LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Mai
1
LỜI CẢM ƠN
Trong suố t quá trình học tập và hoàn thành luận văn này , tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình. Với lòng kính
trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiê ̣u Trường Đại học Quốc gia Hà Nội , Phòng đào tạo sau đại học
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điề u kiê ̣n thuận lợi giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đang công tác và giảng dạy
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đã giảng dạy và chỉ bảo tôi những kiến
thức quý báu trong quá trình học tập, giúp tôi trang bị đầy đủ kiến thức để nghiên
cứu và hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn Tiến sỹ Nguyễn Am Hiểu,
thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên tinh thần và giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn
này.
Qua đây, tôi cũng xin được cảm ơn gia đình cùng bạn bè đã luôn giúp đỡ, động
viên và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn thành luận
văn thạc sỹ của mình.
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCTC
:
Báo cáo tài chính
BKS
:
Ban kiểm soát
CTCP
:
Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ
:
Đại hội đồng cổ đông
ĐKKD
:
Đăng ký kinh doanh
DN
:
Doanh nghiệp
GĐ
:
Giám đốc
HĐQT
:
Hội đồng quản trị
LCT
:
Luật Công ty
LDN
:
Luật Doanh nghiệp
NĐ
:
Nghị định
TAND
:
Tòa án nhân dân
TNHH
:
Trách nhiệm hữu hạn
TGĐ
:
Tổng giám đốc
TTCK
:
Thị trường chứng khoán
Luật sửa đổi luật mẫu về công ty kinh doanh (Mỹ)
RMBCA
:
(viết tắt của Revised Model Business Corporations
Act)
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1
:
Quyền biểu quyết của cổ đông theo tỷ lệ cổ phần sở hữu
4
70
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1.
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ..................................................................7
2.
Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................8
2.1. Mục tiêu tổng quát .............................................................................................8
2.2. Mục tiêu cụ thể ...................................................................................................8
3.
Tình hình nghiên cứu đề tài ...............................................................................8
4.
Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu ...................................................................10
5.
Phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................................................10
6.
Kết cấu Luận văn .............................................................................................11
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ
CTCP ..............................................................................................................12
1.1.
Khái niệm CTCP...........................................................................................12
1.2.
Khái niệm quản trị CTCP ................................................................................14
1.3. Sự cần thiết của quản trị trong CTCP ở Việt Nam .........................................16
1.4. Mô hình quản trị CTCP ...................................................................................19
1.5.
Các khuyến nghị của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) về quản
trị công ty 25
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN TRỊ
CTCP ..............................................................................................................28
2.1.
Mô hình quản trị CTCP ...................................................................................28
2.2.
ĐHĐCĐ...........................................................................................................31
2.3.
HĐQT ..............................................................................................................49
2.4.
GĐ hoặc TGĐ .................................................................................................60
5
2.5.
BKS .................................................................................................................65
2.6.
Cổ đông CTCP ................................................................................................71
2.7.
Minh bạch và công khai thông tin trong CTCP ..............................................72
2.8. Giám sát các giao dịch có khả năng tư lợi và giao dịch với các bên liên quan79
CHƢƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
QUẢN TRỊ CTCP .........................................................................................82
3.1.
Phương hướng chung nhằm hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP .............82
3.2.
Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP ..........87
KẾT LUẬN ..................................................................................................116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................118
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hình thức CTCP ra đời là một tất yếu trong quá trình vận động của nền kinh
tế, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong việc huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau để mở rộng quy mô kinh doanh. Ở Việt Nam, kể từ khi Đảng và
Nhà nước chủ trương thực hiện đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã mở ra cơ hội, và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân
phát huy khả năng sản xuất kinh doanh. Từ đó, hình thức CTCP ngày càng phổ biến
và chứng minh được vai trò tích cực của nó trong nền kinh tế. Để phát huy thế mạnh
của hình thức công ty này trong nền kinh tế thì trước hết trong nội tại CTCP phải
hoạt động có hiệu quả, mà vấn đề được quan tâm đầu tiên là quản trị CTCP, tổ chức
quản lý trong chính nội bộ công ty. Nhận thức vai trò quan trọng của yếu tố quản trị
trong CTCP, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có nhiều chế định liên quan, tạo cơ
sở pháp lý chung để những nhà quản lý DN áp dụng vào thực tiễn công ty mình,
nhằm làm cho bộ máy CTCP vận hành có hiệu quả.
Tiếp thu kinh nghiệm pháp luật công ty của các nước phát triển trên thế giới,
trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong nhận thức và
thực tiễn thi hành pháp luật, nếu so sánh với những quy định về CTCP nói chung và
vấn đề quản trị CTCP nói riêng thì pháp luật của nước ta đã có cách tiếp cận và phát
triển khá bài bản, đã giải quyết được những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước và nhu cầu mở rộng, hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng cao, pháp luật về quản trị CTCP đang bộc lộ nhiều vấn đề
chưa hoàn thiện. Nhiều vụ việc tranh chấp nội bộ, nhiều hành vi lợi dụng vai trò,
ảnh hưởng của người quản lý để trục lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của cổ đông vẫn
xảy ra thường xuyên mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những bất cập và thiếu
sót của pháp luật về quản trị CTCP. LDN 2014 đã có nhiều đổi mới về vấn đề quản
trị CTCP nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện, nhiều bất cập từ LDN 2005
vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung tr
7
iệt để, đặc biệt cần đồng bộ LDN 2014 với các văn bản luật chuyên ngành, văn
bản dưới luật để tạo thành một hệ thống thống nhất. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu
nhằm hoàn thiện vấn đề pháp lý liên quan đến quản trị CTCP trong giai đoạn này là
việc làm cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quản trị CTCP” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Bằng việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về
quản trị CTCP về phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn thi hành, luận văn
tập trung phân tích những điểm bất cập, hạn chế, những điểm chưa phù hợp trong
quy định của pháp luật hiện hành qua đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quản trị CTCP ở Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục đích tổng quát đề ra, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề chung về quản trị CTCP, cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc hoàn thiện vấn đề quản trị CTCP ở Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá quy định pháp luật về quản trị CTCP ở Việt Nam và thực
tiễn thi hành các quy định này trên thực tế;
- Tìm hiểu bộ phận pháp luật tương ứng của một số quốc gia trên thế giới trong
mối tương quan, so sánh với pháp luật Việt Nam về quản trị CTCP;
- Chỉ ra những yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện quy định pháp luật về
quản trị CTCP và đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
vấn đề này.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về CTCP nói chung và quản trị CTCP nói riêng là vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
- Luận văn thạc sỹ luật học, “Chế độ pháp lý về quản trị CTCP theo LDN”
(2006) của Trần Lương Đức, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn tập
trung làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật về quản trị
8
CTCP của Việt Nam theo quy định của LDN 2005. Trong luận văn này, đã có sự so
sánh giữa LDN 1999 và LDN 2005, phân tích chỉ ra những điểm mới, tiến bộ của
LDN 2005 về quản trị CTCP và đề xuất các giải pháp đề áp dụng pháp luật trong
thực tiễn.
- Luận văn thạc sĩ luật học, “Pháp luật về quản lý nội bộ trong CTCP ở Việt
Nam” (2002) của Lưu Tiến Ngọc, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Trong
luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý như cơ cấu quản lý
nội bộ, vốn, cổ đông của quản trị nội bộ CTCP theo LDN 1999 trên cơ sở so sánh,
đối chiếu với quy định về quản trị CTCP trong pháp luật của một số nước trên thế
giới, từ đó kiến nghị một số nội dung cần hoàn thiện về CTCP ở Việt Nam, tiếp cận
từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
- Sách: “LDN bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn” (2011) của TS. Bùi Xuân
Hải. Cuốn sách này tập trung phân tích làm rõ thực trạng pháp luật về quyền của cổ
đông, cách thức và biện pháp bảo vệ cổ đông CTCP trên cơ sở có so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung LDN
năm 2005 nhằm tăng cường bảo vệ cổ đông CTCP.
- Bài viết “Một số so sánh về CTCP theo LCT Nhật Bản và LDN Việt Nam”,
của Nguyễn Thị Lan Hương, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, số 25/2009; Bài báo cáo
“Một số vấn đề về mô hình quản trị công ty trên thế giới và Việt Nam”, của TS. Bùi
Xuân Hải, Hội thảo khoa học: Pháp luật về quản trị công ty - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, 2011; Bài viết: “So sánh cấu trúc quản trị công ty điển hình trên thế
giới” của TS. Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2006; Bài viết “Tạo
thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền cổ đông trong Luật Liên minh châu Âu và
luật Đức - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, của Phan Huy Hồng, Tạp chí khoa học
pháp lý, tháng 3/2010;...
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về quản trị
CTCP ở Việt Nam, tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích làm
rõ một số khía cạnh pháp lý trong quá trình tổ chức và hoạt động kinh doanh của
CTCP, quyền và nghĩa vụ của cổ đông CTCP, cơ cấu tổ chức ĐHĐCĐ, HĐQT,
9
BKS... Tuy nhiên, các vấn đề trên mới được đề cập dưới góc độ của LDN 2005 và
các văn bản hướng dẫn thi hành nên chưa làm rõ được những vấn đề cần hoàn thiện
của hệ thống pháp luật về quản trị CTCP sau khi LDN 2014 được thông qua. Vì
vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
quản trị CTCP, tuy nhiên tập trung nghiên cứu toàn diện những hạn chế, bất cập
trong quy định pháp luật Việt Nam theo LDN 2014 về quản trị CTCP trên cơ sở so
sánh, đối chiếu với các quy định của LDN 2005, các quy định pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu
CTCP với tư cách là một loại hình kinh doanh trong nền kinh tế là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Do đó, luận văn không tập trung
nghiên cứu về vấn đề quản trị CTCP dưới góc độ của khoa học kinh tế mà chỉ
nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý. Theo cách tiếp cận của luận văn, tác giả
không nghiên cứu toàn bộ các vấn đề pháp lý về quản trị CTCP mà chỉ tập trung
vào các quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là LDN 2014 về quản trị CTCP
trên cơ sở phân tích, đánh giá pháp luật thực định và thực tiễn thi hành trên cơ sở so
sánh với pháp luật về quản trị CTCP của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học luật, cụ thể:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng chủ yếu
trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề chung lý luận cơ bản về quản trị
CTCP, cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP ở
Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh luật học được sử dụng chủ yếu ở
Chương 2 khi phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về quản trị CTCP và
chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật về quản trị CTCP ở Việt Nam;
10
- Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để
đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị CTCP ở Việt Nam.
6. Kết cấu Luận văn
Nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên,
do giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn
đề cơ bản để giải quyết được mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của đề tài luận
văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quản trị CTCP
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản trị CTCP
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị CTCP
11
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ CTCP
1.1. Khái niệm CTCP
Khái niệm về CTCP của các nước trên thế giới không giống nhau, nhưng nhìn
chung đều thống nhất quan niệm: CTCP là loại hình công ty đặc trưng của công ty
đối vốn với đặc điểm quan trọng là có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của
các cổ đông, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm
vi phần vốn góp vào công ty, vốn cơ bản của công ty được chia thành các cổ phần,
trong quá trình hoạt động, CTCP được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường
để huy động vốn.
Chẳng hạn Điều 1041 LCT Anh 2006 định nghĩa: “CTCP có nghĩa là một công
ty - (A) có vốn điều lệ đã góp hoặc cổ phần danh nghĩa của tổng số vốn cố định
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cũng số vốn cố định, hoặc
nắm giữ và chuyển giao như chứng khoán, hoặc được chia và nắm giữ một phần
bằng cách này và một phần bằng cách khác và (B) thành lập trên nguyên tắc có các
thành viên sở hữu cổ phiếu hoặc chứng khoán đó và không có những người khác”.
Ở Pháp, CTCP hay còn gọi là công ty vô danh được ra đời khá sớm (Luật công
ty ngày 14/12/1985). Các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần. Công ty
nếu đủ điều kiện, có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Theo Luật quy
định điều kiện để công ty phát hành các loại chứng khoán là: phải có ít nhất 7 cổ
đông, vốn pháp định tối thiểu là 25.000 FF (đối với các công ty không phát hành
chứng khoán) và 1.500.000 FF (đối với các công ty phát hành chứng khoán), mệnh
giá thống nhất mỗi cổ phiếu là 100 FF.
Về bản chất, pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước trên thế giới
tương đối tương đồng khi quy định về khái niệm CTCP. Điều 110 LDN 2014 quy
định “CTCP là DN, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
12
nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp vào DN; Cổ đông có
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này. CTCP có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN. CTCP có quyền phát
hành cổ phần các loại để huy động vốn”. Tương tự như LDN 2005, LDN 2014
không đưa ra một khái niệm khái quát mà chỉ liệt kê những dấu hiệu pháp lý để
nhận diện CTCP nhưng quy định này đã xác định tư cách pháp lý tồn tại của CTCP
theo pháp luật Việt Nam, giúp phân biệt loại hình CTCP với các loại hình DN khác.
LDN 2014 không có nhiều sửa đổi về khái niệm CTCP, chỉ thay đổi cụm từ “Giấy
chứng nhận ĐKKD” thành “Giấy chứng nhận đăng ký DN” cho phù hợp với tên của
loại giấy chứng nhận hiện đang được áp dụng; và sửa đổi nội dung: CTCP có quyền
phát hành cổ phần các loại để huy động vốn. Theo đó, CTCP giới hạn việc huy
động vốn bằng việc phát hành các loại cổ phần, chứ không quy định chung là
“chứng khoán các loại” như trước đây.
Từ khái niệm về CTCP quy định tại Điều 110 LDN 2014, có thể nhận thấy,
CTCP theo pháp luật Việt Nam có những đặc điểm sau:
Một là, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần, giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ
phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần.
Hai là, về tư cách pháp lý: CTCP có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp
giấy chứng nhận đăng ký DN (trước đây gọi là giấy chứng nhận ĐKKD; ĐKKD và
đăng ký thuế), hoạt động độc lập, tự mình tham gia vào các giao dịch; xác lập các
quyền và nghĩa vụ cho công ty.
Ba là, về số lượng cổ đông: CTCP phải có ít nhất ba cổ đông và không hạn chế
số lượng tối đa. Như vậy, về lý thuyết các CTCP có thể có hàng ngàn, hàng vạn cổ
đông... và cổ đông có thể mang quốc tịch khác nhau. Tuy nhiên, do có quá nhiều cổ
đông nên việc sở hữu vốn điều lệ của công ty sẽ bị phân tán cho nhiều cổ đông, lợi
ích của các cổ đông cũng có thể không thống nhất hay đôi khi là sự xung đột lợi ích
13
giữa các nhóm cổ đông. Khác với công ty TNHH, nhiều cổ đông CTCP không biết
nhau và chủ yếu họ quan tâm đến cổ phần và cổ tức, giá trị gia tăng của cổ phần.
Bốn là, chế độ trách nhiệm: cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; như vậy, cổ
đông của CTCP chỉ chịu TNHH đối với các khoản nợ của công ty. CTCP với tư
cách là một pháp nhân sẽ tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty, cổ
đông không phải chịu trách nhiệm thay CTCP về các khoản nợ của công ty.
Năm là, về khả năng chuyển nhượng cổ phần: So với mô hình công ty TNHH,
phần vốn góp của cổ đông trong CTCP (tức là cổ phần) có khả năng chuyển nhượng
dễ dàng hơn. Về nguyên tắc, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần mà
mình sở hữu, trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập (Điều 84) và
cổ phần ưu đãi biểu quyết (Điều 81).
Sáu là, huy động vốn: Trước đây, theo khoản 3, Điều 77 LDN 2005 thì CTCP
có quyền phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn theo quy định của pháp
luật. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử, bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Khoản 3 Điều 110 LDN 2014 đã quy định
CTCP có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn. Như vậy, điều luật
này không hạn chế quyền phát hành các loại chứng khoán khác của CTCP, nhưng
cũng không thừa nhận rõ ràng quyền phát hành các loại chứng khoán khác. Vì vậy,
sẽ dẫn đến tình trạng phải áp dụng pháp luật chứng khoán để điều chỉnh vấn đề này.
1.2. Khái niệm quản trị CTCP
Quản trị CTCP hay còn gọi là quản trị công ty có nhiều cách hiểu khác nhau
tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu, nguồn gốc thể chế luật pháp, đặc tính quốc gia,
văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính tại mỗi nước… Hiện nay có
một số cách hiểu về quản trị CTCP như sau:
Theo Ngân hàng thế giới (WB), quản trị công ty là một hệ thống các yếu tố
pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công ty có thể
14
thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ đó tạo
ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tôn trọng quyền lợi của
những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ bản nhất của một hệ
thống quản trị công ty là: Thứ nhất, tính minh bạch của các thông tin tài chính, kinh
doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; Thứ hai, bảo đảm
thực thi các quyền của tất cả các cổ đông, Thứ ba, các thành viên trong HĐQT có
thể hoàn toàn độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh
doanh, tuyển dụng người quản lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả
của hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết [8].
Ngoài ra có quan điểm cho rằng quản trị công ty có thể hiểu theo hai nghĩa,
“quản trị công ty theo nghĩa hẹp được hiểu là cơ chế quản lý – giám sát của chủ sở
hữu với người quản lý công ty theo những mục tiêu và định hướng của chủ sở hữu.
Theo nghĩa rộng hơn, quản trị công ty gắn chặt với quyền lợi của chủ sở hữu cũng
như các chủ nợ, người cung cấp, người lao động, thậm chí khách hàng của công ty.
Về mặt tổ chức, quản trị công ty là tập hợp các mối quan hệ giữa chủ sở hữu,
HĐQT và các bên liên quan nhằm: xác định mục tiêu, hình thành các công cụ để đạt
đạt được mục tiêu và giám sát việc thực hiện mục tiêu của công ty” [8].
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD), quản trị công ty là một hệ thống
các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và
nghĩa vụ giữa cổ đông, HĐQT, các chức danh quản lý và những người có lợi ích
liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này,
công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và
giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó. Định nghĩa này của OECD có thể coi là
định nghĩa rộng nhất về quản trị công ty, nó đã và đang được rất nhiều nước trên thế
giới vận dụng để xây dựng hệ thống pháp luật về quản trị công ty, trong đó có Việt
Nam.
Theo Quy chế Quản trị Công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng Khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán do Bộ Tài Chính ban hành
tháng 03 năm 2007, quản trị công ty được định nghĩa như sau: “Quản trị công ty là
15
hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho công ty được định hướng điều hành và được
kiểm soát một cách có hiệu quả vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan
đến công ty”.
Như vậy, khái niệm quản trị CTCP dưới góc độ luật học có thể hiểu là: hệ
thống các thiết chế, theo đó việc tổ chức quản lý công ty được thực hiện trên cơ sở
phân định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, người quản lý, những
người có lợi ích liên quan, và các phương pháp áp dụng theo một trình tự thủ tục
nhằm đảm bảo tổ chức và hoạt động công ty một cách hiệu quả nhất.
1.3. Sự cần thiết của quản trị trong CTCP ở Việt Nam
Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam duy trì tăng trưởng với tốc độ cao.
Với vai trò là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), từ đầu năm
2007, Việt Nam đã thúc đẩy việc cải tổ và phát triển kinh tế theo hướng kinh tế thị
trường. Sự phát triển này đòi hỏi sự tập trung nhiều hơn vào hiệu quả hoạt động của
các CTCP, bởi CTCP là nơi sản xuất ra lượng lớn những sản phẩm và dịch vụ khác
nhau để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước và tăng cường chất lượng
cuộc sống. Cùng với công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, số
lượng các DN, đặc biệt là các CTCP tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất
lượng. Từ hình thức sơ khai ban đầu, CTCP dần được hoàn thiện cả về hình thức sở
hữu, cơ cấu đầu tư, huy động vốn, chính sách quản trị hành chính và nhân sự…
Theo đó, quản trị CTCP đã được đặt ra ngày càng bức thiết để giải quyết những vấn
đề thuộc về đặc trưng của CTCP như:
Thứ nhất, một trong những đặc điểm nổi trội của CTCP là khả năng huy động
rộng rãi trong công chúng, trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề thông qua hình
thức phát hành cổ phiếu ra thị trường; việc chuyển nhượng vốn tương đối dễ dàng.
Vì vậy, CTCP có khả năng tập trung vốn cao độ và vấn đề quản lý nguồn vốn được
đặt ra trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.
Thứ hai, cũng xuất phát từ khả năng huy động vốn cao từ ngành nghề, lĩnh vực
khác nên hoạt động của CTCP có khả năng chi phối thị trường, chi phối nền kinh tế,
đặc biệt là ở các công ty đại chúng, các tập đoàn kinh tế… Nếu không giải quyết
16
vấn đề quản trị công ty thì không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của một công ty
riêng lẻ mà còn có khả năng ảnh hưởng lớn đến cả nền kinh tế.
Thứ ba, mặc dù huy động vốn từ công chúng nhưng không phải nhà đầu tư nào
cũng là những nhà đầu tư hay kinh doanh chuyên nghiệp, hiểu rõ hoạt động của
CTCP và sự biến động của nền kinh tế. Nhà đầu tư chỉ có khả năng tiếp cận thông
tin từ nguồn do công ty cung cấp, và chế tài buộc công bố thông tin của pháp luật.
Vì vậy, quản trị công ty không giới hạn ở quản lý nội bộ, quản trị nội bộ mà còn
phải đảm bảo sự công khai, minh bạch thông tin, hạn chế giao dịch nội gián, bảo vệ
quyền lợi cho nhà đầu tư. Vấn đề minh bạch hóa và công khai thông tin trong CTCP
được thực hiện thông qua các hoạt động của BKS với tính chất là một cơ quan
chuyên môn và chủ yếu qua các cơ chế cung cấp, báo cáo hay tiếp cận các thông tin
trong CTCP. Việc tiếp cận hay cung cấp thông tin không chỉ đơn thuần là vấn đề
minh bạch; quan trọng hơn thế, phạm vi và chất lượng thông tin được cung cấp hay
tiếp cận sẽ có tác động không nhỏ đến việc thực hiện quyền quyết định của nhà đầu
tư.
Thứ tư, CTCP là pháp nhân độc lập, có vốn tách biệt với chủ sở hữu, một
CTCP có thể có rất nhiêu cổ đông, nhưng cơ cấu quản lý chỉ tập trung vào một số
người với hoạt động của ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS, GĐ hoặc TGĐ công ty. Vì vậy ở
CTCP có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, không phải mọi cổ đông
đều tham gia vào quản lý công ty. Người quản lý thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình, và cổ đông có thể thực hiện chức năng sở hữu chủ yếu trong công ty là
một trong những nguyên tắc cơ bản của OECD khuyến nghị các quốc gia nên thực
hiện. Với mục đích hoàn thiện môi trường pháp lý để duy trì sự tồn tại và phát triển
của CTCP thì vấn đề đặt ra phải đặt trọng tâm bảo vệ quyền lợi của cổ đông, xây
dựng mô hình quản trị nội bộ phù hợp để điều hòa các lợi ích trong công ty.
Thứ năm, bảo vệ quyền lợi người lao động. Với khả năng huy động vốn rộng
rãi, CTCP có điều kiện để mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo nguồn việc làm cho
người lao động thì những biến động trong CTCP có thể gây ảnh hưởng lớn đến đời
sống của người lao động công ty, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến tình hình kinh tế,
17
xã hội. Vì vậy, quản trị CTCP không chỉ đảm bảo lợi ích cho chủ sở hữu và người
quản lý công ty mà còn là vấn đề được đặt ra để bảo vệ quyền lợi người lao động.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tồn tại nhiều CTCP được
thành lập chủ yếu từ quá trình cổ phần hóa DN nhà nước nên vẫn chịu ảnh hưởng
lớn của mô hình quản trị DN nhà nước trước đây. Những người đại diện của các
công ty này thường là những người đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước trong
DN và họ chưa nhận thức được tầm quan trọng của quản trị DN nói chung. Ngoài ra
phải kể đến một số lượng không nhỏ các công ty niêm yết là công ty gia đình – một
mô hình khá phổ biến ở các nước châu Á – nơi mà vấn đề quản trị vốn không được
chú trọng hoặc dễ bị lạm dụng quyền hạn trong các vấn đề có liên quan đến cơ cấu
tổ chức, công khai hóa thông tin, giao dịch tư lợi. Bên cạnh đó, rất nhiều DN niêm
yết trên sàn chứng khoán là DN có vốn đầu tư nước ngoài, những DN này luôn áp
dụng hệ thống quản trị công ty từ hệ thống quản trị công ty mẹ ở trụ sở chính, vì
vậy cơ cấu quản trị rất chặt chẽ. Mặc dù có cơ cấu quản trị chặt chẽ nhưng những
DN đầu tư nước ngoài này lại hướng tới mục đích chính là phục vụ cho lợi ích của
nhà đầu tư ở trụ sở chính, và vì thế, lợi ích của các cổ đông thiểu số (mà trong các
công ty liên doanh thì cổ đông thiểu số thường là bên Việt Nam) không được đề cao
và bảo vệ hợp lý. Cùng với xu thế hội nhập thì việc đề cao quản trị CTCP ở Việt
Nam càng phải được chú trọng để tiệm cận với các nền kinh tế lớn trên thế giới, tự
hoàn thiện và phát triển bản thân DN Việt Nam, từ đó thu hút đầu tư nước ngoài và
cạnh tranh lành mạnh với nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội cũng như thực trạng hoạt
động của các CTCP Việt Nam với những lý do trình bày ở trên, có thể thấy, hiện
nay, các CTCP Việt Nam đã phần nào nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của
công tác quản trị công ty và thấy được sự cần thiết phải thay đổi hệ thống quản trị
CTCP, vì nếu không thay đổi thì sự đào thải của các CTCP Việt Nam là rất lớn
trong quá trình hội nhập. Toàn cầu hoá và tự do hoá thị trường tài chính mở ra
những thị trường mới báo hiệu những cơ hội lợi nhuận đáng kể. Nhưng nó cũng đưa
DN đến những cuộc cạnh tranh khốc liệt và những biến động khôn lường trong thị
18
trường tài chính. Và quản trị công ty được coi là cơ sở của “luật chơi” giữa các
CTCP, nếu các CTCP không tuân thủ và thực hiện đúng, tất yếu sẽ bị đào thải khỏi
môi trường kinh doanh. Đó chính là lí do vì sao quản trị CTCP đã, đang và sẽ được
quan tâm tại Việt Nam.
1.4. Các mô hình quản trị CTCP trên thế giới
Để nhận biết và phân loại các mô hình quản trị công ty, các nhà nghiên cứu
trên thế giới thường dựa vào mục đích quản trị công ty hoặc theo cấu trúc quản trị
nội bộ của công ty theo luật định.
Thứ nhất, căn cứ vào mục đích của quản trị công ty, các mô hình quản trị công
ty thường được phân chia thành mô hình quản trị hướng tới cổ đông và mô hình
quản trị công ty hướng tới lợi ích của tất cả những bên có quyền lợi liên quan của
công ty, thậm chí người ta còn xác định cả mô hình quản trị công ty hướng tới lợi
ích của người lao động hay nhà nước [42]. Bên có quyền lợi liên quan của công ty
có thể hiểu là các cá nhân, tổ chức có mối quan hệ liên quan đến quá trình quản trị,
điều hành, kiểm soát công ty hoặc là những chủ thể bị ảnh hưởng bởi các hoạt động
của công ty hay quyết định của công ty thông qua các cơ quan trong bộ máy quản
trị [41].
Mục đích quản trị CTCP có sự khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Nếu
như mô hình quản trị công ty ở Nhật Bản, Đức… thường đề cao lợi ích của các bên
có quyền lợi liên quan thì các nhà quản trị công ty của Mỹ, Anh, Úc… thường cố
gắng tối đa hoá lợi nhuận, vì lợi ích của các cổ đông; và ở những nước này, cổ đông
trao cho HĐQT rất nhiều quyền lực [41]. Ở Việt Nam, tuy mục đích quản trị nội bộ
CTCP không được ghi nhận cụ thể trong các văn bản pháp luật có liên quan nhưng
thông qua các quy định về cơ cấu tổ chức nội bộ công ty và những tư tưởng thể hiện
trong các quy định pháp luật này, có thể hiểu hệ thống quản trị công ty của chúng ta
dường như hướng tới lợi ích của các bên có quyền lợi liên quan nhiều hơn là chỉ
hướng tới lợi ích của các cổ đông. Tuy vậy, tư tưởng này có được thực thi trên thực
tế hay không còn phụ thuộc vào những người quản lý điều hành của mỗi công ty.
19
Thứ hai, căn cứ theo cấu trúc quản trị nội bộ của công ty theo luật định, hiện
nay, trên thế giới tồn tại chủ yếu hai mô hình cấu trúc quản trị nội bộ CTCP cơ bản
là cấu trúc hội đồng kép hay còn gọi là hội đồng hai tầng, đa hội đồng và mô hình
hội đồng đơn hay còn gọi là hội đồng một tầng.
Cấu trúc quản trị theo mô hình hội đồng hai tầng có nguồn gốc từ nước Đức
với các cơ quan: ĐHĐCĐ, Hội đồng giám sát và HĐQT [13]. Sở dĩ mô hình này
được gọi là hội đồng hai tầng bởi cấu trúc bộ máy quản trị công ty có hai hội đồng
theo thứ bậc, trong đó Hội đồng giám sát là hội đồng bậc trên còn HĐQT là hội
đồng bên dưới. Về nguyên tắc, ĐHĐCĐ sẽ bầu chọn thành viên Hội đồng giám sát
nhưng người lao động cũng có quyền lựa chọn thành viên vào Hội đồng này. Chủ
tịch Hội đồng giám sát do ĐHĐCĐ bầu chọn và khi số phiếu biểu quyết trong Hội
đồng giám sát ngang nhau, ý kiến cuối cùng thuộc về phía có ý kiến của Chủ tịch
Hội đồng giám sát. Chức năng, quyền hạn của Hội đồng giám sát là lựa chọn, bổ
nhiệm, cách chức thành viên HĐQT, đưa ra các quyết định quan trọng trong việc
quản trị công ty cũng như giám sát hoạt động của HĐQT. Trong khi đó, HĐQT có
thẩm quyền điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty và báo cáo Hội
đồng giám sát.
Mô hình quản trị hội đồng hai tầng hướng tới bảo vệ những người có quyền lợi
liên quan, nhất là người lao động và chủ nợ. Tuy nhiên, chính sự bảo vệ mạnh mẽ
người lao động và các chủ nợ đã khiến cho tư bản vốn ở những nước theo mô hình
này kém linh hoạt so với mô hình thị trường tự do kiểu Anh - Mỹ. Thực tế này
khiến cho mô hình đại hội hai tầng ít được học hỏi và áp dụng trên thế giới, ngay cả
những nơi mà luật dân sự và thương mại Đức có ảnh hưởng lớn như tại các nước
châu Âu, mô hình này cũng không được ưa chuộng [42].
Ngược lại với cấu trúc quản trị theo mô hình hội đồng hai tầng, ở các quốc gia
theo truyền thống common law như Mỹ, Anh, Úc, New Zealand, Canada…cấu trúc
quản trị nội bộ thường được tổ chức theo mô hình hội đồng một tầng, bên cạnh đó
một số nước thuộc dòng họ luật thành văn (Tây Ban Nha, Hy Lạp, Bồ Đào Nha,
Ý…) cũng theo mô hình này. Cấu trúc quản trị theo mô hình hội đồng một tầng
20
- Xem thêm -