NỘI DUNG BÀI LÀM:
A.Vấn đề giao thông vận tải.
I. Hệ thống giao thông vận tải (GTVT) ở Việt Nam:
Giao thông vận tải (GTVT) là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, cũng
trực tiếp tạo ra giá trị và giá trị gia tăng trong quá trình thực hiện chức năng của
mình. Giữ cho huyết mạch giao thông của đất nước luôn thông suốt là nhiệm vụ
của ngành. Có 5 loại hình GTVT cơ bản:
+ Vận tải đường sắt.
+ Vận tải đường bộ.
+ Vận tải đường thuỷ.
+ Vận tải hàng không.
+ Vận tải bằng đường ống (đường ống vận chuyển nhiên liệu, nguyên liệu
rời).
1) Vận tải đường sắt.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử xây dựng và phát triển (trong đó tuyến Bắc Nam có chiều dài khai thác lớn nhất) trải dài khắp đất nước từ Bắc xuống Nam,
từ Tây sang Đông và có hàng chục tuyến đường sắt chuyên dùng phục vụ phát
triển kinh tế xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, Đường sắt Việt Nam cũng
đang nỗ lực không ngừng trong việc triển khai các dự án xây dựng những tuyến
đường sắt mới, hiện đại hơn. Trong tương lai không xa, những tuyến đường sắt
trên cao, đường sắt cao tốc sẽ được xây dựng và đưa vào hoạt động. ( Nguyễn
Hữu Bằng, chủ tịch HĐQT công ty đường sắt Việt Nam )
Ngày 25/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 973/QĐTTg về việc chuyển Công ty mẹ- Tổng công ty Đường sắt Việt Nam thành công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước.
Ngày 31/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 474/QĐ1
TTg phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Đường sắt Việt
Nam. Loại hình doanh nghiệp của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Triển khai thực hiện Điều 38 Luật Đường sắt, ngày 28/10/2005, Bộ
trưởng Bộ GTVT đã ban hành Quyết định số: 55/2005/Q Đ-BGTVT kèm theo
Quy định về “Đăng ký phương tiện giao thông đường sắt”. Quyết định trên có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006.
Cục Đường sắt Việt Nam đã có văn bản số 181/CĐSVN-VTPC ngày
01/3/2006 và văn bản số 1157/CĐSVN-VTPC ngày 29/8/2008 hướng dẫn các
doanh nghiệp kinh doanh đường sắt thực hiện việc đăng ký phương tiện. Đến
nay, Cục Đường sắt Việt Nam đã đăng ký được 414 phương tiện giao thông
đường sắt bao gồm các chủng loại sau:
Hơn 5000 toa xe khách và hàng của Tổng công ty ĐSVN đã và đang hoạt
động có đăng ký trước ngày 31/12/2005.
2) Vận tải đường bộ.
2
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường thì bức tranh về kinh tế của Việt Nam có nhiều
điểm sáng, mức sống của người dân được cải thiện từng bước, được bạn bè các
nước trong khu vực và quốc tế hết lòng ca ngợi về những thành tựu đổi mới
trong quá trình xây dựng đất nước. Tuy mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
đạt được là khá cao nhưng đi liền với nó là vấn đề về tai nạn giao thông và ùn
tắc giao thông, đặc biệt là giao thông đường bộ, số vụ giao thông không ngừng
tăng cả về quy mô và số lượng. Cho nên nhiều người thường nói rằng giao
thông đường bộ ở Việt Nam giống như một quả bong bóng dẹp được chỗ này
thì chỗ khác lại ùng ra, có không biết bao nhiêu là chiến dịch, chỉ thị nhưng chỉ
được một thời gian ngắn lại đâu vào đấy.
Theo số liệu thống kê năm 2009
+ có tới 50% số người tham gia giao thông không dùng đèn báo khi
chuyển hướng, 85% không dùng còi đúng quy định, 70% không dùng phanh
tay, 90% không sử dụng đúng đèn chiếu sáng xa, gần và 72% không đội mũ bảo
hiểm khi ngồi trên mô tô trên những tuyến đường bắt buộc. Ngoài ra, tình trạng
vượt đèn đỏ, uống rượu bia say, chở quá tải, quá tốc độ trong thời gian qua vẫn
luôn ở mức báo động và rất khó kiểm soát.
Phần lớn hành lang giao thông quốc lộ 5 đã trở thành “phố” với nhà dân
và các công trình bám hai bên đường. Quốc lộ 1 với chiều dài 2.300 km đã có
194 khu công nghiệp, 2.101 khu dân cư, 1008 cây xăng và 2.363 điểm đấu nối
khác.
Qua khảo sát cụ thể 272,5 km ( năm 2010 trên quốc lộ 1 ở cả ba miền cho
thấy: Về chiều rộng hành lang, chỉ 24% đủ theo quy định (15 m), phần còn lại
có nhiều công trình, nhà ở nằm trên hành lang, có nhiều nơi bám sát mặt đường.
Về đường ngang, bình quân 3,3 đường ngang/km, nghĩa là 300 m có một đường
ngang.
3
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên.:
+ Do sự lấn chiếm hành lang an toàn giao thông, sự gia tăng quá nhanh
của các phương tiện giao thông cá nhân và ý thức của người tham gia giao
thông quá kém và chưa được cải thiện nhiều trong những năm gần đây.
+ Bên cạnh đó cũng phải kể đến đường xá của chúng ta quá nhỏ hẹp,
nhiều khúc cua 90 độ trong khi đó có quá nhiều các biển báo cấm và biển báo
hiệu trên một đoạn đường, vỉa hè thì bị lấn chiếm làm nơi kinh doanh bán hàng,
để xe ô tô dẫn tới tình trạng người tham gia giao thông bị khuất tầm nhìn, nhiều
đoạn đường xuống cấp quá nhanh có nguy cơ tiềm ẩn tai nạn giao thông.
Đường ôtô hiện nay đang phát triển rất nhanh và mạnh mẽ, nhìn chung hệ
thống xe buýt ngày càng được hoàn thiện hơn. Theo ông: Nguyễn Trọng Thông
Phó tổng giám đốc Tổng công ty vận tải Hà Nội cho biết: Trong điều kiện hiện
nay, xe buýt cần hoàn thiện hơn về chất lượng chứ phát triển về đoàn phương
tiện là không hợp lý bởi vì làm gì có chỗ. Các nước phân làn rõ ràng, xe buýt
(trong đó có cả xe buýt cỡ lớn, BRT) chỉ đáp ứng 30% nhu cầu. Nhưng giao
thông của ta phát triển thêm xe buýt thì không có chỗ mà đi.
Để đạt mục tiêu đáp ứng 25% nhu cầu đi lại của người dân vào năm 2020
thì cần triển khai các biện pháp như không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ
lái xe, bán vé nhằm giữ vững hình ảnh xe buýt thân thiện trong con mắt người
dân. Thêm vào đó, cần phải có sự hỗ trợ, chỉ đạo từ thành phố. Hà Nội và Ngân
hàng Thế giới đang thúc tiến độ tuyến BRT Giảng Võ - Yên Nghĩa, bắt buộc
phải hoàn thành năm 2013 để kịp thời hạn giải ngân.
Phó chủ tịch UBND TP Nguyễn Văn Khôi cũng đã họp với Cơ quan
Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) về dự án tăng cường giao thông công cộng tại
Hà Nội (2011-2014). Mục tiêu là xây dựng kế hoạch, quy hoạch ưu tiên phát
triển xe buýt cũng như hạ tầng buýt, từ đó vận động, khuyến khích người dân từ
bỏ phương tiện giao thông cá nhân để đi xe buýt. Dự án phải đạt được 4 tiêu chí
4
là góp phần giảm ùn tắc, tăng số người đi xe buýt, cải thiện hình ảnh, tăng tính
thân thiện của xe buýt với người dân. Xe của dự án phải là xe tiêu chuẩn, gầm
thấp, ít ghế ngồi. Điển hình như hãng vận tải xe Traserco: Năm 2001, Transerco
có 200 xe buýt chạy trên 13 tuyến, với tần suất 30-50 phút một lượt, một năm
vận chuyển được 10 triệu lượt hành khách. Sau 10 năm, hiện Tổng công ty có
hơn 1.100 xe buýt, mỗi ngày vận chuyển hơn một triệu lượt người. Năm 2011
dự kiến vận chuyển trên 400 triệu lượt hành khách.
Đặc biệt theo số liệu của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, tại Việt
Nam, trung bình hàng ngày có khoảng 30-35 người chết vì tai nạn giao thông,
chủ yếu là tai nạn giao thông đường bộ với trên 90%.
Đây là những con số thực trạng đáng báo động đối với tình hình tai nạn
giao thông ở nước ta vốn đã trở thành một vấn nạn xã hội nghiêm trọng.
Trong vòng 10 năm qua, vận tải hành khách tăng 12%/năm, vận tải hàng hóa
tăng 10%/năm, tổng số ôtô và xe máy tại Hà Nội tăng đều đặn, tương ứng với
302.000 ôtô và 3.649 xe máy; trong khi chỉ có khoảng 8.489km đường giao
thông. Tính trung bình mỗi kilômét đường Hà Nội phải gánh chịu gần 6.500 ôtô
và xe máy các loại. Cụ thể, trên 85% tai nạn do lỗi của người tham gia giao
thông, trong đó là các hành vi chạy quá tốc độ, do phương tiện và do kết cấu hạ
tầng đường bộ. Hầu hết tai nạn giao thông xảy ra trên quốc lộ và đường tỉnh nơi
có lưu lượng xe lớn, trong đó khoảng 48% trên quốc lộ, 16% trên đường tỉnh và
20% trên đường đô thị.
5
Số vụ tai nạn giao thông do xe máy gây ra chiếm trên 75%, ôtô chiếm 17%, xe
đạp 4%, các tai nạn nghiêm trọng chiếm khoảng 70% số vụ tai nạn giao thông.
Tỷ lệ các vụ tai nạn nghiêm trọng đang có xu hướng gia tăng.
3) Vận tải đường thủy.
Kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ nội địa bao gồm đường thuỷ nội
địa; cảng, bến thuỷ nội địa; kè, đập giao thông và các công trình phụ trợ khác.
Đường thuỷ nội địa được phân loại thành đường thuỷ nội địa quốc gia,
đường thuỷ nội địa địa phương và đường thuỷ nội địa chuyên dùng. Đường thuỷ
nội địa được chia thành các cấp kỹ thuật.
Thống kê của Cục Đường sông Việt Nam, đến nay trong cả nước có
3.208 cảng, bến thuỷ nội địa (chưa kể bến khách ngang sông), trong đó chỉ có
2.421 cảng, bến được cấp phép hoạt động. Số còn lại do tự phát của địa phương
mà có ( năm 2009 ). Do đó, tình trạng vi phạm các quy định về quản lý, khai
thác cát sỏi lòng sông khá phổ biến ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hải Dương,
Nam Định, Hà Tây, Thanh Hoá, Thừa Thiên - Huế, Bình Dương, Bến Tre,
Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ… gây sạt lở đê, kè, công trình giao thông, làm
thay đổi luồng lạch, ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông đường thuỷ nội
địa.
4) Vận tải đường hàng không.
Lịch sử ngành hàng không dân dụng ở Việt Nam bắt đầu từ ngày 8 tháng 6
năm 1951, với sự thành lập của hãng hàng không dân dụng đầu tiên Air
Vietnam. Với số vốn 18 triệu piastre (tức 306 triệu franc Pháp), hãng được hình
thành bởi 6 cổ đông ban đầu là Chính phủ Quốc gia Việt Nam (50%), hãng Air
France (33,5%), Vận tải hàng không Ðông Dương (SITA) (11%), Vận tải biển
(Messageries maritimes) (4,5%), Hiệp hội hàng không vận tải (Union
6
aéronautique des transports) (0,5%), và Aigle Azur Indochine (0,5%). Năm
1968, hãng tái cơ cấu lại vốn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa mua lại các phần
góp và tăng vốn kiểm soát lên 75% và Air France giảm còn 25%.
Ngày 27 tháng 5 năm 1996, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký quyết
định thành lập Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines
Corporation) trên cơ sở sáp nhập 20 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hàng
không mà Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam là nòng cốt.
5) Vận tải bằng đường ống (đường ống vận chuyển nhiên liệu, nguyên
liệu rời)
Đường ống được xây dựng trong thế kỷ XX. Sự phát triển của đường ống
gắn liền với nhu cầu vận chuyển dầu.
Ưu điểm:
- Giá rẻ, ít tốn mặt bằng xây dựng.
- Rất hiệu quả khi vận chuyển dầu và khí đốt.
Nhược điểm:
- Không vận chuyển được các chất rắn
- Khó khăn cho khắc phục sự cố
- Chi phí tốn kém.
II) Hạn chế còn tồn tại với ngành giao thông vận tải hiện nay.
Hầu hết các tuyến đường, cầu cống trên đất nước ta kể cả những tuyến
đường được đầu tư xây dựng từ vốn vay ODA đều chưa đảm bảo tiêu chuẩn kỹ
thuật và nhanh xuống cấp đến mức báo động bởi tệ nạn tiêu cực trong ngành
Giao thông bấy lâu đã làm nhức nhối và đau đầu của các nhà cho vay vốn.
Theo các chuyên gia kỹ thuật và kinh tế, thì trong thời gian qua chúng ta
đã rất lãng phí về nguòn vốn ODA phục vụ cho xây dựng hạ tầng cơ sở đường
7
sá, bởi thực tế mỗi đồng vốn vay chỉ có 40 % là thực đỗ xuống đường, 60% là
rơi vãi khắp nơi cụ thể nước cho vay hưởng 30 % và 30 % còn lại là tư vấn
thiết kế giám sát và quan chức lãnh đạo các cấp của cả nước cho vay lẫn nước đi
vay bỏ túi. Và như vậy, tất cả đổ xuống cho con dường, đỗ xuống công trình
ngầm, nhưng thực ra là người dân lao động phải chịu, vì chính họ mới là người
đi làm đóng thuế để trả nợ vay chứ không phải Chính phủ trả nợ.
Với xu thế hội nhâp, kinh tế ngày càng phát triển, hệ thống hạ tầng giao
thông nội thi khắp cả nước ngày một qua tải trước nhu cầu sử dụng nhiều
phương tiện giao thông đặc biệt là xe ôtô, hầu hết các thành phố lớn trong cả
nước đều ùn tắc giao thông. Đường sá ít, không được xây mới và mở rộng.
Ngành Giao thông chưa thực hiện được vai trò quy hoạch và tham gia tư
vấn cho Chính phủ trong việc quy hoạch mang giao thông đô thị.
III.Ảnh hưởng của giao thông vận tải đến Chất lượng dân số:
1.Tích cực
Giao thông vận tải nước ta đã có phần được phát triển đi cùng với sự đầu
tư phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước cả ở khu vực thành thị và
nông thôn. Và sự phát triển đó của giao thông vận tải đã tác động không nhỏ
vào quá trình phát triển chung của đời sống xã hội, đó là đáp ứng một trong
những nhu cầu thiết yếu cơ bản nhất của con người đó là nhu cầu đi lại. Với sự
đa dạng của các loại hình giao thông (đường sắt, đường thủy, đường bộ, đường
hàng không) và sự nâng cao về chất lượng các công trình giao thông. Đồng thời
các phương tiện phục vụ cho các loại hình giao thông đó cũng ngày càng được
cải tiến về số lượng và chất lượng được nâng lên nhìn chung giúp cho người
tham gia giao thông thuận lợi trong việc có nhiều sự lựa chọn tối ưu theo nhu
cầu của mình. Giao thông lưu thông thuận lợi tạo cơ sở hạ tầng tốt cho sự phát
triển chung về mọi mặt của đời sống giúp cho người dân ổn định và nâng cao
mức sống.
8
Ví dụ ở nông thôn đặc biệt là miền núi vùng sâu vùng xa, trước đây chưa
có các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng điện đường trường trạm thì vấn đề giao
thông đi lại gặp rất nhiều khó khăn: xa các trung tâm y tế huyện, tỉnh trong khi
đường đi lại khó khăn bởi vậy người dân các vùng này ít có cơ hội tiếp cận
được với các thông tin, dịch vụ xã hội như kinh tế, y tế ... Và hiện nay thì các dự
án đầu tư phát triển đã về với tận các bản làng xa xôi của đất nước, người dân
cũng đã được cải thiện đời sống, tiếp cận và hưởng các dịch vụ xã hội một cách
tốt hơn.
Như vậy có nghĩa là giao thông vận tải có tác động trực tiếp đến chất
lượng cuộc sống trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến chất lượng dân số. Giao
thông phát triển thì mới tạo một trong những điều kiện tiền đề thuận lợi để phát
triển kinh tế - xã hội.
2.Tiêu cực:
+Ở thành thị: một số công trình đường bộ, cách quy hoạch xây dựng hệ
thống đường bộ ở các thành phố có phần chưa hợp lý dẫn đến tình trạng ùn tắc
giao thông gây khó khăn trong việc lưu thông trên đường. Trong tình hình ấy,
việc Hà Nội phải tiến hành phân luồng từ xa và Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra
đề xuất thu phí lưu hành vào trung tâm thành phố đối với ôtô chỉ đơn thuần là
các giải pháp tình thế.
Đường giao thông chật hẹp, thi công kéo dài. Ách tắc triền miên do cơ sở
hạ tầng giao thông đô thị không theo kịp sự phát triển của phương tiện giao
thông; ý thức người tham gia giao thông chưa cao… là những nguyên nhân
chính mà các cơ quan chức năng đưa ra để giải thích cho việc ách tắc giao thông
ngày càng trầm trọng tại các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay. Nhưng điều
quan trọng nhất là xác định nguyên nhân dẫn đến những hậu quả nêu trên thì
chưa thấy ai đề cập đến. Trước hết là việc cơ sở hạ tầng giao thông không theo
kịp sự phát triển của phương tiện giao thông. Điều cần xác định đầu tiên là hậu
9
quả này không do lỗi người tham gia giao thông. Trong khi phương tiện vận tải
hành khách công cộng trong các đô thị lớn chỉ đáp ứng 20% nhu cầu đi lại của
người dân, thì việc họ tự lo phương tiện giao thông cá nhân là một nhu cầu
chính đáng cần được tôn trọng.
Trong các nguyên nhân dẫn
đến tình trạng ùn tắc giao thông ở đô
thị thì sự bất hợp lý trong việc tổ
chức cắm đèn tín hiệu giao thông.
Chắc chắn sẽ có nhiều người cảm
thấy khó chịu khi phải dừng trước
đèn đỏvào giờ cao điểm tại một ngã
3 có nhánh rẽ trái trong khi họ muốn
đi thẳng. Đèn tín hiệu giao thông giúp giảm thiểu xung đột giữa các hướng giao
thông, nhưng trong trường hợp này, vô tình đèn tín hiệu đã hạn chế hướng lưu
thông cho các phương tiện giao thông đi thẳng, không xung đột với luồng rẽ
trái. Vậy là phương tiện buộc phải ùn ứ tại nút giao thông, trong khi hướng đi
thẳng rộng mở. Thời gian qua, thành phố Hà Nội đã cố gắng tổ chức nhiều nút
giao thông cho phép rẽ phải khi có đèn đỏ, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất hợp
lý.
Lãng phí diện tích giao thông tại Hà Nội còn thể hiện ở việc tổ chức giao
thông tĩnh trong thành phố. Giao thông tĩnh là một khái niệm chuyên môn dùng
để chỉ phương thức tổ chức những điểm đỗ, dừng cho các phương tiện giao
thông. Có một thực trạng là trên các con phố Hà Nội, nhiều vỉa hè và lòng
đường trở thành nơi đỗ, dừng xe. “Đường đi xe, hè đi bộ” là một trong những
khái niệm cơ bản nhất trong tổ chức giao thông đô thị, nhưng hiện tại, Hà Nội
vẫn chưa thể làm tốt điều này.
+Ở nông thôn:
10
Các dự án đầu tư làm đường bộ tại các địa phương ở vùng núi, vùng sâu
vùng xa thường có tiến độ thi công rất chậm, điều này có thể vì nhiều nguyên
nhân nhưng chủ yếu là do công tác quản lý. Việc thi công chậm của các công
trình đường bộ tại các địa phương này làm ảnh hưởng xấu đến các họat động
trong đời sống của người dân. Giao thông đi lại khó khăn, làm mất nhiều thời
gian, và hiệu quả thấp trong các công việc của người dân; gây ra nhiều vấn đề
bức xúc trong người dân vì nhu cầu đi lại không được đáp ứng và kéo theo hàng
loạt các vấn đề khác liên quan.
3.Giải pháp:
Muốn giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ, các chuyên gia khuyến nghị
thực hiện đồng bộ các chiến lược từ năm 2011-2020 và tầm nhìn năm 2030 với
việc nâng cấp cải tạo và tăng cường điều kiện an toàn của kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ, phấn đấu 80% quốc lộ đạt tiêu chuẩn.
Đồng thời, cần xây dựng và phát triển hệ thống kiểm tra, kiểm soát 100%
phương tiện cơ giới đường bộ, đưa việc giáo dục tai nạn giao thông vào bậc tiểu
học.
Mục tiêu phấn đấu giảm thiểu số người chết do tai nạn giao thông đường bộ trên
100.000 dân từ 13 người năm 2009 xuống còn 8 người năm 2020.
Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng đường bộ, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định 412/QĐ-TTg đến năm 2020 tổng mức đầu tư vào đường bộ chiếm 20 tỷ
USD trong đó bao gồm các dự án về đường cao tốc, nâng cấp quốc lộ, tuyến
đường vành đai hướng tâm trong giao thông đô thị, mở rộng kết hợp xây dựng
mạng lưới đường chính và khu vực…
Hơn nữa tất cả chúng ta mọi người, mọi tầng lớp, lứa tuổi đều phải có
những nhận thức cơ bản về luật an toàn giao thông để đảm bảo cho sự an toàn
11
của bản thân; và hơn nữa biết luật để tích cực tuyên truyền luật đến đông đảo
những người xung quanh. Mục đích là để nâng cao nhận thức và ý thức tham
gia giao thông cho tất cả mọi người. Nhằm hạn chế tối đa số vụ tai nạn giao
thông đáng tiếc xảy ra trong đời sống xã hội.
B.VẤN ĐỀ THÔNG TIN LIÊN LẠC
I.Các loại hình thông tin liên lạc chính ở Việt Nam:
1) Đài phát thanh
1.1.
Tình hình đài phát thanh ở Việt Nam
Đài phát thanh là một trong những phương tiện truyền thông quan trọng
và phổ biến nhằm thực hiện công tác tuyên truyền và cung cấp thông tin cho
người dân.
Cách đây gần chục năm, từ nguồn vốn Nhà nước và nguồn xã hội hóa,
nhiều địa phương trong cả nước đã được đầu tư xây dựng hệ thống truyền
thanh cơ sở. Tiếng loa truyền thanh hàng ngày từ nhà văn hóa thôn, bản,
phường, thường phát sóng vào lúc 7-8h sáng và 5-6h chiều đã giúp người dân
biết về tình hình thời sự thế giới, trong nước và nhất là những thông tin của
chính địa phương. Nội dung chủ yếu là những chủ chương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, tình hình an ninh trật tự, các thông báo chăm sóc sức khỏe
cho mọi người.
Ở nhiều địa phương, các Trạm truyền thanh đã được trang bị đầy đủ các
thiết bị thu, phát thanh và hệ thống loa phát thanh không dây. Các thiết bị của
Trạm được chính quyền địa phương quản lý.
Nhiều trạm truyền thanh cơ sở đã được trang bị đầy đủ về cơ sở vật
chất. Các trạm truyền thanh cơ sở được cán bộ đoàn xã, phường, thị trấn quản
lý, vận hành; một số xã do cán bộ văn hóa, cán bộ văn phòng UBND xã đảm
nhiệm. Hàng năm, Đài PT - TH của địa phương đều tổ chức các lớp tập huấn
về nghiệp vụ biên tập nội dung phát thanh và kỹ thuật sử dụng thiết bị phát
thanh.
1.2.
Một số tồn tại
12
- Đa số loa truyền thanh của hầu hết các địa phương đều treo ở trên cột
điện, mở to hay mở nhỏ chỉ có người ở gần mới nghe thấy rõ nhất và những
gia đình ở xa sẽ không nghe rõ hoặc nghe không rõ những thông tin đó.
Nhiều trạm phát thanh cơ sở hoạt động kém hiệu quả, có những thiết bị
hư hỏng, nhiễu sóng và không sử dụng được.
- Nội dung của các buổi truyền thanh nhìn chung còn đơn điệu, thường
xuyên lặp đi lặp lại một nội dung nên khiến người nghe nhàm chán.
- Công tác quản lý vận hành và tổ chức hoạt động của một số hệ thống
trạm truyền thanh còn nhiều hạn chế, thiếu kinh phí hoạt động.
- Cán bộ phụ trách yếu về năng lực và chuyên môn, không có trình độ
viết, biên tập thông tin và kỹ thuật sử dụng thiết bị truyền thanh. Đa số các
trạm truyền thanh cơ sở không có sổ theo dõi các nội dung thông tin, bài đã
tuyên truyền...
- Cán bộ quản lý các trạm truyền thanh không có chế độ phụ cấp và
không được tập huấn, chỉ làm nhiệm vụ kiêm nhiệm cũng phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc được giao.
1.3. Biện pháp
Thực trạng hoạt động của các trạm truyền thanh cơ sở hiện nay đã ảnh
hưởng đến công tác tuyên truyền, nắm bắt thông tin của người dân. Vì vậy,
cần phải có những giải pháp để khắc phục những tồn tại đang diễn ra. Cụ thể
như sau:
- Cần phải đầu tư kinh phí để sửa chữa, thay thế ngay những thiết bị đã
cũ, hỏng, không hoạt động.
- Có chế độ cho cán bộ quản lý các trạm truyền thanh cơ sở. Chính
quyền địa phương cân đối nguồn kinh phí chi cho sửa chữa hệ thống truyền
thanh, nếu quá khả năng có thể đề nghị cấp trên đầu tư.
- Các đài PT - TH cấp trên tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ phụ trách các trạm truyền thanh cơ sở.
13
- Lựa chọn người quản lý, vận hành các trạm truyền thanh cơ sở có
phẩm chất chính trị, hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ báo chí, kỹ thuật
phát thanh, có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao và gắn bó với công
việc được giao.
- Thường xuyên kiểm tra các thiết bị phát thanh ở cơ sở, nếu hư hỏng
cần kịp thời sửa chữa và tổ chức các chương trình tuyên truyền phù hợp với
người dân địa phương.
- Ngoài nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước, các địa phương vận động
các tổ chức và nhân dân đóng góp kinh phí mua sắm, bảo dưỡng, tu sửa các
thiết bị tại trạm truyền thanh cơ sở và hệ thống loa ở cơ sở theo hướng xã hội
hóa.
2.
Điện thoại
Điện thoại đã trở thành một phương tiện thông tin liên lạc rất quan trọng
trong cuộc sống. nó giúp cho con người có thể giải quyết các vấn đề trong
cuộc sống một cách đơn giản hơn, tiết kiệm thời gian và công sức cho con
người. Đó là “ sán phẩm thông minh” của con người.
Trong những năm gần đây, số lượng điện thoại di động và điện thoại cố
định tăng một cách nhanh chóng, thể hiện chất lượng sống ngày càng cao của
người dân.
Từ cuộc điều tra thống kê phổ cập dịch vụ điện thoại, Internet và nghe nhìn toàn quốc năm 2010, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có những công
bố vào ngày11/10/ 201 tại Hà Nội như sau:
Cuộc điều tra thống kê phổ cập dịch vụ điện thoại, Internet và nghe nhìn toàn quốc năm 2010 được tiến hành từ 0 giờ ngày 1/6/2010. Công tác
thu thập số liệu được thực hiện trong 30 ngày.
Theo đánh giá của bà Lê Thị Minh Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Thống kê
thương mại dịch vụ Tổng cục Thống kê, đây là cuộc điều tra có phạm vi
rộng, quy mô lớn nhất từ trước tới nay, thu thập thông tin đến từng hộ gia
đình, từng thôn, bản của 63/63 tỉnh, thanh phố của cả nước với
132.392/132.392 thôn, tổ dân phố (trong đó có 20.104.583 hộ gia đình và
80.540.819 nhân khẩu) tham gia.
14
Cùng với đó là 14 doanh nghiệp viễn thông, Internet có hạ tầng mạng và
cung cấp dịch vụ được điều tra thống kê. Đây vốn là những doanh nghiệp
chiếm đại đa số thị phần dịch vụ viễn thông, Internet của cả nước. Các đài
phát thanh của trung ương và địa phương.
Các quân nhân, lực lượng vũ trang chuyên nghiệp, sinh viên sống trong các
khu ký túc xá, công nhân, lao động sống trong các khu công nghiệp tập trung,
người không có nơi ở ổn định tại thời điểm điều tra không thuộc đối tượng
điều tra lần này.
Để thực hiện các công việc điều tra thống kê, các chính quyền địa
phương trên cả nước đã huy động hơn 250.000 người.
2.1.Điện thoại di động
Theo số liệu điều tra của Bộ Thông tin và Truyền thông, số lượng người
dùng di động của Việt Nam hiện mới gần 30,2 triệu người. Như vậy, thị phần
để phát triển thuê bao điện thoại di động thực vẫn còn quá lớn.
Con số trên được nêu trong báo cáo "Điều tra thống kê toàn quốc về
hiện trạng phổ cập dịch vụ điện thoại, Internet và nghe - nhìn năm 2010" do
Bộ Thông tin và Truyền thông công bố hôm 11/10/2011 là tỷ lệ người trong
hộ gia đình sử dụng điện thoại di động, với mức bình quân của cả nước chỉ
mới đạt là 37,5%. Cả nước đã có trên 71.534 trạm thu phát sóng, trong đó
39% số trạm tập trung ở thành thị còn lại là thành phố trực thuộc trung ương.
Ở khu vực thành thị, tỷ lệ người sử dụng điện thoại di động là trên 11,2
triệu người, đạt 49,5%; còn với khu vực nông thôn, có gần 33% người dân
dùng điện thoại di động. Đi đầu trong cả nước về số người trong hộ gia đình
sử dụng điện thoại di động là Bình Dương với 57%. TP. Hồ Chí Minh “về”
nhì với 54%, tiếp đó là Đà Nẵng với 47%. Rất nhiều tỉnh, như Sơn La, Điện
Biên, Hà Giang… tỷ lệ này chỉ đạt trên 20%. Theo đó, cả nước vẫn còn
62,5% tỷ lệ người trong hộ gia đình, tương ứng 40 - 50 triệu dân, chưa sử
dụng điện thoại di động.
15
Tỷ lệ số người dùng điện thoại di động bình quân cả nước mới đạt
37,5%, nhưng không đồng đều, vì nơi dùng nhiều, nơi dùng ít. Có người
dùng mấy số điện thoại di động khác nhau, có người lại chẳng dùng số nào.
Tất nhiên, trong số 40 – 50 triệu người chưa dùng điện thoại di động
phải kể đến một tỷ lệ lớn là người cao tuổi không còn nhu cầu dùng và đặc
biệt là số lượng trẻ em, học sinh chưa tới tuổi dùng điện thoại di động. Vì thế,
tỷ lệ người trong gia đình dùng điện thoại di động ở hầu khắp các tỉnh thành,
trung bình mới chỉ đạt dưới 40%.
2.2.Điện thoại cố định:
Điện thoại cố định là phương tiện liên lạc được người dân sử dụng trước
khi có sự xuất hiện của điện thoại di động. Đây là phương tiện liên lạc quan
trọng và phổ biến.
Theo kết quả cuộc điều tra thống kê phổ cập dịch vụ điện thoại, Internet
và nghe - nhìn toàn quốc năm 2010 , cả nước có hơn 8,3 triệu hộ gia đình có
điện thoại cố định (gồm cả loại có dây và không dây), chiếm tỷ lệ gần 42%
tổng số hộ gia đình.
Số lượng hộ gia đình ở khu vực thành thị có điện thoại cố định là trên
3,4 triệu hộ, chiếm khoảng 61%; tỷ lệ này ở khu vực nông thôn đạt hơn 34%.
TP. Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu cả nước về tỷ lệ hộ gia đình có
điện thoại cố định với 65%. Tiếp sau đó là đến Quảng Ninh với 60% rồi mới
tới Hà Nội, có 59% hộ gia đình có điện thoại cố định.
3.Máy thu hình
Về tình hình sử dụng máy thu hình của người dân chưa có số liệu thống
kê chính thức của tất cả cộng đồng dân cư nhưng một điểm cũng được cho là
đặc trưng của đô thị, đó là hầu hết mỗi hộ đều có ít nhất một máy thu hình và
ở nông thôn thì tỷ lệ này ít hơn. Tuy nhiên, theo báo cáo của Nghiên cứu Net
Index 2011 đăng trên báo Báo VnExpress ngày 03/8/2011 cho biết : Số lượng
hộ gia đình có tivi trên toàn quốc khoảng hơn 18 triệu hộ, chiếm trên 90%.
Cụ thể, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng anten chảo, anten dànvà truyền hình cáp lần
lượt là 18%, trên 69% và 14,1%.
16
Ở khu vực đô thị, nhiều người dân lựa chọn sử dụng các dịch vụ truyền
hình cáp, kỹ thuật số cao do đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin và việc lắp
đạt thuận lợi, chi phí lắp đạt cũng không đáng kể và phí thuê bao hàng tháng
cũng không nhiều.
4.Internet
Internet là một công cụ cung cấp thông tin rất hữu ích, tiện lợi. Trong
những năm gần đây, internet đã phát triển một cách nhanh chóng cung cấp
những dịch vụ cần thiêt cho người dân.
Ngày 11-10, Bộ Thông Tin-Truyền Thông đã tổ chức hội nghị tổng kết
và công bố kết quả cuộc điều tra thống kê hiện trạng phổ cập dịch vụ điện
thoại, internet và nghe - nhìn toàn quốc năm 2010.
Toàn quốc có hơn 2,5 triệu gia đình có máy tính cá nhân, đạt 12,6%.
Tổng số máy tính tại các gia đình là trên 3,1 triệu máy, trong đó khu vực
thành thị chiếm 69,4%. Cả nước có trên 1,6 triệu gia đình nối internet và có
khoảng 12,5 triệu người thường xuyên sử dụng internet.
Tỷ lệ dùng Intenet tại VN vượt nghe đài và xem báo in
Theo kết quả nghiên cứu Net Index 2011 vừa được công bố, Internet đã
vượt qua radio và báo giấy để trở thành phương tiện thông tin được sử dụng
hàng ngày phổ biến nhất tại Việt Nam, với tỷ lệ 42%.
E-mail và Messenger vẫn là phương tiện kết nối trực tuyến thông dụng.
Đọc tin tức trên mạng là hoạt động trực tuyến phổ biến nhất chiếm 97%, tiếp
sau là truy cập vào các cổng thông tin điện tử với tỷ lệ gần 96% người tham
gia. Số người sử dụng Internet để truy cập vào các trang mạng xã hội đã tăng
từ 41% năm 2010 lên 55% năm 2011.
Người sử dụng Internet ở độ tuổi từ 15 đến 24 quan tâm chủ yếu đến nội
dung giải trí, đặc biệt là game trực tuyến (38%), nhạc trong nước (57%) và
thể thao (39%). Bên cạnh đó, giới trẻ cũng sử dụng Internet để cập nhật thông
17
tin trên trang mạng xã hội (52%), xem video và hình ảnh thú vị trên mạng
(45%).
Tỷ lệ truy cập tại gia đình tăng từ 75% (2010) lên 88% (2011), trong khi
đó tỷ lệ truy cập từ Internet cà phê đã giảm từ 42% năm ngoái xuống còn
36% trong năm nay. Những gói cước hấp dẫn cùng với sự hiện diện của công
nghệ 3G ở Việt Nam đang đẩy mạnh xu hướng truy cập bằng điện thoại di
động (30%).
Số lượng người truy cập từ điện thoại di động đang tăng trưởng mạnh tại
các thành phố như Đà Nẵng (tăng từ 26% năm 2010 lên 46% năm 2011) và
Cần Thơ (tăng từ 25% lên 61% ). Các thiết bị di động đáp ứng nhu cầu kết
nối liên tục và cập nhật thông tin tức thời của người dùng đến các trang mạng
xã hội (15%).
Người dùng chủ yếu sử dụng Internet để so sánh và tìm hiểu thông tin
về sản phẩm hơn là để thanh toán trực tuyến (18%). Tuy nhiên, hình thức
thanh toán trực tuyến cũng có rất nhiều tiềm năng để phát triển.
Thời gian gần đây, mua hàng theo nhóm đang trở thành một hiện tượng
và mức độ nhận biết về hình thức này khá cao (58%). Tuy vậy mức độ quan
tâm và sử dụng thì vẫn còn hạn chế (13%).
Người dùng Internet tại Việt Nam tăng nhanh nhất khu vực
Theo báo cáo NetCitizens Việt Nam 2011 do hãng Cimigo vừa công bố,
Việt Nam có khoảng 26,8 triệu người đang sử dụng Internet, với tỷ lệ 31%
dân số.
Trong giai đoạn 2000 - 2010, tỷ lệ tăng tưởng người sử dụng Internet tại
Việt Nam đạt mức 12.035%. Theo đó, tỷ lệ người sử dụng Internet tại nước ta
đang có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực.
Báo cáo này được thực hiện thông qua cuộc khảo sát hơn 3.400 người
sử dụng Internet tại 12 thành phố ở Việt Nam, và được triển khai trong tháng
11-12/2010, với phương pháp phỏng vấn qua điện thoại.
18
Tại Việt Nam, khoảng 62% người sử dụng truy cập Internet mỗi ngày,
và trung bình mỗi ngày họ dành khoảng 2 giờ 20 phút trên Internet. Ở những
thành phố lớn, người dân truy cập Internet thường xuyên hơn so với thành
phố nhỏ. Theo báo cáo, người dùng ở Hà Nội dành hơn 160 phút mỗi ngày để
truy cập Internet, cao hơn so với TP.HCM (dành 150 phút mỗi ngày để truy
cập Internet).
Hoạt động thường xuyên nhất khi truy cập Internet là đọc tin tức và sử
dụng các công cụ tìm kiếm. Bên cạnh đó, Internet cũng thường được sử dụng
để nghiên cứu trong học tập và phục vụ cho công việc. Các hoạt động như
giải trí, giao tiếp cũng chiếm phần lớn hoạt động của người dùng Internet.
Tuy nhiên, chỉ có khoảng 40% người sử dụng Internet ở Việt Nam từng
truy cập vào một website mua bán hay đấu giá trực tuyến, và chỉ có khoảng
10% từng sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Bản báo cáo còn cho biết,
việc mua sắm trực tuyến được sử dụng thường xuyên hơn ở các thành phố
phía Bắc và chủ yếu phổ biến ở nhóm tuổi từ 25 – 34.
Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông
tin và truyền thông”
Đề án này vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với nhiều chỉ tiêu
dẫn đầu trong các bảng xếp hạng thế giới. Với tác động toàn diện tới các trụ
cột quan trọng của ngành CNTT&TT, người dân cũng được hưởng lợi trong
truy cập và ứng dụng CNTT khi kết nối Internet và thông tin di động băng
rộng được triển khai rộng khắp.
Theo Đề án, đến năm 2020, mạng băng rộng được triển khai đến hầu
hết cá dân cư c thôn bản, thông tin di động băng rộng được phủ sóng đến
95%.
Khi đó, hầu hết các hộ gia đình sử dụng các dịch vụ số, 50-60% số hộ
gia đình có máy tính và truy cập Internet băng rộng. Trong số này sẽ có 2519
30% truy nhập băng rộng thông qua cáp quang; tỷ lệ người dân sử dụng
Internet đạt trên 70%.
Cũng trong mục tiêu phổ cập thông tin, đến năm 2015, 90% hộ dân đều
có máy thu hình, trong đó 80% xem được truyền hình số bằng các phương
thức khác nhau.
Với mục tiêu đưa CPĐT Việt Nam thuộc loại khá trên thế giới và nằm
trong nhóm 1/3 dẫn đầu trong bảng xếp hạng của Liên hiệp quốc về mức độ
sẵn sàng CPĐT, người dân sẽ được sử dụng qua mạng hầu hết các dịch vụ
công cơ bản ở mức độ 4. Đây là mức cao nhất của các dịch vụ công trực
tuyến, cho phép người dân trực tiếp thanh toán phí dịch vụ, nhận kết quả dịch
vụ qua mạng.
Về nguồn nhân lực CNTT, 80% sinh viên CNTT&TT tốt nghiệp ĐH sẽ
có đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia thị trường lao động.
5.Ngoài các loại hình liên lạc trên còn có các dịch vụ liên lạc khác:
Qua hệ thống bưu điện, có dịch vụ thư tín, điện tín...đảm bảo nhu cầu
liên lạc cho người dân khi chưa có điều kiện tiếp cận với các loại hình khác:
điện thoại, Internet...
II.Những vấn đề còn tồn tại của hệ thống thông tin liên lạc:
Sự phát triển và phổ cập của những dịch vụ này vẫn chưa đồng đều giữa
các vùng trong cả nước, giữa các tầng lớp xã hội. Đối với những vùng sâu,
vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, sự thụ hưởng về những dịch vụ này vẫn
chưa đầy đủ và toàn diện; nếu không nói là vẫn còn thiếu thốn về thông tin.
Nguyên nhân một phần do điều kiện kinh tế, mức sống cũng như nhận
thức về giá trị mà những dịch vụ như viễn thông, phương tiện nghe - nhìn của
đồng bào ở những nơi này chưa cao; phần khác là do chính sách thực hiện
các chương trình dịch vụ công ích chưa quyết liệt và đồng bộ. Đây chính là
điều mà Bộ TT-TT sẽ có những chính sách phù hợp hơn trong giai đoạn
2011-2015.
20
- Xem thêm -