh Hạc, tuyển tập tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2005, tr. 141 - 148.
7
Viện ngôn ngữ học (2003) Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 423.
8
TS. Lê Vương Long “Một số vấn đề lý luận về hành vi và hành vi pháp luật” Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 221/2006, tr. 23.
14
Tuy còn nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về hành vi nhưng có
thể nhận thấy rằng hành vi vi phạm hợp đồng hiểu theo nghĩa chung nhất là
hành vi của một bên đã xử sự trái với những quy định của pháp luật hoặc trái
với nội dung đã cam kết, đó chính là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ đã thoả thuận, cam kết trong hợp
đồng.
ở góc độ hành vi vi phạm được xem xét là cơ sở để bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng thì đây lại là hành vi trái pháp luật bởi theo quy định chung
mọi công dân, tổ chức có quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản,
danh dự. Chính vì vậy, người nào có hành vi xâm phạm đến các quyền này
đều bị coi là hành vi trái pháp luật cho dù họ có lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
2.2. Thiệt hại thực tế
Khi xác định trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ thì yếu tố đầu
tiên phải được xem xét đó là hành vi vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, khi xác
định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại thì yếu tố đầu tiên cần phải xem xét
là có thiệt hại xảy ra hay không, vì trách nhiệm này chỉ được áp dụng khi
hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra trong thực tế một thiệt hại nhất định. Nếu
không có thiệt hại thì không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều
này cho thấy, mặc dù có hành vi vi phạm pháp luật thì cũng chưa đủ cơ sở để
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Dưới góc độ ngôn ngữ, thiệt hại thực tế tiếng Anh (Substantial
damage), hiểu theo nghĩa chung nhất là những thiệt hại về vật chất có thể tính
toán, định hình định lượng được chứ không phải là thiệt hại chung chung.
Chính vì vậy, thiệt hại thực tế là điều kiện tiền đề của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, bởi lẽ mục đích của trách nhiệm bồi thường là khôi phục lại tình
trạng trước khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm thường gắn liền với bồi
thường (bằng tài sản hoặc bằng tiền) cho những thiệt hại xảy ra. Thiệt hại
15
phải là sự giảm sút, mất mát lợi ích vật chất thực tế hoặc những chi phí hợp lý
để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Thiệt hại phải là khách quan
không được suy diễn, chủ quan.
Do đó, bên vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường cho bên bị vi phạm
nếu hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm đã gây ra thiệt hại thực tế và
chỉ phải bồi thường phần thiệt hại thực tế đó. Tuy nhiên, để có cơ sở cho việc
bồi thường thiệt hại thì bên bị thiệt hại nhất thiết phải xuất trình được các
chứng cứ để chứng minh thiệt hại của mình do bên vi phạm gây ra - đây chính
là chứng cứ pháp lý quan trọng để bên gây ra thiệt hại xem xét nếu việc bồi
thường thiệt hại được giải quyết thông qua con đường đàm phán, thương
lượng.
Nếu như việc bồi thường thiệt hại được giải quyết thông qua con đường
Toà án thì bên yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Toà án chỉ tiến
hành xác minh, thu thập chứng cứ trong một số trường hợp nhất định nhằm
mục đích nhận định khách quan, chính xác thiệt hại nhằm ra phán quyết đúng
pháp luật, bắt buộc bên vi phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
bên bị vi phạm.
Vấn đề xác định thiệt hại thực tế có vai trò quan trọng bởi đó là cơ sở
để ấn định mức bồi thường cũng như hình thức bồi thường cho cả hai trường
hợp là bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Xác định thiệt hại thực chất là việc tính toán, ước lượng những tổn
thất về vật chất đã xảy ra và trên cơ sở đó ấn định mức bồi thường.
Cơ sở của việc xác định thiệt hại là những thiệt hại đã xảy ra trên thực
tế và cách xác định những thiệt hại đó. Trong hai cơ sở trên thì quy tắc xác
định hay còn gọi là cách xác định thiệt hại là phạm trù chủ quan được quy
định thành luật, dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định, còn thiệt
16
hại xảy ra là cái tồn tại khách quan. Chính vì vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền
lợi của người bị thiệt hại thì các quy tắc xác định cần phải tiến gần đến việc
tính toán được một cách toàn bộ những thiệt hại xảy ra. Do đó, trong quá trình
xác định thiệt hại cần phải xem xét các thiệt hại xảy ra một cách khách quan
tránh tình trạng xác định cao hơn so với thiệt hại thực tế, gây thiệt thòi cho
bên phải bồi thường hoặc ngược lại không bảo vệ được quyền, lợi ích chính
đáng của bên được bồi thường thiệt hại.
2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế
Mối liên hệ nhân quả là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì
mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan vốn có của bản thân sự vật.
Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận
thức ra nó hay không9.
Tuy nhiên, ở góc độ hẹp, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
và thiệt hại thực tế được hiểu là mối quan hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng
và thiệt hại xảy ra, đây là mối quan hệ tất yếu, nội tại. Thiệt hại phát sinh là
do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của sự vi phạm, không có hành vi vi phạm
thì không làm phát sinh thiệt hại. Do vậy, xét về mặt thời gian thì hành vi vi
phạm phải xảy ra trước thiệt hại thực tế và trong một khoảng thời gian nhất
định.
Trường hợp có hành vi vi phạm của một bên mà bên kia bị thiệt hại
nhưng thiệt hại này không phải do hành vi của bên vi phạm gây ra thì ở đây
không có mối quan hệ nhân quả, và đương nhiên bên vi phạm không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với phần thiệt hại đó.
9
Tập bài giảng Triết học Mác - Lênin, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia,
tr. 280.
17
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Trên thực tế, muốn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với
bên vi phạm, bên bị vi phạm phải chứng minh được có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm với thiệt hại thực tế đã xảy ra
dẫn đến việc bên bị vi phạm phải gánh chịu những thiệt hại nhất định.
2.4. Yếu tố lỗi
Dưới góc độ ngôn ngữ, lỗi tiếng Anh (mistake, fault, error) được hiểu
là “Điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động;
khuyết điểm”10 cũng có quan điểm cho rằng lỗi là trạng thái tâm lý của con
người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành
vi đó11 hoặc lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi của họ12.
Mặc dù vẫn còn có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về yếu tố
lỗi nhưng nhìn chung các học giả đều thừa nhận lỗi được biểu hiện dưới hai
hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Các học giả còn phân biệt mức độ lỗi trong hình
thức lỗi vô ý gồm lỗi vô ý nặng và lỗi vô ý nhẹ13. Trong đó, lỗi cố ý là người
có hành vi gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình là gây ra thiệt hại, thấy
trước thiệt hại của hành vi đó và mong muốn thiệt hại xảy ra hoặc tuy không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho thiệt hại xảy ra14. Lỗi vô ý gây
thiệt hại là trường hợp người gây thiệt hại thấy hành vi của mình có thể gây ra
thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
10
Từ điển Tiếng việt , Nxb Đà Nẵng 2006, tr, 581.
11
Ban biên tập Toà án nhân dân Tối cao “Về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại
có lỗi” Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 4/2006, tr. 13.
12
Đinh Văn Qúê - Chánh toà hình sự Toà án nhân dân Tối cao “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người” Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 10/2004, tr. 14.
13
TS. Phùng Trung Tập, Trường Đại học Luật Hà Nội “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” Tạp chí Toà án nhân dân Tối cao số 10/2004, tr. 2.
14
Đinh Văn Qúê - Bài đã dẫn, tr. 14.
18
được, hoặc người gây ra thiệt hại tuy không thấy hành vi của mình có thể gây
ra thiệt hại, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước thiệt hại đó15.
Cho dù lỗi được hiểu ở góc độ này hay góc độ khác thì yếu tố lỗi là một
trong những căn cứ quan trọng để áp dụng trách nhiệm pháp lý trong mọi
trường hợp. Lỗi để áp dụng trách nhiệm vật chất khi có hành vi vi phạm hợp
đồng là lỗi suy đoán, nghĩa là khi một bên không chấp hành hoặc chấp hành
không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết tại hợp đồng trong khi có điều kiện để thực
hiện, thì đương nhiên bị coi là có lỗi. Như vậy, phía bên bị thiệt hại không cần
phải chứng minh lỗi mà chỉ cần chứng minh là bên vi phạm đã không chấp
hành hoặc chấp hành không đầy đủ hợp đồng (tức là đã có hành vi vi phạm
xảy ra).
Trong khi đó thì yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được pháp luật quy định cả về cơ sở xác định lỗi và hình
thức lỗi, cụ thể khoản 1 Điều 308 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Người
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu
trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Từ những cơ sở pháp lý trên có thể
nhận định lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
không phải là do suy đoán mà do pháp luật quy định trước16. Tuy nhiên, đối
với trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - một
dạng của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì bên vi phạm phải bồi thường
ngay cả khi không có lỗi17.
Khi có đầy đủ các căn cứ nêu trên, bên vi phạm sẽ phải chịu trách
nhiệm vật chất trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên,
15
Đinh Văn Qúê - Bài đã dẫn, tr. 14.
16
TS. Phùng Trung Tập, Trường Đại học Luật Hà Nội - Bài đã dẫn, tr. 5.
17
Xem: Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005 - Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
19
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
trường hợp các bên ký hợp đồng chưa cần có thiệt hại thực tế xảy ra, thì bên
vi phạm đã phải gánh chịu trách nhiệm dưới hình thức phạt hợp đồng. Như
vậy, không phải bất cứ hình thức trách nhiệm tài sản nào cũng cần có đủ 4
điều kiện nêu trên.
Mặt khác, khi nói đến yếu tố lỗi làm căn cứ để bồi thường thiệt hại,
không thể không đề cập đến trường hợp bên bị thiệt hại cũng có lỗi, đây chính
là trường hợp lỗi hỗn hợp, trong trường hợp này cần áp dụng các quy định về
lỗi tại Điều 617 của Bộ luật Dân sự 2005 để xác định, cụ thể: “Khi người bị
thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì người gây ra thiệt hại chỉ
phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt
hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại
không phải bồi thường”. Chính vì vậy, mức độ lỗi chính là cơ sở quan trọng
để xác định mức độ bồi thường và các trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn
do lỗi của bên bị thiệt hại thì bên bị thiệt hại đương nhiên sẽ không được bồi
thường.
Lỗi của bên bị thiệt hại có thể là lỗi do vô ý hoặc lỗi do cố ý nhưng
phải xác định được lỗi đó hoàn toàn thuộc về bên bị thiệt hại, theo đó bên gây
thiệt hại phải là bên hoàn toàn không có lỗi thuộc hình thức này hay hình thức
khác, ở mức độ này hay mức độ khác thì bên gây thiệt hại mới không phải bồi
thường. Bên gây thiệt hại phải chứng minh được là mình hoàn toàn không có
lỗi và lỗi hoàn toàn thuộc về phía bên bị thiệt hại.
Trong một số trường hợp, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách toàn
bộ trách nhiệm tài sản, đó là các trường hợp do luật định như:
- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận.
- Xảy ra sự kiện bất khả kháng.
- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia.
20
- Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào
thời điểm giao kết hợp đồng.
3. ý nghĩa của chế tài bồi thƣờng thiệt hại
3.1. Đối với bên vi phạm
Đối với bên gây ra thiệt hại thì chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng cũng như bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được coi là một biện
pháp tác động theo hướng bất lợi đối với lợi ích kinh tế và uy tín của họ.
Chính vì vậy, hiệu quả của biện pháp này là ở chỗ nó vừa có tác dụng răn đe,
vừa làm thiệt hại đến khả năng kinh tế của bên gây ra thiệt hại, qua đó nâng
cao tinh thần trách nhiệm, cách ứng xử của các bên khi tham gia các quan hệ
pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật về hợp đồng nói riêng.
Mặc dù ý nghĩa của nó là như vậy, nhưng trên thực tế để thực hiện tốt
được mục tiêu này, đòi hỏi của thực tiễn đặt ra là bên gây ra thiệt hại cần có
trách nhiệm, thiện chí và ý thức bồi thường thiệt hại một cách kịp thời, thoả
đáng, có như vậy thì việc thương lượng, đàm phán giữa các bên mới có thể
diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và vì vậy chế định bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mới phát huy được ý
nghĩa đích thực của nó trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia vào các quan hệ dân sự, quan hệ thương mại.
3.2. Đối với bên bị vi phạm
Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng góp phần đảm bảo
cho mọi thoả thuận, cam kết phải được thực hiện cũng như khôi phục lại tình
trạng ban đầu của một quyền dân sự bị xâm phạm đồng thời bù đắp những tổn
thất vật chất mà bên bị vi phạm đã phải gánh chịu do hành vi gây thiệt hại của
bên vi phạm gây ra, qua đó tạo điều kiện để bên bị vi phạm ổn định hoạt động
21
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
sản xuất, kinh doanh. Bởi trên thực tế, nhiều doanh nghiệp bị thiệt hại đã rơi
vào tình trạng làm ăn rất khó khăn, thậm trí đứng bên bờ vực phá sản, mà
hoàn cảnh này là do chính hành vi vi phạm của bên vi phạm gây ra, hành vi vi
phạm dẫn tới việc hoạt động kinh doanh bị đình trệ, doanh nghiệp thiếu vốn
để duy trì hoạt động bình thường của mình cũng như thiếu đi nguồn vốn đầu
tư vào việc mở rộng sản xuất, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thương trường.
Tuy nhiên thì chế tài bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là
các quy tắc nhằm khôi phục thiệt hại bởi thiệt hại đã xảy ra thì không còn cơ
hội để khắc phục, bù đắp được nữa18. Chính vì vậy, chế tài bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nhằm mục đích chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể bị xâm phạm, phân bổ lại thiệt hại trong xã hội giữa các chủ thể
liên quan cũng như thể hiện chức năng ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp
luật trong tương lai.
3.3. Đối với xã hội
Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn, nếu như việc bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giải quyết
một cách thoả đáng và triệt để thì có thể xem đây là một trong những biện
pháp hữu hiệu đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, sự công bằng xã hội,
thể hiện mọi cam kết trong hợp đồng phải được thực hiện, ổn định trật tự
trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia quan hệ hợp đồng và các quan hệ dân sự nói chung.
Tóm lại, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng, các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng, so sánh giữa bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
18
Nguyễn Văn Cương, Chu Thị Hoa - Viện khoa học Pháp lý Bộ Tư pháp “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 4/2005, tr. 61.
22
- Xem thêm -