1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam
vẫn là một nước nông nghiệp. Năm 2009, giá trị sản lượng của nông nghiệp đạt
71,473 nghìn tỷ đồng (giá so sánh với năm 1994), tăng 1,32% so với năm 2008 và
chiếm 13,85% tổng sản phẩm trong nước. Tỷ trọng của nông nghiệp trong nền kinh
tế bị sụt giảm trong những năm gần đây, trong khi các các lĩnh vực kinh tế khác gia
tăng. Đóng góp của nông nghiệp vào tạo việc làm còn lớn hơn cả đóng góp của
ngành này vào GDP. Trong năm 2005, có khoảng 60% lao động làm việc trong lĩnh
vực nông, lâm nghiệp, và thuỷ sản. Sản lượng nông nghiệp xuất khẩu chiếm khoảng
30% trong năm 2005. Việc tự do hóa sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa
gạo, đã giúp Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Những nông
sản quan trọng khác là cà phê, sợi bông, đậu phộng, cao su, đường, và trà. Góp vào
những thành tựu đạt được về ngành nông nghiệp trong những năm qua thì không thể
phủ nhận vai trò hoạt động tín dụng của Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tiêu biểu là vào ngày 10 tháng 7 năm 2010
vừa qua báo tuổi trẻ có đăng bài về việc đẩy mạnh cho vay nông nghiệp. Tại hội
nghị tổng kết việc thực hiện chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn ngày 9-7 ở TP.HCM, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu
cho biết để khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh cho vay nông thôn, tới đây Ngân
hàng Nhà nước sẽ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc cho những ngân hàng đẩy mạnh cho
vay nông nghiệp. Theo các ngân hàng, để phát triển tín dụng nông thôn ngoài chính
sách cần có cơ chế mở, đơn giản và công khai thủ tục, đồng thời phải có đội ngũ
hướng dẫn cặn kẽ để nông dân sử dụng vốn hiệu quả. Qua bài báo cho thấy Ngân
hàng nhà nước rất chú trọng đến ngành nông nghiệp nước nhà. Vì thế em chọn đề
tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân tại Ngân
hàng Agribank chi nhánh huyện Nhơn Trạch” để thấy rõ hơn về chất lượng tín
dụng hỗ trợ vốn cho hộ nông dân tại địa phương. Mặc dù đây không phải là một đề
tài mới nhưng với đề tài của em sẽ đi vào thực tế thực trạng nông nghiệp tại địa
2
phương, quy trình nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ lãi suất sản xuất nông nghiệp và một số
đề xuất giải pháp cho vấn đề này.
2. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu:
Từ khi ra đời tới nay NHNo&PTNT có chính sách cho vay đối với rất nhiều
đối tượng như: doanh nghiệp, nhà đầu tư, cho vay đầu tư bất động sản,…và cũng có
nhiều đề tài nghiên cứu khoa học để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng.
Theo như được biết thì có rất nhiều đề tài nghiên cứu về Tín dụng Doanh nghiệp
nhưng có ít đề tài nghiên cứu về tín dụng đối với hộ nông dân, có thể phạm vi đề tài
này hơi hẹp và ít được quan tâm. Nhưng khi biết được tình hình thực trạng nông
dân huyện Nhơn Trạch đang phát triển ngành nghề về nông nghiệp, đa số những hộ
nông dân sống bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt, một số xã thì phát triển ngành đánh
bắt thủy sản,… để có thể phát triển tốt hơn nữa nghành nghề về nông nghiệp thì
nông dân cần phải có nguồn vốn từ ngân hàng, và trong những năm qua,
NHNo&PTNT đã và đang là bạn đồng hành cùng nông dân vượt khó và vươn lên
làm giàu từ nguồn vốn nói trên. Đề tài em đưa ra đây chỉ nói lên một khía cạnh nào
đó về giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho hộ nông dân tại Ngân
hàng Agribank Chi nhánh huyện Nhơn Trạch.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
- Nâng cao chất lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân tại NHNo&PTNT chi
nhánh huyện Nhơn Trạch. Trên cơ sở nghiên cứu nhằm đề ra giải pháp nâng cao
hiệu quả tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân.
- Đưa ra kết luận về giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho nông
dân tại NHNo&PTNT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
• Đối tượng nghiên cứu: những hộ nông dân làm nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi,… vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Nhơn Trạch.
• Phạm vi nghiên cứu:
-Thời gian nghiên cứu: năm 2009, năm 2010.
-Không gian nghiên cứu: NHNo&PTNT chi nhánh huyện Nhơn Trạch.
3
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thu thập và xử lý số liệu.
6. Đóng góp mới đề tài:
Đề tài em nghiên cứu sẽ đưa ra những giải pháp mới nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân Việt Nam nói chung và nông dân huyện
Nhơn Trạch nói riêng, giúp cho thương hiệu Agribank có ưu tính và chất lượng hơn.
Đưa đến người nông dân sự tin tưởng ở ngân hàng, giúp nông dân có vốn để đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển thêm ngành nghề nông nghiệp, và xây dựng
nông thôn mới đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
7. Nội dung nghiên cứu: gồm có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân hàng
Thương Mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân tại ngân hàng
Agribank chi nhánh huyện Nhơn Trạch.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hỗ trợ vốn cho nông dân
tại ngân hàng Agribank chi nhánh huyện Nhơn Trạch.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG
VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Lý luận hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương Mại:
1.1.1 Khái niệm và phân loại tín dụng:
1.1.1.1 Khái niệm về tín dụng và hoạt động tín dụng của tổ chức
tín dụng:
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau;
ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín
dụng có một nội dung riêng.
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ
người cho vay sang người đi vay. [3]
- Xét tín dụng như một chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng được hiểu
là:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (DN, cá nhân và các chủ
thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. [3]
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “Tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Tín
dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức
hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả với một
lượng giá trị lớn hơn. [15]
Theo khoản 8 và khoản 10, điều 20, Luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín
dụng được định nghĩa là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn
huy động để thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả
bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ khác. [15]
5
1.1.1.2 Phân loại tín dụng theo thời gian (thời hạn tín dụng). [4]:
Dựa vào thời hạn tín dụng, tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của
loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Mục
đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
1.1.1.3 Phân loại tín dụng theo tài sản bảo đảm:
Tài sản bảo đảm là một hình thức đảm bảo cho ngân hàng có thể thu được
nợ, theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên
thứ ba.
Tài sản bảo đảm là hình thức để ngân hàng có thể chắc chắn thu được nợ, là
nguồn trả nợ thứ hai của người vay, trong trường hợp nguồn thứ nhất (nguồn từ kết
quả sản xuất kinh doanh) vì nguyên do nào đó mà không có để trả hoặc trả không
đủ vốn (cả gốc và lãi) cho ngân hàng.
Tài sản bảo đảm thường áp dụng khi cho vay với những khách hàng có uy tín
không cao đối với ngân hàng, khả năng gặp rủi ro lớn hay những khách hàng mới
giao dịch lần đầu, nhưng hiện nay các ngân hàng thường đều áp dụng các biện pháp
bảo đảm bằng tài sản để hạn chế rủi ro mất vốn trong hoạt động kinh doanh của
mình.
Tín dụng không có tài sản bảo đảm có thể được dùng khi cho vay với những
khách hàng có uy tín cao, thường xuyên giao dịch với ngân hàng, làm ăn có lãi, tình
hình tài chính lành mạnh, hoặc trường hợp món vay là nhỏ so với vốn của khách
hàng.
Tín dụng không có tài sản bảo đảm là việc ngân hàng cho khách hàng của
mình vay mà không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, vì thế
mà ngân hàng cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng.
6
Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng
vay vốn để quyết định cho vay. [4]
Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền
vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác. [4]
1.1.1.4 Phân loại tín dụng theo rủi ro. [9]:
Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ như sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín
dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; các
khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều này.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại; các
khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4
Điều này.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3
và Khoản 4 Điều này.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại
Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày; các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; các khoản nợ đã cơ cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; các khoản nợ
khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.
7
Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu
lại tối thiểu trong vòng một (01) năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba (03)
tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ
chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1.
Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với tổ chức tín
dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín
dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm
nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng
có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức
tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro
cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ quy định tại Khoản 1 Điều này
như sau:
-
Nhóm 1: 0%
-
Nhóm 2: 5%
-
Nhóm 3: 20%
-
Nhóm 4: 50%
-
Nhóm 5: 100%.
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập
dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
1.1.2 Vai trò hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương Mại: Hoạt động
tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân hàng nói riêng và nền kinh tế
thị trường nói chung.
1.1.2.1 Đối với Ngân hàng:
Trong các hoạt động cấp tín dụng thì cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất [4].Vì hoạt động cho vay sẽ tạo nguồn thu cho ngân hàng và
8
sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn đang nhàn rỗi. Tạo mối quan hệ đối với
những khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân. Khi họ cần nguồn vốn để kinh
doanh thì ngân hàng sẽ cho vay. Và điều ngược lại, khi việc kinh doanh của họ
thuận lợi tạo nguồn thu nhập cao thì họ sẽ có niềm tin ở ngân hàng, vì thế việc ngân
hàng huy động vốn ở họ là rất cao. Do vậy hoạt động tín dụng nắm vai trò rất quan
trọng.
1.1.2.2 Đối với nền kinh tế:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, vì nó đáp ứng được nhu cầu vốn để
quá trình sản xuất được đảm bảo thực hiện tốt quá trình tái sản xuất một cách liên
tục và mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư,
phát triển sản xuất kinh doanh, ….
Ngoài ra thông qua nguồn vốn tín dụng cho các chương trình và dự án phát
triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ thống ngân hàng đã góp phần tạo thêm được
nhiều việc làm mới, nhất là tại các vùng nông thôn. Việc sử dụng nguồn vốn ngân
hàng cho mục đích này ngày càng có tính chuyên nghiệp, minh bạch hiệu quả.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ hạn chế được tình trạng xấu trong xã
hội như: cho vay nặng lãi, tín dụng “chợ đen”,… giúp cho khách hàng tiếp cận được
nguồn vốn với mức lãi xuất phù hợp với nền kinh tế thị trường.
1.1.2.3 Đối với Doanh Nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, một Doanh nghiệp muốn tồn tại
và phát triển thì cần phải nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng. Muốn thực
hiện được điều đó thì DN phải nâng cao chất lượng sản phẩm, mạnh dạng đi đầu
trong hoạt động đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Để làm được điều này thì DN cần một lượng vốn rất lớn, vì thế hoạt động tín
dụng của ngân hàng sẽ giúp cho DN bổ sung vốn lưu động cải tiến máy móc, mua
sắm trang thiết bị, mở rộng nhà xưởng, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện
mở rộng quy mô sản xuất, chiếm lĩnh thị trường mới. Đồng thời giúp cho hoạt động
9
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục không gián đoạn vì luôn có
nguồn vốn để đầu tư.
Khi DN vay vốn của ngân hàng thì cần phải thực hiện trả lãi và vốn gốc đúng
thời hạn như hợp đồng đã ký dù cho DN có lãi hay lỗ. Trước khi cho vay thì ngân
hàng sẽ có một phương án vay vốn kèm trong hợp đồng do DN cung cấp, phương
án này phải có hiệu quả thì ngân hàng mới tiến hành cho vay, điều này cho thấy
ngân hàng sẽ thường xuyên giám sát quá trình hoạt động của DN, giúp cho DN sẽ
hoạt động tốt hơn.
1.1.3 Quy định trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương Mại:
1.1.3.1 Nguyên tắc cho vay. [4]:
Việc vay vốn ngắn hạn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để
ngân hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Cho vay liên quan
đến việc sử dụng vốn huy động của khách hàng nên phải tuân thủ theo những
nguyên tắc nhất định. Nói chung, khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo
hai nguyên tắc:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng:
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên ngân hàng và khách hàng
thỏa thuận và ghi vào trong hợp đồng tín dụng, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục
đích thỏa thuận nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ
vay sau này.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng:
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt
động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà
ngân hàng sử dụng để cho vay. Do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất
định, khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại
cho khách hàng.
10
1.1.3.2 Điều kiện vay vốn. [4]:
Theo quy chế cho vay khách hàng khách hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành,
các điều kiện vay vốn khách hàng cần có bao gồm:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật.
- Có mục đích vay vốn hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ,
và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.1.3.3 Đối tượng cho vay:
Là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác Việt Nam và nước ngoài có
nhu cầu vay vốn, có khả năng trả nợ để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản
xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống ở trong
nước và nước ngoài.
NHTM chỉ cho vay đáp ứng những nhu cầu vay vốn hợp pháp theo quy định
của pháp luật. Ở nước khác nhau có quy định đối tượng cho vay khác nhau. Ở Việt
Nam theo luật các tổ chức tín dụng, luật ngân hàng Nhà nước và các văn bản hiện
hàng quy định tổ chức tín dụng không được cho vay những nhu cầu vay vốn để thực
hiện các nội dung sau:
-
Mua sắm các tài sản và chi phí hình thành lên tài sản mà pháp luật cấm
mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi.
-
Thanh toán các khoản chi phí để thực hiện các giao dịch mà pháp luật
cấm.
-
Đáp ứng các nhu cầu tài chính để giao dịch mà pháp luật cấm. [1]
11
1.1.3.4 Quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động tín
dụng.[5]:
Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của tổ chức tín
dụng ( Ban hành kèm theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4
năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước), Điều 1:
Tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là tổ chức tín
dụng), trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, phải duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn sau
đây: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng đối với khách hàng, tỷ lệ về khả
năng chi trả, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung
hạn và dài hạn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần.
Các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Khoản 1 điều này không bao gồm các
tỷ lệ bảo đảm an toàn của các tổ chức tín dụng trực thuộc.
Căn cứ kết quả thanh tra, kiểm tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước về
tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu tổ
chức tín dụng duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn cao hơn các mức quy định tại Điều 4
và Điều 8 Quy định này.
1.1.3.5 Hợp đồng. [4]:
Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành
hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về: điều kiện vay, mục đích
sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình
thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác
được các bên thỏa thuận. Ngoài ra hợp đồng tín dụng cũng cần nêu rõ quyền và
nghĩa vụ của hai bên: Khách hàng và Ngân hàng.
Hợp đồng tín dụng xem phụ lục 1
1.1.3.6 Quy trình Xét duyệt cho vay[14]:
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Nhìn
chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:
-
Năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng
12
-
Khả năng sử dụng vốn vay
-
Khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay và lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lai của khách hàng trong
việc sử dụng vốn vay và hoàn trả nợ vay.
Mục tiêu:
-
Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự
đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm
thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
-
Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách
hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ
sở cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với
một hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản:
-
Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
-
Từ chối cho vay với một khách hàng tôt.
Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm
thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức tín
dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa
hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách
hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi,
tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách
13
hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để đảm bảo
khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Để hiểu rõ hơn về quy trình xét duyệt cho vay của NHTM, có thể tham khảo
thêm ở phụ lục 2.
1.1.3.7 Chính sách tín dụng hỗ trợ dành riêng cho hộ nông dân:
Trong những trường hợp cho vay theo chỉ định của Chính phủ, nếu có phát
sinh những rủi ro về lãi suất, về khả năng thu hồi nợ gốc, sẽ được Chính phủ xem
xét xử lý theo những quy định phù hợp.
Chính sách tín dụng hỗ trợ cho hộ nông dân, tiêu biểu là Quyết định về việc
hỗ trợ lãi suất cho vay ở khu vực nông thôn, Quyết định sửa đổi, bổ sung một số
điều của quyết định số 497/QĐ-TTG ngày 17 tháng 4 năm 2009 của Thủ Tướng
Chính Phủ về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản
xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn. Và nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010, nghị định về chính sách tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp và nông thôn.
1.2 Lý luận về chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương Mại:
1.2.1 Khái niệm về chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng tổng
hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh về chất lượng tín dụng, có rất
nhiều chỉ tiêu, nhưng nói chung người ta thường quan tâm: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo. Ngoài ra, để đánh giá định tính về chất lượng tín
dụng, người ta còn quan tâm đến: Cơ cấu dư nợ các khoản vay ngắn – dài hạn trong
tương quan cơ cấu nguồn vốn của tổ chức tín dụng, dư nợ cho vay các lĩnh vực rủi
ro cao tại thời điểm đó: bất động sản, cổ phiếu ...
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa chất lượng tín dụng vào
làm một chỉ tiêu trong nhóm chỉ tiêu về chất lượng hoạt động khi xếp hạng các tổ
chức tín dụng năm 2006. Chất lượng tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
căn cứ vào:
14
• Nợ xấu/Tổng dư nợ;
• Nợ khó đòi/Tổng dư nợ;
• Nợ khó đòi ròng (= nợ khó đòi – dự phòng rủi ro chưa sử dụng) nhỏ hơn
hoặc bằng 0.
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lí của khách
hàng có lựa chọn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng. Nói cách khác, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự phát triển của môi
trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trong quá trình cạnh
tranh để tồn tại. [12]
Nói cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là chất lượng các món vay, được
đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng có mục đích,
phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng hạn,
bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh
tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội. [12]
1.2.2 Ý nghĩa của việc đánh giá chất lượng Tín dụng:
Chất lượng tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam căn cứ vào : Nợ
xấu/Tổng dư nợ; Nợ khó đòi/Tổng dư nợ; Nợ khó đòi ròng (= nợ khó đòi – dự
phòng rủi ro chưa sử dụng) nhỏ hơn hoặc bằng 0. Việc đánh giá chất lượng tín dụng
sẽ dựa vào tỷ số nợ xấu, nợ khó đòi. Dựa vào những tỷ số đó ngân hàng sẽ biết
được tình hình tín dụng tại ngân hàng như thế nào mà có biện pháp cải thiện và
khắc phục, hoặc có thể nâng cao thêm chất lượng tín dụng. Việc đánh giá chất
lượng tín dụng cũng có tầm quan trọng trong hoạt động tín dụng.
1.2.2.1 Chất lượng tín dụng đối với nền kinh tế xã hội:
Việc đánh giá chất lượng tín dụng để biết được chất lượng ra sao và có biện
pháp nâng cao chất lượng tín dụng để đưa hoạt động tín dụng thích nghi với điều
kiện kinh tế thị trường, phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường.
Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần tăng vòng quay vốn, huy động
mức tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội để phục vụ cho quá trình công nghiệp
15
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời sẽ giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần
kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế.
Nâng cao chất lượng tín dụng để có khả năng hợp tác cạnh tranh.
1.2.2.2 Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của
NHTM:
Để ngân hàng tiếp tục tồn tại và phát triển thì việc đánh giá chất lượng tín
dụng phải mang tính khả quan, đánh giá chính xác để ngân hàng biết được tình hình
hoạt động tín dụng của ngân hàng đang trong giai đoạn nào, có chất lượng tín dụng
ra sao,… Nếu tín dụng có chất lượng không tốt thì ngân hàng cần phải có biện pháp
kịp thời để nâng cao chất lượng tín dụng. Ngân hàng nào có chất lượng tín dụng tốt
thì ngân hàng đó là nơi tin cậy của khách hàng, vì vậy việc đánh giá chất lượng tín
dụng đối với mỗi ngân hàng là rất quan trọng và cần thiết.
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của NHTM, thu hút
được nhiều khách hàng bởi các hình thức sản phẩm dịch vụ tốt, tạo hình ảnh đẹp, và
tạo uy tín đối với khách hàng.
Chất lượng tín dụng tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí dịch vụ, chi phí quản lý, chi phí thiệt
hại do không thu hồi được vốn vay. Từ đó cải thiện tình hình tài chính ngân hàng và
tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng với
nhau.
Chất lượng tín dụng tạo mối quan hệ xã hội tốt với ngân hàng, điều đó có ý
nghĩa tạo môi trường thuận lợi nhất cho ngân hàng.
1.2.3 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng Tín dụng:
1.2.3.1 Các chỉ tiêu giới hạn trong cho vay. [5]:
Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Điều 8: Giới hạn cho vay, bảo lãnh:
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
16
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng
không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có
liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó mức
cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định tại khoản 1.1.
điều này.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách
hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách
hàng tối đa không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với
một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng nước
ngoài, trong dó mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với
một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của ngân
hàng nước ngoài.
1.2.3.2 Chỉ tiêu doanh số cho vay:
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay trong một thời gian
nhất định nào đó (tháng, quý, năm…). Chỉ tiêu doanh số cho vay này càng lớn thì
thể hiện một điều có nhiều chủ thể vay vốn để đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo
nhiều công ăn việc làm cho nhiều người dân trong xã hội. Đồng thời việc sản xuất
kinh doanh thuận lợi tốt sẽ đảm bảo cho việc chi trả nợ cho ngân hàng tốt hơn.
1.2.3.3 Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay:
Tổng dư nợ cho vay là tổng số tiền mà chủ thể đi vay còn nợ ngân hàng. Dư
nợ cho vay bao gồm: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn. Nếu
chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay thấp thì cho thấy quy mô hoạt động của ngân hàng còn
17
hạn hẹp, ngân hàng chưa có khả năng để mở rộng việc hoạt động cho vay, nguyên
nhân có thể là do việc huy động vốn, khả năng marketing chưa hiệu quả, nhân viên
không có năng lực,… Ngược lại nếu chỉ tiêu tổng dư nợ cao thì không chứng minh
được là chất lượng tín dụng tốt hay không mà ngân hàng phải dựa vào chỉ tiêu nợ
xấu để rõ hơn về chất lượng tín dụng.
1.2.3.4 Chỉ tiêu nợ xấu:
Theo Quyết định 493/NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro tín dụng thì nợ xấu được định nghĩa như sau:
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,5 quy định tại Điều 6 hoặc 7
Quy định này. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ đánh giá chất lượng tín dụng của
tổ chức tín dụng. Ngoài ra để biết chính xác hơn tỷ lệ nợ xấu ta sử dụng công thức
sau:
Tổng dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này thể hiện chính xác được tỷ lệ nợ xấu, chỉ tiêu này cho thấy giả
sử trong 100 đồng vốn mà ngân hàng cho vay sẽ có bao nhiêu đồng nợ xấu, ngân
hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc đánh giá chất lượng tín dụng.
1.2.3.5 Chỉ tiêu về số hộ vay vốn:
Chỉ tiêu này phản ánh nếu số hộ vay vốn càng ít thì cho thấy quy mô hoạt
động cho vay chưa được mở rộng, nếu số hộ vay vốn càng nhiều thì mạng lưới hoạt
động của ngân hàng được mở rộng hơn, có được lòng tin ở khách hàng. Mặc dù số
hộ vay vốn nhiều cũng chưa hẳn là tốt vì ngân hàng cần phải xét xem số hộ vay vốn
có tỷ lệ nợ xấu như thế nào, mới đưa ra nhận xét chính xác.
1.2.3.6 Chỉ tiêu về tỷ lệ thu nợ bằng nguồn thu thứ nhất:
Nguồn thu thứ nhất này có nghĩa là nguồn thu nhập chính của người đi vay,
từ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc ngành nghề họ đang làm. Trong trường hợp
nguồn thu thứ nhất không đủ để trả nợ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ thu nguồn
18
thu thứ 2, nguồn thu thứ 2 đó là tài sản đảm bảo (trường hợp vay có tài sản đảm
bảo)
Doanh số thu nợ bằng
Tỷ lệ thu nợ bằng
nguồn thu thứ nhất
nguồn thu thứ nhất =
Tổng doanh số thu nợ
Tỷ lệ này tiến gần đến 1 thì thể hiện một điều khách hàng có khả năng trả nợ
cao. Đồng thời chứng tỏ chất lượng tín dụng tốt, ngược lại nếu tỷ lệ này càng nhỏ
thì chứng tỏ chất lượng tín dụng kém, lúc đó bộ phận tín dụng cần kiểm tra, và xem
xét lại.
1.2.3.7 Chỉ tiêu tỷ lệ thu lãi:
Chỉ tiêu này cũng đánh giá hoạt động của ngân hàng có tốt hay không
Tổng số lãi thu được
Tỷ lệ thu lãi =
x 100
Tổng số lãi phải thu
Tỷ lệ này càng cao thì cho thấy hoạt động kinh doanh của ngân hàng tương
đối tốt, chất lượng tín dụng tương đối cao. Vì nếu khách hàng đầu tư và kinh doanh
tốt có lợi nhuận cao mới có khả năng trả tiền lãi đúng hạn như đã ký hợp đồng.
1.2.3.8 Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng:
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng. Vòng
quay vốn càng nhanh thì được đánh giá là tốt và an toàn.
Doanh số thu nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân trong kỳ
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trong điều kiên ngân hàng hoạt
động bình thường, không có những biến đổi lớn, chỉ tiêu này chứng tỏ rằng ngân
hàng đã thu nợ được bao nhiêu so với số vốn cho vay ra, tỷ lệ này cao thì chứng tỏ
ngân hàng có khả năng tiếp tục cho vay được nhiều hơn nữa. Đồng thời cũng phản
ánh mức độ rủi ro về lãi suất của ngân hàng là thấp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cao thì
- Xem thêm -