MÃ: V17
MỞ ĐẦU
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, giải phóng miền Nam
giành được thắng lợi trọn vẹn, mở ra thời kì mới cho đất nước. Đất nước ta
đã trải qua giai đoạn khủng hoảng trầm trọng thời hậu chiến với vô vàn
những khó khăn, thách thức và từ năm 1986 đã bước vào công cuộc đổi mới
toàn diện. Văn học Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc
nên từ sau năm 1975 kéo dài đến gần chục năm sau đó, văn học Việt Nam
rơi vào tình trạng khủng hoảng, sách in ra nhiều nhưng lại ế, người đọc quay
lưng với văn học trong nước. Người ta chỉ đọc văn học nước ngoài hoặc văn
học cổ. Điều đó khiến cho những người cầm bút hoang mang nhưng họ cũng
nhanh chống nhận ra rằng: cuộc sống đã thay đổi rất nhiều mà văn học thì
vẫn như trước. Đời sống trong hòa bình phức tạp hơn nhiều đời sống trong
chiến tranh. Chiến tranh ác liệt nhưng đơn giản. Trong chiến tranh, mọi quan
hệ xã hội và con người dồn lại trong một quan hệ suy nhất: sống và chết.
Người ta phải sống phi thường chính điều đó làm triệt tiêu đi những mối
quan hệ bình thường nhưng cũng vô cùng phức tạp, phong phú của con
người. Trong chiến tranh xã hội cũng an toàn hơn, trong sạch hơn về mặt
đạo đức. Hòa bình thì khác. Hòa bình là trở lại đối mặt với cái bình thường
hàng ngày, cái bình thường muôn thuở với tất cả nhiêu khê đã bị vùi lập đi
trong chiến tranh. Chúng thức dậy vây quanh con người ở khắp nơi. Cuộc
sống đặt ra biết bao câu hỏi mà con người chưa thể giải đáp được. Văn học
nếu theo qui luật và guồng máy cũ sẽ không thể thỏa mãn được nhu cầu đó.
Văn học không nghe, không hiểu những lo lắng tầm thường hôm nay của họ,
văn học quay lưng lại với những ưu tư vụn vặt, bức xúc hàng ngày của họ,
nên họ đã dửng dưng quay lại với văn học.
Các nhà văn cũng là con người trong xã hội đó nên họ cũng nhanh chống
nhận ra thay đổi. Ngay bản thân họ cũng có những vướng mắc, cũng bị cật
vấn bởi biết bao câu hỏi của cuộc sống thời bình. Bởi vậy văn học cũng phải
chuyển dần sang thời kì mới với những đặc điểm và quy luật vận động riêng.
Trong sự vận động của văn học sau năm 1975, văn xuôi nghệ thuật có sự
biến đổi thật sự mạnh mẽ và sâu sắc. Những hiện tượng mới lạ gây dư luận
ồn ào và kéo dài những tranh cãi gay gắt, những diễn biến phức tạp và bất
ngờ của quá trình tiếp nhận văn học…chủ yếu diễn ra ở văn xuôi. Văn xuôi
thời kì này có những thay đổi quan trọng về phương diện tư tưởng và đặc
biệt là đổi mới trong cách viết, thể loại hay nói cách khác là về nghệ thuật
viết văn xuôi.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU NĂM 1975
1. Diện mạo chung
So với thơ văn xuôi có vị trí nổi trội hơn nó gây ra nhiều những tranh
cãnh, những dư luận phức tạp. Chịu tác động của nền kinh tế thị trường văn
học nói chung là giàu cá tính và càng thêm năng động sôi nổi nhờ hoạt động
xuất bản, hoạt động báo chí phát triển mạnh. Số lượng tác phẩm hàng năm
rất lớn, lực lượng người viết đông đảo. Có người tiếp nối dòng mạch quen
thuộc, lại có người gây ngạc nhiên bởi những tìm tòi mới lạ, tạo nên sự gián
đonạ rõ nét trong văn học.. Người viết muốn thể hiện những tìm tòi riêng
mong tạo ra công chúng của mình. Người đọc được tự do tiếp nhận bằng
king nghiệm và sở thích cá nhân. Việc bất đồng ý kiến xung quanh một tác
phẩm ngày càng trở nên bình thường. Đã có thể nói đến những kêt tinh nghệ
thuật mới ở những nhà văn trưởng thành từ trước như Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài,…cũng như tư tưởng và bút pháp
mới mẻ, độc đáo, đầy sức kích thích với giới trẻ như Nguyễn Huy Thiệp,
Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh,…Văn xuôi
sau năm 1975 vẫn đang cố gắng tiến về phía trước bằng khát vọng sáng tạo
bềni ỉ, chấp nhận thử thách và những nghiệt ngã của thời gian để khẳng định
những giá trị đích thực.
2. Các chặng đường vận động
1.1. Từ 1975 đến 1985 là chặng khỏi động chuẩn bị cho cao trào đổi mới
Trong tình hình dư âm của cuộc kháng chiến chống Mĩ và hai cuộc
chiến tranh biên giới khiến văn xuôi cơ bản trượt theo quán tính cũ. Đề tài
chiến tranh những vấn đề thời sự, chính trị vẫn là mối quan tâm hàng đầu
của văn học và người viết vẫn trung thành với cách xử lí chất liệu như giao
đonạ trước. Tuy nhiên, có một số tác phẩm mẹnh dạn hơn khi lấy chiến tranh
làm bối cảnh khám phá tâm lí, tính cách con người: Miền cháy (Nguyễn
Minh Châu, Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy, Kí sự miền đất lửa
(Nguyễn Sinh và Kì Lân,…) Việc chọn bối cảnh như vậy nhà văn đã tránh
được cái nhìn dễ dãi, giản đơn, có điều kiện soi chiếu hiện thực qua cả
những hi sinh, mất mát và nhất là có thể khám phá sâu hơn những va đập
của hiện thực đến tâm lí con người. Một số tác phẩm dành sự quan tâm hơn
cho thời hậu chiến như quá trình hòa hợp dân tộc, từ bỏ những thói quen thời
chiến để bước vào thời bình, những vấn đề đạo đức mới nảy sinh trong các
quan hệ thường nhật, phổ biến. Văn xuôi giai đoạn này đã thấp thoáng
những ái ngại trước sự xa lạ của những người lính khi trở về đời thường, đã
nảy sinh mong muốn khước từ cái nhìn một chiều về người anh hùng.
Đến đầu thập kỉ tám mươi nhu cầu đổi mới rõ rệt hơn. Nguyễn Minh
Châu là người mở đầu cho quá trình đổi mới văn học. Tác phẩm Bức tranh
của ông đã ghi nhận vấn đề mang tính luận đề. Tác phẩm như một lời tự vấn,
một cuộc đối thại về văn chương trên một số khía cạnh: đề tài, chủ đề, tư
tưởng, nhân vật, sáng tạo, nhà văn. Từ đó, nhà văn mạnh dạn đề xuất hướng
tiếp cận hiện thực từ khía cạnh đạo đức – thế sự, văn học phải khẳng định ý
thức cá nhân, tư cách công dân trước những vấn đề bất cập của thời kì mới.
2.2. Từ 1986 đổi mới văn xuôi đạt đến cao trào sau đó lắng lại
- Nửa cuối thập kỉ tám mươi: không khí dân chủ, cởi ở, các nghị quyết
của Đảng tạo điểm tựa vững vàng cho người nghệ sĩ tự khẳng định mình.
Khát vọng sáng tạo được giải phóng. Sự mở rộng giao lưu văn hóa đem đến
nhiều kinh nghiệm nghệ thuật mới lạ. Thực tiễn phong phú sinh động của
đất nước trong bước chuyển lịch sử đặt ra biết bao vấn đề nhận thức, bàn
luận. Nhu cầu đổi mới bùng nổ trong văn xuôi thành cao trào sôi nổi, với
hàng loạt cá tính nghệ sĩ độc đáo, nhiều tác phẩm làm xôn xao dư luận cả
nước, Vẫn có những người thủy chung với cảm hứng sử thi như Hữu Mai,
Chu Văn,…nhưng diện mạo cơ bản của văn xuôi giai đoạn này là do những
cảm hứng mới quyết định. Ví dụ cảm hứng chống tiêu cực, cảm hứng phản
biện nhận thức lại, cảm hứng chiêm nghiệm triết lí. Đa số các nhà văn vẫn
dồn tâm huyết vào việc phát hiện và trình bày tư tưởng, thái độ trước các
chuyển động của đời sống xã hội, của lịch sử và những khám phá về con
người. Số ít hơn có ý thức kiếm tìm một ngôn ngữ nghệ thuật mới, coi cách
viết là mối quan tâm hàng đầu để hiện đại hóa văn học.
- Từ đầu những năm chín mươi trở đi không khí văn xuôi nhìn chung
lắng xuống nhưng con đường đổi mới vẫn được tiếp tục. Sự bận tâm của các
nhà văn lúc này chính là cách viết. Văn học buộc phải trở thành chính nó,
phải tự kahwngr định trong thời đại truyền thông. Các tác giả hư Phan Thị
Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc
Tư,…đa số đều còn trẻ và ý thức cá tính là chỗ mạnh của họ. Họ không thỏa
mãn với những gì đã có và coi cách tân là chuyện sống còn của nghệ thuật.
3. Các khuynh hướng của văn xuôi
Căn cứ vào chủ đề và cảm hứng có thể nhận ra văn xuôi giai đoạn này
nổi bật với ba khuynh hướng sau:
3.1. Khuynh hướng nhận thức lại thường lấy những phần khuất lấp những
vấn đề chưa được văn học thời trước quan tâm trong quá khứ làm đối tượng
phân tích. Những sai lầm ấu trĩ, những định kiến hẹp hòi, căn bệnh chủ quan
duy ý chí của một thời xa vắng gây nên bi kịch cho không ít cá nhân, làm
hao mòn nhân tính được mổ xẻ khá thuyết phục trong các tác phẩm Thời xa
vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Phiên chợ
Giát,…Các sự kiện lịch sử làm nền cho câu chuyện nhưng vấn đề mà accs
tác giả quan tâm chính là số phận của con người. Lịch sử được đánh giá từ
cái nhìn nhân bản. Theo tinh thần đó, chiến tranh cũng được nhận thức lại.
Bên cạnh những chiến công hiển hách, chiến tranh còn gắn với những đau
thương mất mát, những tổn thương về tinh thần và hạnh phúc. Đó là yếu tố
tạo nên thành công cho Chim én bay, Bốn mươi chín cây cơm nguội, Người
sót lại của rừng cười, Nỗi buồn chiến tranh…Khao khát dùng ngòi bút tác
động vào tiến trình xã hội các nhà văn cũng có cuộc đối chứng với chính
mình.
3.2. Khuynh hướng thế sự: Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này
thường lấy đề tài trực tiếp từ đời sống hiện tại. Điểm tựa cho kết cấu không
phải những biến cố lịch sử mà là những câu chuyện trong cuộc sống hằng
ngày, những qan hệ nhân sinh muôn thuở, những ứng xử có tính phổ biến
hay đột biến của con người. Qua đó nhà văn ý thức sâu sắc về nhân cách.
Mỗi tình huống, hành động, mỗi tâm trạng đều được soi chiếu bằng sjw khắc
khoải của người nghệ sĩ về hành trình con người tự khẳng định mình. Ở
những tác phẩm thành công, người viết không chỉ xả lí tốt mối quan hệ của
cánha n với cộng đồng, cá nhân với hoàn cảnh sống mà còn nắm bắt, diễn tả
khi con người đối diện với chính mình như Sống lại với thời gian, Bức
tranh, Đất kinh kì, Nắng Chiều,…. Đây là khuynh hướng thu hút đông người
viết nhất.
3.3. Khuynh hướng triết luận: Cái nhìn triết học bao giờ cũng giúp cho văn
học có chiều sâu và giá trị phổ quát. Trước năm 1975 một số tác phẩm của
Nguyễn Khải viết theo khuynh hướng này. Khi đó cảm hứng triết luận gắn
với những vấn đề chính trị - thời sự. Đến giai đoạn này, nhu cầu triết luận
hướn mạnh đến các vấn đề thế sự mong khám phá qui luật nhân sinh từ cái
hàng ngày như trong Bến quê, Thiên sứ, Thượng đế thì cười,…
II. MỘT SỐ ĐỔI MỚI VỀ NGHỆ THUẬT CỦA VĂN XUÔI SAU 1975
1. Xu hướng nhạt dần chất sử thi tăng dần chất tiểu thuyết
1.1. Cảm hứng thế sự
Văn học Việt Nam từ 1745 đến 1975 có đặc điểm quan trọng nhất là
đậm đà chất sử thi đã tỏ ra phù hợp với thời đại lịch sử hào hùng khi cả
nước có cùng . Cuộc kháng chiến chống mĨ kết thúc, đất nước bước vào kỉ
nguyên phát triển trong hòa bình. Nhu cầu đổi mới toàn diện đời sống xã hội
được ý thức như chuyện sống còn. Văn học cũng không thể viết như cũ. Văn
xuôi ViệNt am từ đầu thập kỉ tám mươi đã chuyển mạnh sang cảm hứng
thế sự - đời tư và thực tế. Trong các tác phẩm được dư luận chú ý sự chuyển
dịch cảmh ứng này khá rõ. Từ năm 1975 đến 198, nhìn chung văn học vẫn
đậm chất ửth I nhưng đã nới rộng phạm vi hiện thực như tập kí Tháng ba ở
Tângy uyên của Nguyễn Khải, tiểu thuyết Miền cháy của Nguyễn Minh
Châu… Từ năm 198 đến năm 1986 dư luận dành nhiều sự quan tâm cho các
tác phẩm mang cảm hứng thế sự như tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng
trong vườn của Ma Văn Kháng, tập truyện ngắn Bến quê, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Thời xa vắng của Lê Lựu…
Từ năm 1986 trở đi, người đọc hầu như chỉ còn quan tâm đến những tác
phẩm với cảm hứng thế sự.
Cảm hứng thế sự đem đến cho văn xuôi nhiều chất tiểu thuyết hơn,
trước hết ở khả năng chiếm lĩnh con người từ góc độ đời tư. Nếu cảm hứng
sử thi cuối cùng qui chiếu mọi vấn đề đời sống về hiện thực lịch sử thì cảmh
ứng thế sự cuối cùng tìm đến với hiện thực con người, qui chiếu về số phận
con người với những quan hệ xung quanh sự tồn tại của nó, phát hiệnnh ững
vấn đề tự nó. Chỉ với cảm hững thế sự, đời sống riêng cá nhân, kinh nghiệm
cá nhân mới đượ coi là đối tượng khám phá chủ yếu.
1.2. Đề tài
Tư duy tiểu thuyết còn chi phối đến cách lựa chọn đề tài của các tác
giả từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu đề tài trong quá trình sáng tác.Văn xuôi
trước năm 1975 ít dành chỗ cho những đề tài đời tư như gia đình, tình yêu,
hạnh phúc cá nhân. Từ sau năm 1975, để bổ sung cho những thiếu hụt của
giai đoạn văn học trước, mảng đề tài đời tư đã được nhiều tác giả chú ý khai
thác. Đề tài gia đình có Heo may về qua phố, Mùa lá rụng trong vườn của
Ma Văn Kháng, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Tướng về
hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Thời xa vắng của Lê Lựu,… Ngoài ra, văn học
giai đoạn này còn chứng kiến sự xuất hiện rất nhiều tác phẩm viết về đề tài
tình yêu đôi lứa, cuộc truy tìm hạnh phúc riêng.Ở lĩnh vực riêng tư này con
người thường trút bỏ bộ cánh xã hội hành động theo những động cơ bên
trong sâu kín và tính người của nó bị thử thách nhiều hơn. Bởi vậy tình yêu
và hạnh phúc xuất hiện với muôn dạng muôn hình. Nó sống theo những
chân lí và lẽ phải riêng phù hợp với cảnh ngộ của nó. Truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp, của Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan
Thị Vàng Anh là những minh chứng tiêu biểu.
Con người khi xuất hiện trong cuộc sống đời tư nên cũng mang gương
mặt có khi rất khác lạ. Nhân vật ông thiều tá trong truyện Đời khổ của
Nguyễn Khải là một ví dụ. Chân dung của nhân vật được tác giả khắc họa
qua hai cái nhìn. Từ cái nhìn của vợ ông thì ông là người Ông ấy vẫn phê
bình tôi vô chính trị không như mấy bà ở tỉnh. Với người kể chuyện ông chỉ
là kẻ đạo đức giả thật tầm thường Tên ông thiếu tá là gì tôi không biết, mặt
ông tôi cũng quên chỉ nhớ mang máng một người đàn ông có bộ dạng đứng
đắn, có thể rất tốt bụng nhưng không làm được việc gì nói được lời nào cho
hàng xóm được nhờ. Ông thiếu tá chỉ biết đánh giặc và đọc sách thôi còn
trong gia đình, vợ ông gánh chịu tất cả mọi lo toan. Bởi vậy, nhân vật ông
thiếu tá sẽ bị đánh giá lại. Ngoài ra các nhân vật như Sài trong Thời xa vắng,
ông tướng về hưu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Vạn trong Bến
không chồng, Lực trong Cỏ lau,…đếu là những nhân vật được xây dựng
theo nguyên lí dịch chuyển tiêu chí từ thế giới sử thi sang thế giới tiểu
thuyết. Sự dịch chuyển này làm số phận cá nhân và cấu trúc nhân cách trở
nên phức tạp hơn, chân thật và sinh động hơn, khiến người lính trở thành
phạm vi đời sống, xuất hiện trong các mối quan hệ mang tính người của nó.
1.3. Không gian và thời gian nghệ thuật của tác phẩm
Từ cái nhìn thế sự - đời tư, không gian, thời gian nghệ thuật của tác
phẩm cũng có nhiều thay đổi. Ở văn xuôi 1945 – 1975, chúng ta bắt gặp chủ
yếu kiểu không gianlichj sử to lớn nơi diễn ra các hoạt động tập thể. Trong
văn xuôi sau năm 1975 không gian chủ yếu là không gian đời thường, mang
tính cá nhân riêng tư. Trong không gian đó bắt buộc con người phải thể hiện
đến tận cùng bản chất của mình, không có cơ hội lảng tránh trách nhiệm cá
nhân. Nó tham gia vào cuộc đời mỗi con người, trở thành bầu sinh quyển
gắnlieền với buồn vui, cảm quan cuộc sống của con người. Căn gác xép
trong Đám cưới không có giấy giá thú là nơi lẩn tránh, ẩn trú cuối cùng của
anh giáo Tự khi bị đồng loại xa lánh. Căn phòng mười sáu mét vuông trong
Thiên sứ là nơi chen chúc của những dục vọng, những ảo tưởng của bày
thành viên gia đình cô bé Hoài. Không gian sinh hoạt còn là nơi phi huyễn
hoặc các thánh thần biến họ trử thành người hơn như Kiếm sắc, Vàng lửa,
Mưa Nhã Nam, Nguyễn Thị Lộ của Nguyễn Huy Thiệp. Trong kiểu không
gian này mối quan quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh được xử lí phong
phú hơn. Cảm giác mang tính cá nhân taooj ra những không gian ảo giác,
hoang tưởng của tâm linh, của cảm thức tôn giáo khiến người đọc như được
tiếp xúc ngỡ ngàng với loại không gian của niềm tin bí ẩn và thành kính này.
Thời gian thế sự, thời gian đời tư phụ thuộc vào trải nghiệm cá nhân,
bị chi phối bởi trạng thái tâm lí, tình cảm của cá nhân là vấn đề mà nhiều tác
phẩm quan tâm. Ở khuynh hướng sử thi thời gian gắn liền với những biến cố
lịch sử, trình bày theo tuyến tính. Nhân vật cảm nhận thời gian gắn liền với
những biến cố lịch sử, điểm nhìn đặt ở tương lai, coi hiện tại là sự vận động
hướng đến tương lai. Trong văn xuôi sau năm 1975, thời gian mang cảm
quan lịch sử vẫn tồn tại nhưng được khúc xạ qua kinh nghiệm cá nhân nên
các mốc thời gian không còn nguyên ý nghĩa khách quan. Lão Khúng trong
Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu cảm nhận hiện tại qua nỗi cót ruột
của chuyến đi mất của. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam được cảm nhận
qua nỗi nhớ thương đứa con trai. Cuộc đời lão được đánh dấu bằng những
mốc thời gian hết sức tầm thường: Sợi dây chão lão mang từ chợ Cày về,
đứa con trai thứ ba ra đời, thời điểm gia đình đi khai hoang,…
Do xu hướng khai thác chiều sâu tâm lí nên nhiếu tác phẩm có giới
hạn thời gian sự kiện rất ngắn. Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải được gói
ghém trong vài tiếng đồng hồ, Phiên chợ Giát diễn ra từ sáng đến non trưa,...
Bù lại thời gian tâm lí, thời gian hồi tưởng lại có thể kéo dài đến vô cùng.
Với Kiên Nỗi buồn chiến tranh, Hai Hùng Ăn mày dĩ vãng, người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành,…thời gian quá khứ trải dài với điệp trùng những
kỉ niệm. Quá khứ, hiện tại đồng hiện cùng tương lai. Các lớp thời gian chồng
chất lên nhau có khi đứt nối, có khi nhòe mờ đã phá vỡ cấu trúc truyện
truyền thống, đưa kiểu cốt truyện tâm lí lên hàng đầu.
1.4. Sự thể hiện “cái bi” và “cái hài đời”
Một đặc điểm của chất văn xuôi đậm nét trong thời kì này đó là sự thể
hiện cái bi và cái hài đời.
Văn học 1945 – 1975 thường né tránh cái bi. Nếu có bi tráng bi hùng
thì cái hùng, tráng thường lấn át cái bi. Với cảm hứng sử thi và định hướng
cổ vũ kháng chiến nên cái bi ít xuất hiện. Chỉ khi văn học lấy cá nhân làm hệ
qui chiếu, khi hệ giá trị nhân bản được xác lập thì sự xuất hiện của cái bi
mới trở thành hiện tượng bình thường. Những biến thiên lịch sử tích cực vẫn
chứa đựng cái bi vì số phận cá nhân không trùng khít với số phận cộng
đông. Chừng nào cái xấu cái ác còn tồn tại thì con người còn phải đối diện
với bi kịch. Chiếc thuyền ngoài xa là bi kịch của hạnh phúc gia đình, Mùa lá
rụng trong vườn là bi kịch của khủng hoảng niềm tin vào đạo đức con người
trước sức ép nền kinh tế thị trường. Trong mạch cảm hứng về cái bi là sự
cảm nhận sâu sắc về cái nhỏ bé, hữu hạn của kiếp người. Nỗi buồn, nỗi đau,
mất mát có thể không thích hợp với việc diễn tả con người sử thi nhưng lại
rất bình thường khi diễn tả đời tư. Thể hiện cái đau, cái buồn văn học không
chỉ cắt nghĩa nguyên nhân, truy tìm trách nhiệm mà còn bảo vệ và nuôi
dưỡng nhân tính. Các tác phẩm Cỏ lau – Nguyễn Minh Châu, Người sót lại
của rừng cười – Võ Thị Hảo, Mẹ - Chu Lai,…đã đề cập đến nỗi buồn chiến
tranh và số phận bèo bọt của con người. Khám phá phương diện này văn
chương thể hiện giọng trầm lắng, xót xa người đọc thông qua nỗi buồn mà
điều chỉnh lại cách sống của chính mình. Cái bi còn hiện hình qua cảm thức
cô đơn, nỗi hoang mang, lo âu trước bao điều phi lí dường như đang đậm
dần trong con người hiện đại. Con người dường như mất đi khả năng giao
tiếp với người khác như thế giới cô đơn trong Thiên sứ khi cả gia đình với
hơn chục thành viên nhưng mỗi thành viên lại là mảnh vỡ rời rạc, không có
chất keo kết dính. Tướng Thuấn trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
trở nên lạc loài giữa những người trong gia đình. Trong những bi kịch đó
văn học còn đi nói về bi kịch của chính mình. Hồi kí Tô Hoài, Tạp văn
Nguyễn Khải chứ đựng những kinh nghiệm những nhận thức đau đớn của
người nghệ sĩ trong cuộc vật lộn để tìm kiếm chính mình. Nhưng văn
chương nhìn vào nỗi đau hay quá khứ chính là ý thức về thực tại và hạnh
phúc. Chính điều này khiến cho văn học nõi về cái bi nhưng không lụy, bi
nhưng vẫn làm sống dạy khát khao hạnh phúc, khát khao được cởi bỏ nỗi cô
đơn.
Cái hài đời xuất hiện trong quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa nhà văn
và bạn đọc, nhà văn và nhân vật. Quan hệ đó đòi hỏi phải cóa bỏ khoảng
cách sử thi, thái độ thành kính với người trần thuật, thể hiện ý thức chống lại
khuynh hướng lí tưởng hóa, thi vị hóa đời sống. Sự nhận thức về cái hài sẽ
tạo thành một cảm hứng độc đáo trong văn học: cảm hứng trào lộng.
Văn học Việt Nam 1945 – 1975 đi cùng hai cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại hầu như không có cảm hứng này. Văn học với cảm hứng sử thi chủ
yếu viết về những vấn đề trang nghiêm trọng đại của đất nước, dân tộc. Đây
là điểm nhìn cộng đồng thống nhất, không có sự vênh lệch. Trong khi ấy cái
hài lại xuất hiện khi có những lệch chuẩn gây cười, sự không tương xứng mà
con người có thể nhận ra được. Sự vênh lệch ấy chỉ có khi con người có
những cách đánh giá khác nhau, cách nhìn nhận khác nhau về cùng một vấn
đề. Văn học Việt Nam 1945 – 1975 có cái nhìn thống nhất của cộng đồng về
hiện thực tuyệt đối hợp lí không có chỗ cho cái hài là cũng vì thế.
Trong công cuộc đổi mới, ý thức cá nhân được giải phóng, giá trị con
người được đề cao, tư tưởng riêng trở thành đòi hỏi nghệ thuật đã làm cơ sở
cho sự xuất hiện cái hài. Hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đạo đức – thế sự
cũng làm xuất hiện bao nhiêu cái khiếm khuyết, lệch lạc, xấu xa của con
người. Cùng với cảm hứng về cái bi, cảm hứng về cái hài tạo nên diện mạo
trong văn chương thời kì đổi mới.
Cảm hứng trào lộng gắn liền với sự phát hiện cái xấu và phê phán cái
xấu. Nếu trước kia văn học thiên về ca ngợi, biểu dương khẳng định cái tích
cực, đẹp đẽ thì bây giờ bổ sung thêm việc khám phá mặt trái, phê phán cái
tiêu cực và sức mạnh phê phán, hủy diệt của tiếng cười sẽ phát huy. Nếu như
“khi cười cái xấu chúng ta đứng cao hơn nó”- Séc-nư-xép-xki, thì nhà văn
chính là những chiến sĩ trên mặt trận chống tiêu cực. Họ cho độc giả cười
thỏa thuê trước cái xấu nhưng đó là cách họ giúp con người nhận thức được
cái xấu, cái lố lăng đáng cười trong đời sống. Ví dụ, Nguyễn KHắc Trường
trong Mảnh đất lắm người nhiều ma đã phơi bày sâu sắc, sống động hiện
thực nông thôn đầy giả dối ở Xóm Giếng Chùa vốn đứng đầu về cái sang cái
giàu lại phải trải qua trận đói giáp hạt vàng cả mắt. Trong Phiên chợ Giát
của Nguyễn Minh Châu, Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của
Dương Hướng lại khai thác một nghịch lí hài hước: Kẻ tự cho mình sứ mệnh
ban phát hạnh phúc cho người khác lại là kẻ gây bất hạnh, làm tổn thương
con người. Giang Minh Sài khi tổng kết về cuộc đời mình đã cay đăng nhận
ra: “Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào
thì cứ sống như thế, không sợ một ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý định
của người khác cốt cho đẹp mọi người chứ không phải sống cho hạnh phúc
của chính mình”. Đây là thái độ sòng phẳng trước hạnh phúc cá nhân, nhưng
làm sao anh có thể sống mà không yêu cái người khác yêu, làm sao có thể
chống lại cả một tập thể cứ đinh ninh mình đang làm điều tốt. Lão Khúng
trong truyện Nguyễn Minh Châu bất ngờ nhận ra bi kịch cuộc đời mình qua
giấc mơ kì dị về ông chủ tịch Bời. Lão không thể giải thích được cái tình thê
nực cười: Người lãnh đạo huyện xuất thân từ tầng lớp với lão, ngày đêm lúc
nào cũng chăm chăm cái cách mạng của người dân quê mà cuộc sống của
người dân vẫn dậm chân tại chỗ. Số phận lão vẫn là cái vòng tuần hoàn nhọc
nhằn, lam lũ, bức bối. Cơ chế cũ cũng xuất hiện rất nhiều những chuyện nực
cười. Một đại tá đữ từng ba mươi năm cầm súng chiến đấu lại lóa mắt vì
đồng tiền rồi bị đẩy đến điểm xuất phát. Thời mở cửa nhà binh thâm nghiêm
lột xác thành khu phố sực nước mùi mĩ phẩm.
Về mặt ý nghĩa cái hài đối lập với cái bi nhưng dường như cảm hứng
về cái hài lại gắn liền với cái bi, gợi ra nỗi đau, sự lo âu hay ít nhất là sự
chua xót. Có những chuyện bi kịch sinh ra từ tình huống hài kịch như trong
Bến không chồng. Lại có những hài kịch sinh ra từ tình huống bi kịch như
chuyện con đấu tố cha trong Mảnh đất lắm người nhiều ma. Thấy được sự
chuyển hóa trong cái bi và cái hài là một chiều sâu nhận thức trong văn học
hiện nay. Sự chuyển đổi giao thoa giữa cái bi và cái hài thể hiện khá rõ qua
loại nhân vật “lạc thời”. Họ thường là sản phẩm của hoàn cảnh phi lí rồi vì
đi trước thời đại hoặc lạc hậu so với thời đại mà rơi vào bi kịch. Loại nhân
vật này xuất hiện nhiều trong các tác phẩm của Nguyễn Khải, Ma Văn
Kháng.
Khuynh hướng tự trào tuy ít phổ biến hơn nhưng đã có những thành
tựu đáng trân trọng. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ẩn chứa triết
lí thâm trầm sau nụ cười nhẹ nhõm. Khi ông giễu nah nhà văn phải sắm vai
trẻ trung, lịch thiệp cho đẹp lòng cô vợ trẻ đến nỗi biến thành lố bịch, xa lạ
với chính mình, ta nghe như có cả sự xót xa trước những người nghệ sĩ cứ
phải diễn với đời.
Cảm hứng trào lộng như một khuynh hướng đổi mới quan trọng sẽ
đưa đến những cách tân đáng kể về hình thức văn xuôi nghệ thuật về cả
ngôn ngữ và giọng điệu.
Tóm lại, cảm hứng trào lộng trong văn xuôi gắn bó mật thiết với quan
niệm đa chiều về cuộc sống và con người, một quan niệm ít lí tưởng nhưng
chân thực và sâu sắc hơn.
2. Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn
Điểm nhìn là phạm trù quan trọng của thi pháp học hiện đại. Nó là vị
trí để người kể chuyện hoặc nhà văn lựa chọn để quan sát, thâu tóm hiện
thực được phản ánh trong văn học. Việc tìm hiểu điểm nhìn thực chất là tìm
hiểu một kiểu quan hệ, một phương thức tiếp cận của nhà văn với hiện thực.
Văn học sau 1975 hướng đến những vấn đề đạo đức – thế sự, một vấn đề
luôn được nhìn từ nhiều người, nhiều góc đọ khác nhau bởi vậy cần có một
phương thức trần thuật phù hợp với cái nhìn đa chiều đó.
Sau năm 1975, những quan niệm về hiện thực, về công chúng và về
con người đã thay đổi dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong trần thuật. Hiện
thực không phải mục đích duy nhất mà chỉ là phương tiện để thể hiện quan
điểm của nhà văn. Trong văn xuôi giai đoạn này chúng ta thấy có các
khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như sau:
2.1. Khuynh hướng cá thể hóa
Sự vận động của điểm nhìn theo khuynh hướng cá thể hóa có nghĩa là
theo chiều hướng ngày càng in đậm dấu ấn cá nhân, cá tính, phong cách
riêng biệt độc đáo của chủ thể. Có thể nói hiếm có giai đoạn nào mà nhu cầu
cá thể hóa được thể hiện trên một qui mô rộng và trở thành nhu cầu thời đại
như giai đoạn sau 1975. Trước 1975, phần vì yêu cầu thời đại phần vì do
nhu cầu tự thân nhà văn mà điểm nhìn trong văn xuôi chủ yếu qua lăng kính
sử thi – cộng đồng. Chuyển sang thời bình văn học phải đối diện với bao
nhiêu vấn đề của đời sống. Nhà văn không thể giữ mãi cái nhìn giai cấp qua
lăng kính cộng đồng, dân tộc. Đặc biệt chủ trương dân chủ hóa của Đảng
cùng sự phát triển của nên fkinh tế thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển ý thức cá nhân của con người cũng như ý thức cá tính trong nghệ
thuật bừng tỉnh. Vì vậy, dấu ấn cá tính trong điểm nhìn trở thành một tiêu
chí của giá trị, một mối quan tâm của văn chương. Cá thể hóa là nhu cầu tất
yếu cầu tất yếu của điểm nhìn phù hợp với quan điểm của nhà văn và yêu
cầu thời đại.
Biểu hiện của khuynh hướng này thể hiện rõ nét ở những nhà văn có
xu hướng “vắt dòng” qua hai giai đoạn trước và sau năm 1975. Ở một số cây
bút chúng ta thấy xuất hiện với tần số rất lớn tác phẩm được trần thuật ở
ngôi thứ nhất. Nhân vật tôi trong các tác phẩm của Nguyễn Khải, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài khiến người đọc có cảm tưởng như đồng nhất
với tác giả.
ở một số tiểu thuyết xu hướng cá thể hóa được đẩy lên đến mức cá
biệt hóa. Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh đặt điểm nhìn vào trạng thái
tâm hồn bất định nhiều lúc bấn loạn. Tạ Duy Anh trong Thiên thần sám hối
trần thuật câu chuyện từ điểm nhìn của cái bào thai trong bụng mẹ. Những
điểm nhìn này bước đầu đã tạo nên những cảm nhận mới lạ để laijnhieeuf
ámhảnh trong lòng người đọc.
Sự vận động của điểm nhìn theo khuynh hướng cá thể hóa vừa đáp
ứng nhu cầu dân chủ hóa vừa là kết quả tất yếu của sự thức tỉnh ý thức cá
nhân. Nó giúp nhà văn cắt nghĩa, lí giải hiện thực theo hệ qui chiếu riêng.
Nó giúp nhà văn phản ánh hiện thực đồng thời giúp chiêm nghiệm, chất vấn,
tự vấn trước hiện thực được phản ánh.
2.2. Khuynh hướng đối thoại
Khuynh hướng cá thể hóa của điểm nhìn gắn liền với khuynh hướng
đối thoại. Bởi cá thể hóa không có nghĩa là đơn giản hóa, thu hẹp hoặc áp
đặt cái nhìn một chiều trước hiện thực. Sắc thái cá nhân của điểm nhìn chỉ
được nhận diện đầy đủ trong đối thoại với điểm nhìn cá nhân khác., với quan
điểm cộng đồng, thị hiếu truyền thống hoặc trong quan hệ với cái chung.
Xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội đề cao tinh thần dân chủ, nhiều tác
phẩm được tổ chức qua một hệ nhiều điểm nhìn, phổ biến nhất là dạng hai
điểm nhìn: một theo quan điểm truyền thống và một theo quan điểm của
người kể chuyện hoặc của nhà văn. Cả hai điểm nhìn soi chiếu cùng một
hiện thực. Ví dụ: “Trong thư anh, chiến tranh mang bộ mặt tươi rói, hào
hùng. Tôi lo âu chỉ bởi chiến tranh mang bộ mặt người đàn bà xót xa, khắc
khoải” (Phạm Thị Hoài, Thiên sứ). “Trong từng chương một, Kiên viết về
chiến tranh một cách rất tùy ý như thể ấy là cuộc chiến tranh chưa từng biết
tới, như thể đó là cuộc chiến của riêng anh” (Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến
tranh).
Nhu cầu đối thoại không hản là phản ứng của nhà văn với chân lí có
sẵn hay sự phủ định những chuẩn mực cũ mà đó là nhu cầu nhìn lại một
cách nhìn, từ đó thiết lập một hệ giá trị mới, đáp ứng hoàn cảnh của lịch sử thời đại mới. Ngoài ra nó còn làm nảy sinh ở người đọc tâm lí tự vấn trước
hiện thực được nói tới. Khuynh hướng đối thoại của điểm nhìn dẫn đến hệ
quả là nhà văn, người kể chuyện thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ
thể khác nhau. Hơn nữa, nhu cầu chiêm nghiệm, tự vấn trước hiện thực
khiến điểm nhìn luôn có xua hướng dịch chuyển từ nhà văn hoặc người kể
chuyện đến các nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong.
Bằng cách đó nhà văn có thể khám phá, chiêm nghiệm về con người một
cách đa diện hơn. Ví dụ, trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp việc
ngậm miệng ăn tiền, việc đường ra trận mùa này đẹp lắm được soi chiếu qua
điểm nhìn của đứa trẻ, người cha, người ông của nó. Ở đây điểm nhìn được
soi chiếu từ nhà văn vào nhân vật không nhằm tái hiện nội tâm nhân vật mà
để nhìn nhận hiện thực đa chiều và tạo ra tiếng nói đa âm cho lời văn nghệ
thuật.
Khuynh hướng đối thoại của điểm nhìn trong văn xuôi sau năm 1975
đã thúc đẩy quá trình đa dạng cách nhìn hiện thực tới phương thức phản ánh
hiện thực; từ quan niệm văn chương đến vai trò của người cầm bút trong
thời kì mới.
2.3. Khuynh hướng gián cách
Ở khuynh hướng gián cách chủ thể của điểm nhìn luôn ý thức sâu sắc
về ranh giới nhằm tạo sự phân li giữa các đối tượng: người kể chuyện, nhà
văn và độc giả; nhất là tạo khoảng cách giữa các phạm trù: hiện thực khách
quan, hiện thực trong niềm tin của người cầm bút và hiện thực được phản
ánh trong tác phẩm.
Trước năm 1975 văn xuôi thường đòi hỏi người đọc phải thực sự thâm
nhập vào hiện thực được phản ánh trong tác phẩm và hình dung nó như câu
chuyện có thật ngoài đời. Thói quen ấy là do cách nhìn hiện thực đơn giản
và vì hiện thực trong tác phẩm thường gắn liền với hiện thực các biến cố lịch
sử, xã hội.
Trong vă n xuôi thời kì đổi mới, việc lựa chọn điểm nhìn của nhà văn
buộc người đọc phải ý thức rõ hiện thực trong tác phẩm là hiện thực văn
chương khác với hiện thực ngoài đời. Sự xuất hiện hàng loạt các tác phẩm
viết theo lối “giả liêu trai” hoặc lấy cảm hứng sáng tác từ cái phi lí, kì ảo
cũng có phần xuất phát từ nhu cầu này. Chính điều đó tạo nên hiệu quả kép
trong nhận thức của người đọc. Tính gián cách của điểm nhìn tạo ra sự gián
cách giữa người đọc và hiện thực, giữa người đọc với nhà văn.
Sự vận động điểm nhìn theo khuynh hướng gián cách trong văn xuôi
Việt Nam sau năm 1975 là hệ quả tất yếu của điểm nhìn mang tính chất đối
thoại và nhu cầu cá thể hóa. Nó cho thấy người cầm bút ý thức sâu sắc về vai
trò cũng như quyền hạn của người nghệ sĩ. Gián cách đặt ra yêu cầu rất cao
ở tư chất nghệ sĩ của nhà văn và trí tuệ người đọc. Gián cách đòi hỏi người
cầm bút phải tìm cách viết khác, người đọc phải hình thành thị hiếu khác,
phê bình văn học đòi hỏi bậc thang giá trị khác.
Các khuynh hướng vận động của điểm nhìn nói trên có sự chi phối
chặt chẽ lần nhau: Cá thể hóa vừa là yêu cầu của đối thoại, vừa là điều kiện
để gián cách. Ngược lại, gián cách giúp tăng màu sắc cá thể, đồng thời thúc
đẩy nhu cầu đối thoại. Sự xuất hiện các khuynh hướng này dẫn đến sự thay
đổi hàng loạt các phương thức tư duy cũng như phương thức biểu đạt của
người cầm bút đem đến cho văn xuôi sau 1975 những luồn gió mới.
3. Sự đổi mới ngôn ngữ
Ngôn ngữ là chất liệu là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng
của văn học. Mặt khác ngôn ngữ cũng là hiện tượng xã hội. Sự vận động
không ngừng theo sự thay đổi của đời sống và chính sự phát triển của ngôn
ngữ thời đại cũng gớp phần chi phối tư duy văn học. Nhiều nhà văn sau năm
1975 cũng đặt vấn đề cách tân ngôn ngữ. Nguyễn Huy thiệp khẳng định:
“Tôi biết thứ ngôn ngữ giản dị như đất - Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng
băng – Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người - Buộc họ soi vào lòng
mình như soi mặt xuồng hồ”. Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện như một hiện
tượng lạ vụt đến, ngoài khả năng biến ảo của bút pháp đa dạng, ngoài những
tư tưởng độc đáo được trình bày dưới dạng phản biện với đời sống, ông còn
gây cú sốc thực sự cho kinh nghiệm ngôn ngữ văn chương. Lối nói cộc lốc,
sắc bén và hàm súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, ngắn gọn, hạn chế tối đa sự
miêu tả và bình luận chứa một năng lượng bùng nổ dữ dội làm rung chuyển
lối văn mực thước, trang trọng nhiều rào đớn đưa đẩy hoặc êm ái, du dương.
Đổi mới về ngôn ngữ đã gớp phần không nhỏ đem đến hơi thở
cuộc sống cho văn chương. Sự biến đổi của ngôn ngữ được ghi nhận ở
những đặc điểm nổi bật sau:
3.1. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực – đời thường
Với cảm hứng sử thi văn xuôi 1945 – 1975 chủ yếu hướng tới cái cao
cả, cái đẹp đẽ siêu phàm. Ngôn ngữ giai đoạn này giàu chất thơ, trang trọng
và mĩ lệ. “CHất hiện thực” và “tính đại chúng” được nhìn bằng con mắt lí
tưởng. Sau năm 1975, mạch cảm hứng thế sự nổi lên, văn xuôi chú trọng
nhu cầu diễn đạt cá tính, nhu cầu thông tin trong điều kiện ý thức cá nhân
đang được khơi dậy mạnh mẽ. Tư duy tiểu thuyết cho phép chất liệu đời
thường ùa vào văn học. Bước chuyển đổi ngôn ngữ văn xuôi lúc đầu gắn với
khát vọng được nói thật. Sự cổ vũ của Đảng nhìn thẳng cào sự thật kích
thích văn học phanh phui cái ác, cái xấu, mặt trái của xã hội. Ngôn ngữ nghệ
thuật dần dần mất đi vẻ trang trọng, thi vị, ít du dương, rào đón và tăng dần
chất thô mộc, góc cạnh của đời thường, suồng sã trong giọng điệu riết róng
trong từ ngữ.
Chưa bao giờ ngôn ngữ văn học gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự
như thế. Chưa bao giờ trong văn học xuất hiện những câu chửi thề, chửi tục,
lối nói trần trụi, bụi bặm, dân dã nhiều như thế. Không còn lối văn đạo mạo
của người rao giảng đạo đức, ngôn ngư văn xuôi hiện nay đầy hứng thú với
cách định danh, định tính chính xác sự vật hiện tượng. Ví dụ:
- “Tại vì đây là thứ tình yêu chẳng có hôn hít gì cả, chỉ có tình yêu với
Đức thánh Trần mới như thế chứ”. (Nguyễn Huy Thiệp – Mưa)
- “Vâng! Điều đó sẽ hoàn toàn chính xác nếu như tôi còn biết bẽ mặt
hay còn có mặt để mà bẽ”. (Chu Lai – Ăn mày dĩ vãng)
- “Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở
một đứa con gái bé như cái kẹo không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay
là bồ bịch” (Phan Thị Vàng Anh – Hoa muộn)
Ngôn ngữ có khả năng dung nạp thoải mái thành phần khẩu ngữ, cố
tình xô lệch cú pháp nhất là sự công khai nhại lại tất cả mọi ngôn ngữ kiểu
cách vô hồn. Trong truyện ngắn Tướng về hưu là một ví dụ điển hình. Hay
trong truyện Không có vua cũng vậy, “Theo đồn đại, đại thể đấy là một
“xen” về tình yêu, giản dị, trong sáng, không vụ lợi, cuộc sống là duy vật
biệnch ứng, hài hòa, đẹp, đáng yêu”.
Cùng với sự gia tăng khẩu ngữ là sự xuất hiện phổ biến các đại từ
nhân xưng suồng sã: y, thị, hắn, gã. Chúng xuất hiện với chức năng dân chủ
hóa, thân mật hóa các mối quan hệ của văn học, đồng thời biểu hiện quan
niệmdđời thường hóa con người. Kết hợp với giọng điệu thản nhiên, suồng
sã không quan trọng hóa bất cứ điều gì, hệ thống các đại từ nhân xưng này
làm tăng thêm chất nghịch, chất hài cho văn chương.
3.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận
Trong thời đại bùng nổ thông tin, thời đại công nghệ cao và chuyển
động siêu tốc như hiện nay, ngôn ngữ trong văn xuôi cũng đòi hỏi tăng
cường tính tốc độ, thông tin. Tính tốc độ thể hiện ở lối vào truyện nhanh,
mạch truyện dồn dập. Đối thoại giữ vai trò quan trọng trong sự mở rộng cốt
truyện, dẫn dắt, liên tưởng tạo ra cảm giác căng của mạch truyện. Tính tốc
độ thể hiện ở lối liệt kê miên man, giản lược các lời bình luận, đánh gia, ở sự
đậm đặc các chi tiết như trong văn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài,…Tính tốc độ của ngôn ngữ phù hợp cho nhu cầu diễn đạt đời sống
thường nhật xô bồ, hỗn tạp, bề bộn lo toan, chồng chéo quan hệ như một
dòngy cảy sôi sục. Ưu thế về tốc độ trong ngôn ngữ cũng như trong sinh
hoạt thuộc về giới trẻ. Ý thức tốc độ giúp Phan Thị Vàng Anh viết cứ như
chơi mà diễn tả thật chính xác nhịp điệu sống, nhịp tâm lí và phù hợp với
mọi lứa tuổi: Sáng sơm, trời đùng đục, lành lạnh. Người nói sẽ mưa, người
nói không mưa, mẹ tôi và chị Tương đưa ra cái lí thuyết nhỡ dọc
đường…đến nơi thì ẩm ướt, hôi hám”. Tôi gắt: “Mưa sao được mà mưa,
cuối mùa rồi, cuối năm rồi, chọc cũng không ra nước”.Lữ không nói gì, đi
vòng quanh cây ổi, thỉnh thoảng giơ tay xem đồng hồ, mãi đến cuối chịu
không nổi cái đám phụ nữ tẩn mẩn, vô ích này, nó làm bộ lơ đãng hỏi tôi:
“Cúng đình lúc mấy giờ?”. Thế là vội vã kéo nhau đi thế là bà cụ quên kính,
chị Tương quên đem theo hai gói xí muội, còn tôi thừa cơ hội giả quên luôn
hai cái áo mưa ở nhà”. Phạm Thị Hoài dũng kĩ thuật loại bỏ các dấu câu, liệt
kê la liệt, đặt chen chúc bên cạnh nhau những sự vật, hiện tượng, khái niệm,
cảm giác không cùng mổ hệ thống để tạo tốc độ hoặc lối nói tắt trong sinh
hoạt.
Tăng cường tốc độ là tăng cường khả năng thông tin cho ngôn ngữ và
ngược lại tăng cường thông tin tất sẽ đòi hỏi tăng tốc độ. Đó là lí do xuất
hiện loại truyện cực ngắn, truyện mini. Tăng cường thông tin cũng chính là
biết sử dụng và dung nạp những thành phần ngôn ngữ mới.
Lượng thông tin đạt đến mức độ tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa
nghĩa, nhiều ngụ ý. Ngôn ngữ này sinh ra từ tính phức điệu đa thanh của tiểu
thuyết. Mặt khác ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng triết luận
ngày càng cao trong văn học. Thế hệ các cây bút trẻ muốn trình bày đời sống
qua chiều sâu cảm nhận cá nhân mà học sẵn lòng tin vào giá trị của nó, nên
họ cũng rất ưa triết luận. Có thể nói tăng cường tính triết luận là đặc điểm
nổi bật của văn xuôi thời kì đổi mới.
3.3. Sự đa dạng về giọng điệu
Giọng điệu như một phạm trù thẩm mĩ có ý nghĩa rất lớn trong việc
xác lập phong cách nhà văn. Giọng điệu làm thành bản sắc riêng của một
trào lưu, một trường phái hay một thời đại văn học. Nhìn đại thể văn xuôi
Việt Nam 1945 – 1975 tương đối nhất quán về giọng điệu: giọng khẳng
định, ngợi ca của một cái nhìn tin tưởng, lạc quan bao trùm. Giọng điệu nhất
quán phù hợp với yêu cầu thống nhất cao độ của cộng đồng, tuân thủ kinh
nghiệm của cộng đồng. Văn xuôi từ sau 1975, đặc biệt từ khi đổi mới chủ
yếu diễn đạt kinh nghiệm cá nhân, đáp ứng đòi hỏi cao về giá trị cá nhân. Ý
thức cá tính lên ngôi, cái nhàm tẻ, cái công thức, đơn điệu bị chế giễu bị coi
làt hiếu thẩm mĩ. Ví dụ: Tôi thích mọi thứ không phải nhà mình, ăn cơm nhà
khác, ngủ ở nhà khác, trèo lên cây ổi nhà khác vặt quả…đều thích hơn làm
tại nhà mình, thích hơn vì nó lạ mà tôi chỉ cần lạ. (Phan Thị Vàng Anh –
Mười ngày). Những giọng điệu thường gặp trong văn xuôi giai đoạn này đó
là:
Thứ nhất là giọng hoài nghi. Trong khoa học hoài nghi là động lực
phát triển còn trong nghệ thuật hoài nghi là tinh thần của tiểu thuyết. Có thể
ở một khái cạnh nào đó giọng hoài nghi khúc xạ tâm lí hẫng hụt, là âm vang
của một cuộc khủng hoảng xã hội. Trong giọng hoài nghi chứa đựng nỗi
khát khao nhân bản và niềm khao khát cái đẹp: “Trời ơi, mấy chục năm qua
sự cạnh tranh của đời sống khốc liệt thế nào mà cả những con người hiền
lành, thân thuộc với nhau cũng không thoát khỏi thói quen thường trực là
phải soi mói lẫn nhau, phải tìm ra sự khác biệt để đối lập nhau, trái ngược
hẳn với đời sống hòa bình vốn dĩ, nên bây giờ há miệng mắc quai”.
Thứ hai, bện cạnh để bổ sung cho giọng hoài nghi là giọng chất vấn,
đay đả. Giọng này thường đi với hành văn nửa nghiêm túc, nửa đùa cợt mỉa
mai, nhấn mạnh vào thành phần định ngữ mở rộng hay mệnh đề phụ của
câu., hoặc đi với những so sánh, liên tưởng tạt ngang có tính chất cường điệu
hay cực tả, xuất hiện khi tác giả có ý định đi tìm căn nguyên cái xấu. Ví dụ:
“Gạo vẫn đang lên đấy. Hai thành nay gạo đang lên chót vót ở cỡ hai ngàn
hai. Sờ lên gáy khắc biết xóm Chùa chưa hết thời qui ra gạo” (Đất xóm
Chùa)
Thứ ba, hứng thú nghiên cứu cùng trải nghiệm cá nhân và thái độ tự
tin về mình đemlại giọng điệu từng trải, lọc lõi. Điều này trước đây thường
thấy trong văn Nguyễn Khải, Từ sau năm 1975 rất nhiều cây bút trẻ cũng sử
dụng giọng điệu đó. Ví dụ: “Ở đời này người ta chỉ sẵn sàng chết rét, chết
đói, chết bom, chết đạn để che chở, nuôi nấng cho con em mình tai qua nạn
khỏi, con mình được sung sướng, vinh hoa, chứ không ai chịu tai tiếng, chịu
sỉ nhục để con mình được tự do theo ý nó” (Con chó và vụ li hôn – Dạ
Ngân)
Thứ tư, giọng điệu phổ biến nhất trong lớp nhà văn trẻ chính là giọng
giễu nhại.Tuổi trẻ nhạy cảm với cái mới lại nhập cuộc gần như với kinh tế
thị trường …họ công khai chống lại các nguyên tắc bảo thủ, lỗi thời, các qui
phạm, thói trịnh trọng cứng đờ, tính giáo huấn, những quan hệ xã giao đạo
đức giả,…Dường như không quá coi trọng văn chương của lớp đàn anh nên
họ đối xử với nó tự do hơn. Họ thích cười đùa hơn là tư lự, trang nghiêm.
Giọng giễu nhại có những biến thái khác đó là chất cay đắng tàn nhẫn.
Trong mươi năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc văn xuôi nước ta
mang giọng trần thuật chủ đạo là trầm tĩnh, khách quan. Từ giữa thập niên
tám mươi trở đi văn chương mang giọng phê phán, phân tích xã hội với sự
phát triển ồ ạt của dòng văn học chống tiêu cực. Sau đó giọng phê phán tràm
xuống hòa đồng với rất nhiều giọng khác. Giọng điệu văn xuôi thường mang
nhiều chất suy tư, khắc khoải nhiều chiêm nghiệm, tự vấn về thế sự nhân
sinh. Từ đầu thập kỉ chín mươi trở lại đây giọng giễu nhại và hoài nghi
chiếm ưu thế.
Tóm lại, ngôn ngữ văn học, vừa là yếu tố hình thức với ý nghĩa là chất
liệu, phương tiện của hình tượng, vừa là nội dung với ý nghĩa cá tính, cảm
quan, tư tưởng của nhà văn đã thật sự thay đổi. Cùng với sự vận động tư duy
văn học, ngôn ngữ văn xuôi hiện nay ngày càng sinh động, linh hoạt và giàu
chất đời thường.
KẾT LUẬN
“Sự đổi mới của văn học cũng như bao sự đổi mới khác là cả cuộc chuyển
động biện chứng lâu dài, khẳng định nó bắt đầu từ đâu kể cũng võ đoán”
(Hà Xuân Trường nhưng không thể phủ nhận sự đổi mới trong văn học sau
năm 1975 là có thật. Nó diễn ra như cuộc nhận đường sâu sắc và toàn diện:
từ ý thức nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ nhà văn đến công chúng độc
giả, từ bản chất chức năng văn học đến tư cách nghệ sĩ, từ tư tưởng đến thi
pháp, từ quan niệm đến chi tiết,… Hơn bốn thập kỉ đã trôi qua văn xuôi cũng
bộc lộ những cực đoan, ngộ nhận, không ít những thử nghiệm lạc hướng
hoặc không tới đích nhưng rõ ràng nó đã một diện mạo mới, trẻ trung, sinh
động nhờ tâm huyết và tài năng của biết bao người cầm bút.
Xác định những đặc điểm trong sự đổi mới của văn xuôi Việt Nam
sau năm 1975 là vấn đề vô cùng cần thiết nhất là với học sinh THPT hiện
nay. Chuyên đề này không chỉ giúp các em nắm được những đặc điểm cơ
bản về nghệ thuật của văn học thời kì đổi mới mà còn là công cụ giúp các
em định hướng tiếp nhận các tác phẩm mới hiện nay, đặc biệt khi đề thi
THPT quốc gia chú ý đến kĩ năng đọc hiểu, mở rộng phạm vi ra các văn bản
ngoài nhà trường. Tuy nhiên, chuyên đề mới chỉ đề cập đến một số những
đổi mới về phương diện nghệ thuật của văn xuôi từ sau năm 1975 đến
khoảng những năm chín mươi của thế kỉ, trong khi Đi qua một hành trình
dài với nhiều sự kiện hấp dẫn thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận nhiều
người nghệ sĩ vẫn sáng tạp không ngừng nên quá trình đổi mới vẫn đang tiếp
tục nên rất có thể những điều đề cập đến trong chuyên đề vẫn còn chưa đủ,
còn nhiều tranh cãi.
Trên đây chỉ là phác họa vài nét lớn trong sự đổi mới về phương diện nghệ
thuật của văn xuôi từ sau 1975.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bình, Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới
cơ bản, NXB Giáo dục, 2007.
2. Nguyễn văn Long – Lã Nhâm Thìn, Văn học Việt Nam sau năm
1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, 2009.
3. Nguyễn Văn Long, Nguyễn Thị Bình,…, Giáo trình văn học Việt
Nam hiện đại tập II, NXB Dại học Sư phạm, 2010.
- Xem thêm -