Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Câu phức trong tuyển tập nam cao...

Tài liệu Câu phức trong tuyển tập nam cao

.PDF
95
151
69

Mô tả:

1. Lí do chọn đề tài 1.1. Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có chức năng thông báo. Từ trước đến nay, vấn đề câu được nghiên cứu trên nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Với tư cách là một trong những kiểu câu được phân loại theo cấu tạo ngữ pháp, câu phức là một vấn đề luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ. Theo quan niệm được thừa nhận rộng rãi, câu phức là câu gồm từ hai cụm chủ vị trở lên. Câu phức được đặc trưng không chỉ bởi sự phức tạp về mặt cấu tạo, đa dạng về mặt ngữ nghĩa mà còn ở những đặc điểm đáng chú ý về mặt ngữ dụng. 1.2. Nói về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ văn chương trong đó có cách dùng từ đặt câu, không thể không nói đến Nam Cao, nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam. Ông không chỉ là nhà văn hiện thực kiệt xuất, có tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà còn là nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, có những đóng góp rất quan trọng về mặt sử dụng ngôn ngữ. 1.3. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về câu phức nhưng cho đến nay, theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu câu phức trong Tuyển tập Nam Cao theo hướng trên đây có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận lẫn thực tiễn. Về lí luận, kết quả nghiên cứu đề tài này góp phần bổ sung, làm phong phú lí thuyết cú pháp nói chung, lí thuyết về câu phức nói riêng với tư cách là đơn vị đa bình diện theo quan điểm của ngữ pháp chức năng. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc nghiên cứu và dạy học về ngữ pháp tiếng Việt. Chính vì những lí do trên đây, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài Câu phức trong Tuyển tập Nam Cao.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHẠM THỊ THÚY QUỲNH CÂU PHỨC TRONG TUYỂN TẬP NAM CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN- 2020 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHẠM THỊ THÚY QUỲNH CÂU PHỨC TRONG TUYỂN TẬP NAM CAO Ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM Mã số: 8.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MẠNH TIẾN THÁI NGUYÊN- 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020 Tác giả Phạm Thị Thúy Quỳnh i LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Nguyễn Mạnh Tiến, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong và ngoài trường Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020 Tác giả Phạm Thị Thúy Quỳnh ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỤC LỤC............................................................................................................iii DANH MỤC BẢNG .............................................................................................. v MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2 5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 2 6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 3 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN....... 4 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp ................ 4 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu phức trong tiếng Việt .................................. 8 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ trong Tuyển tập Nam Cao............... 12 1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 16 1.2.1. Khái quát về câu trong tiếng Việt ............................................................ 16 1.2.2. Câu phức .................................................................................................. 26 1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 31 Chương 2: CÂU PHỨC TRONG TUYỂN TẬP NAM CAO XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP ........................................................................................................ 32 2.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 32 2.2. Câu phức phụ thuộc trong Tuyển tập Nam Cao ......................................... 36 2.2.1. Đặc điểm chung của câu phức phụ thuộc ................................................ 36 2.2.2. Phân biệt câu phức phụ thuộc với câu đơn và câu phức đẳng lập........... 37 2.2.3. Các kiểu câu phức phụ thuộc................................................................... 42 iii 2.3. Câu phức đẳng lập ...................................................................................... 58 2.3.1. Đặc điểm chung của câu phức đẳng lập .................................................. 58 2.3.2. Các kiểu câu phức đẳng lập trong Tuyển tập Nam Cao .......................... 59 2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 62 Chương 3: CÂU PHỨC TRONG TUYỂN TẬP NAM CAO XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA ..................................................................................................... 63 3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 63 3.2. Đặc điểm chung về ngữ nghĩa của câu phức trong Tuyển tập Nam Cao ......... 63 3.2.1. Câu phức với số lượng sự tình được biểu thị .......................................... 64 3.2.2. Về tổ chức ngữ nghĩa của câu phức ........................................................ 67 3.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của câu phức phụ thuộc............................................. 69 3.3.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 69 3.3.2. Chức năng ngữ nghĩa của các cụm chủ vị trong câu phức phụ thuộc ..... 69 3.4. Đặc điểm ngữ nghĩa của câu phức đẳng lập ............................................... 81 3.5. Tiểu kết ....................................................................................................... 82 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 85 iv DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Các kiểu câu phức ......................................................................... 34 Bảng 2.2. Các kiểu câu phức phụ thuộc ........................................................ 35 Bảng 2.3. Các kiểu câu đẳng lập.................................................................... 35 Bảng 2.4. Tính trung gian của câu phức phụ thuộc ....................................... 37 v MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có chức năng thông báo. Từ trước đến nay, vấn đề câu được nghiên cứu trên nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Với tư cách là một trong những kiểu câu được phân loại theo cấu tạo ngữ pháp, câu phức là một vấn đề luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ. Theo quan niệm được thừa nhận rộng rãi, câu phức là câu gồm từ hai cụm chủ vị trở lên. Câu phức được đặc trưng không chỉ bởi sự phức tạp về mặt cấu tạo, đa dạng về mặt ngữ nghĩa mà còn ở những đặc điểm đáng chú ý về mặt ngữ dụng. 1.2. Nói về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ văn chương trong đó có cách dùng từ đặt câu, không thể không nói đến Nam Cao, nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam. Ông không chỉ là nhà văn hiện thực kiệt xuất, có tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà còn là nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, có những đóng góp rất quan trọng về mặt sử dụng ngôn ngữ. 1.3. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về câu phức nhưng cho đến nay, theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu câu phức trong Tuyển tập Nam Cao theo hướng trên đây có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận lẫn thực tiễn. Về lí luận, kết quả nghiên cứu đề tài này góp phần bổ sung, làm phong phú lí thuyết cú pháp nói chung, lí thuyết về câu phức nói riêng với tư cách là đơn vị đa bình diện theo quan điểm của ngữ pháp chức năng. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc nghiên cứu và dạy học về ngữ pháp tiếng Việt. Chính vì những lí do trên đây, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài Câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm câu phức trong Tuyển tập Nam Cao về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa; Qua đó, cung cấp nguồn tài liệu tham khảo có ý nghĩa về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt trong Nhà trường. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lí luận của đề tài. - Thống kê, phân loại câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. - Miêu tả, làm rõ đặc điểm về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa của câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là câu phức trong Tuyển tập Nam Cao xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả để làm rõ đặc điểm của câu phức trong Tuyển tập Nam Cao. Phù hợp với phương pháp miêu tả, đề tài sử dụng các thủ pháp thống kê, phân loại, phân tích ngữ pháp, ngữ nghĩa. 5. Đóng góp của luận văn 5.1. Về mặt lí luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ đặc điểm của câu phức trong Tuyển tập Nam Cao dưới các bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa; qua đó, góp phần bổ sung, làm phong phú lí thuyết về cú pháp nói chung, lí thuyết về câu phức nói riêng trên cứ liệu văn bản văn học của một tác giả cụ thể nhìn từ quan điểm ngữ pháp chức năng. 2 5.2. Về mặt thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo hữu ích có ý nghĩa đối với việc dạy học tiếng Việt trong nhà trường. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2: Câu phức trong Tuyển tập Nam Cao xét về mặt ngữ pháp Chương 3: Câu phức trong Tuyển tập Nam Cao xét về mặt ngữ nghĩa 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu tiếng Việt theo cấu tạo ngữ pháp 1.1.1.1. Các công trình theo khuynh hướng truyền thống Trong việc phân tích câu về mặt cấu tạo ngữ pháp, khuynh hướng truyền thống luôn giữ vai trò chủ đạo với những công trình tiêu biểu của các tác giả như Hoàng Tuệ (1962, [54]), Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963, [15]), Nguyễn Kim Thản (1964, [55]), I.X.Bưxtrov, Nguyễn Tài Cẩn, N.V Stankevich (1975, [12]), Hoàng Trọng Phiến (1980, [40]), Diệp Quang Ban (1984, [7])… Theo sự tổng kết của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến, nét chung đồng thời cũng là nét cơ bản của cách phân tích câu truyền thống là thừa nhận chủ ngữ, vị ngữ là hai thành phần chính (nòng cốt) của câu và ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ vị ngữ, câu còn có các thành phần phụ như bổ ngữ, trạng ngữ, định ngữ,…Cách phân tích câu trên quan niệm trên đây có tính phổ biến nhất không chỉ trong Việt ngữ học mà cả trong ngôn ngữ học nước ngoài. Về ưu điểm, cách phân tích câu theo truyền thống đã phản ánh tương đối đầy đủ và trung thực tổ chức cú pháp của câu. Nó đã đưa ra được một bức tranh về thành phần câu tương đối phù hợp với cảm nhận của người bản ngữ. Về mặt thực tiễn, hệ thống khái niệm ngữ pháp nói chung và hệ thống thành phần câu nói riêng của ngữ pháp học truyền thống đã giúp cho người học nắm được một cách khá thuận lợi tổ chức ngữ pháp của câu và có thể vận dụng một cách có hiệu quả trong nói, viết. Tuy nhiên, theo Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến, cách phân tích câu theo truyền thống cũng còn có những hạn chế nhất định; cụ thể, quan niệm truyền thống chưa đưa ra được sự miêu tả một cách không mâu thuẫn hệ thống thành phần câu và vẫn chưa có được cả cách định nghĩa một cách không mâu thuẫn thành phần câu như là thể thống nhất của nội dung và hình thức của nó” [37, 193]. 1.1.1.2. Những công trình theo hướng tìm tòi mới 4 Trong các công trình nghiên cứu về câu theo hướng tìm tòi mới, công trình nghiên cứu của Cao Xuân Hạo là một hướng tìm tòi đáng chú ý. Là người đầu tiên áp dụng một cách triệt để quan hệ đề - thuyết vào việc phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt, trong công trình “Tiếng Việt - Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” (1991) Cao Xuân Hạo cho rằng cần phải thay cách phân tích câu tiếng Việt theo quan hệ chủ - vị mà theo tác giả là đã bê nguyên xi từ tiếng Pháp vào tiếng Việt do tư tưởng “dĩ Âu vi trung” bằng cách phân tích theo quan hệ đề - thuyết cho phù hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề. Ảnh hưởng tư tưởng của Ch.L.Li và S.A Thompson về tính thiên chủ đề của một số ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt, trong công trình Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991), Cao Xuân Hạo không thừa nhận cấu trúc chủ vị là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Theo ông, cấu trúc cú pháp cơ bản và duy nhất của câu tiếng Việt là cấu trúc đề thuyết. Có thể coi công trình trên đây của Cao Xuân Hạo là sự mở đầu cho một hướng mới trong nghiên cứu câu tiếng Việt: hướng nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao tiếp, thông báo) mà trước đó còn ít được chú ý. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn, cách phân tích câu, phân loại câu theo đề thuyết mà Cao Xuân Hạo chủ trương không loại trừ và thay thế cách phân tích theo bình diện cú pháp như một số tác giả đã chỉ ra [32;1 - 15]. Hồ Lê cũng chủ trương phân tích câu theo đề thuyết với việc dựa vào các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trực tiếp tạo nên cấu trúc câu. Theo ông, ngoài câu một thành phần hay câu gọi tên (Ví dụ: Mùa hạ.),tất cả các câu hai thành phần đều có cấu tạo đề thuyết và bao gồm bốn kiểu: - Câu chủ - vị (chủ ngữ - vị ngữ). Ví dụ: (1) Ông Ba đi họp. - Câu đề - ứng (đề ngữ - ứng ngữ). Ví dụ: (2) Quyển sách này, ông Ba mới mua. - Câu cách thức - hành động (thức ngữ - hành động ngữ). 5 Ví dụ: (3) Một cách chậm rãi, ông Ba bắt đầu kể chuyện. - Câu điều kiện - hệ quả (điều kiện ngữ - hệ quả ngữ). Ví dụ: (4) Nhờ gia đình chăm sóc tốt nên ông Ba chóng bình phục [37, 3637]. Có thể nhận thấy những đề xuất trên đây chưa thật sự xuất phát từ bản chất cú pháp của câu và thành phần câu (từ ý nghĩa cú pháp và hình thức cú pháp tương ứng) và chính điều đó không cho phép phân biệt các biến thể khác nhau của một kiểu câu. (Ví dụ: Ông Ba mới mua quyển sách này => Quyển sách này, ông Ba mới mua). Trần Ngọc Thêm, mặc dù, cũng sử dụng cặp đề - thuyết để phân tích câu nhưng khác với các tác giả khác, ông vẫn sử dụng các khái niệm truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Tác giả cho rằng cặp chủ đề - thuật đề (cặp đề - thuyết) không đồng nhất với cặp chủ ngữ - vị ngữ cũng như cặp nêu báo (cái đã biết - cái mới) [53, 48-50]. Với việc đưa các khái niệm đề - thuyết vào việc phân tích câu mà vẫn giữ lại các khái niệm truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ,…, cách phân tích của Trần Ngọc Thêm đã gợi mở một hướng nghiên cứu phù hợp theo đó, cấu trúc của câu như là đơn vị đa bình diện có thể được xem xét đồng thời theo các bình diện khác nhau (bình diện cú pháp, bình diện ngữ nghĩa, bình diện giao tiếp). Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, V.S. Panfilov có cách nhìn nhận có nhiều điểm khác với cách nhìn nhận truyền thống. Xem xét vấn đề hệ thống thành phần tiếng Việt, V.S.Panfilov quan niệm “thành phần câu là phạm trù chức năng, đó là yếu tố có quan hệ hình thái - ngữ nghĩa với vị ngữ hoặc với toàn bộ câu” [39, tr.75]. Theo quan niệm này, hệ thống thành phần câu được V.S. Panfilov xác định gồm các thành phần tiêu biểu như chủ ngữ, trạng ngữ, định ngữ của vị ngữ và bổ ngữ. Vị ngữ mặc dù được coi là đỉnh cú pháp của câu nhưng không được xếp vào số các thành phần câu. Quan niệm trên đây của V.S. Panfilov thể hiện 6 cách nhìn sâu sắc đối với vấn đề cú pháp nói chung, vấn đề thành phần câu nói riêng. Gần đây, trong Cuốn Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã có những đề xuất mới mẻ nhằm giải quyết triệt để hơn vấn đề thành phần câu tiếng Việt [50]. Công trình này là một dấu mốc quan trọng trong việc giải quyết vấn đề thành phần câu tiếng Việt. Tuy nhiên, theo nhận xét của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến, cách xác định, phân tích thành phần câu thiên hẳn về mặt hình thức của các tác giả, xét về mặt lý thuyết cũng như khả năng vận dụng vào thực tiễn phân tích cú pháp, cũng còn những hạn chế nhất định như Tomita Kenji đã nhận xét trong lời giới thiệu về công trình này [37, tr.195]. 1.1.1.3. Lí thuyết kết trị và việc phân tích câu theo kết trị của từ a) Khái niệm kết trị (valence) của động từ Người khởi xướng lí thuyết kết trị là L. Tesniere, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Pháp. Theo L.Tesniere: “Có thể hình dung động từ ở dạng như nguyên tử với những cái móc có thể hút vào mình một số lượng nhất định diễn tố phù hợp với số lượng móc mà nó có để giữ bên mình các diễn tố này - số lượng các móc có ở động từ và số lượng diễn tố mà nó có khả năng chi phối lập thành bản chất của cái mà chúng tôi sẽ gọi là kết trị của động từ (valence verbe)” [18, 250]. Ở Việt Nam, lí thuyết kết trị lần đầu tiên đã được nghiên cứu có hệ thống trong chuyên luận Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc. Trong công trình này, tác giả hiểu kết trị của động từ là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi các thành tố cú pháp (các thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định [37, 34]. b) Các công trình vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp 7 Sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã nhanh chóng được phổ biến và được áp dụng rộng rãi vào việc phân tích ngữ pháp nói chung, câu nói riêng. Những tư tưởng, khái niệm, thuật ngữ của lí thuyết kết trị xuất hiện phổ biến trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng như: M.D.Stepanova (1973), O.I. Moskanskaja (1974), G. Helbig (1978), (Dẫn theo [37, 201]) Trong Việt ngữ học, lí thuyết kết trị và cách vận dụng lí thuyết này vào việc nghiên cứu ngữ pháp nói chung, câu nói riêng đã được đề cập đến trong các công trình của Cao Xuân Hạo [28], Nguyễn Thị Quy [42], Đinh Văn Đức ([26, Nguyễn Văn Lộc [37;64]), Nguyễn Văn Hiệp [29], Lâm Quang Đông [16] và một số tác giả khác. Tuy nhiên, ở hầu hết các tác giả này, lí thuyết kết trị và việc vận dụng vào phân tích ngữ pháp chủ yếu được đề cập khi xem xét, miêu tả vị từ hoặc mặt ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện) của câu. Chỉ đến công trình của Nguyễn Mạnh Tiến (2016, Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ [51]), vấn đề vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp mới thực sự được đặt ra và được xem xét một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tài liệu này cũng là một trong những cơ sở được dựa vào để triển khai một số nội dung quan trọng của luận văn. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu phức trong tiếng Việt 1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau trong việc phân loại câu Nhìn chung, khi phân loại câu theo mức độ phức tạp về cấu tạo, các tác giả đều dựa vào cụm chủ vị (mệnh đề). Tuy nhiên, cách phân loại cụ thể ở các tác giả có sự khác nhau. Có thể chỉ ra ba cách phân loại chính sau đây: a) Phân loại dựa đơn thuần vào số lượng cụm chủ vị Theo cách này, câu được chia thành hai loại: câu đơn và câu phức. Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ vị. Ví dụ: (5) Nó ngủ. (6) Tôi đọc sách. Câu phức là câu bao gồm hai cụm chủ vị trở lên. Ví dụ: (7) Nó ngủ, còn tôi đọc sách. 8 (8) Khi nó ngủ, tôi đọc sách. ([32, 273], [37, 206 - 207]) Ưu điểm của cách phân loại này là đơn giản, tiện lợi và cho phép vạch được ranh giới rõ ràng, dứt khoát giữa câu đơn và câu phức. Tuy nhiên, những tác giả không ủng hộ giải pháp này cho rằng cách này có hạn chế là chưa tính đến vai trò của các cụm chủ vị (sự phân biệt cụm nòng cốt, cụm không nòng cốt). b) Phân loại dựa vào số lượng cụm chủ vị nòng cốt Cụm chủ vị nòng cốt được hiểu là cụm chủ vị không bị bao chứa trong một cụm từ khác, tức là không làm thành phần của câu hay của từ tổ [37, 525]. Theo cách này, câu cũng được chia thành hai loại: câu đơn (câu đơn giản) và câu phức (câu phức hợp). Câu đơn giản là câu chỉ có một cụm chủ vị nòng cốt. Ví dụ: (9) Nó đến. (10) Người anh cần gặp đã đến. (11) Tôi ngỡ nó đến. Câu phức hợp là câu có từ hai cụm chủ vị nòng cốt trở lên. Ví dụ: (12) Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. (13) Vì tên Dậu là thân nhân của hắn cho nên chúng con bắt phải nộp thay. (Ngô Tất Tố) Cách phân loại này có ưu điểm là đã tính đến vai trò của các cụm chủ vị (phân biệt cụm chủ vị nòng cốt với cụm chủ vị không nòng cốt) nhưng cách phân loại này lại bị phê phán ở chỗ không tính đến sự khác nhau về số lượng cụm chủ vị (theo cách này, câu đơn có thể gồm cả những câu có hai hoặc hơn hai cụm chủ vị). Ví dụ: (14) Tôi tin rằng kế hoạch chúng ta đề ra sẽ hoàn thành đúng thời hạn. (15) Lí tưởng là cái vì nó mà người ta sống, dưới ánh sáng của nó, người ta thấy ý nghĩa cuộc đời. c) Phân loại dựa vào cả số lượng cụm chủ vị lẫn số lượng cụm chủ vị nòng cốt 9 Theo cách này, câu được chia thành ba loại: câu đơn, câu phức và câu ghép [37, 289 - 302]. Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ vị. Ví dụ: (16) Bé ngủ. Câu phức là câu gồm từ hai cụm chủ vị trở lên trong đó chỉ có một cụm chủ vị nòng cốt. Ví dụ: (17) Cuốn sách tôi vừa mua rất hay. (18) Tôi tin rằng nó sẽ đến. Câu ghép là câu gồm từ hai cụm chủ vị nòng cốt trở lên. Ví dụ: (19) Nếu tục ngữ thiên về trí tuệ thì ca dao lại thiên về tình cảm. (20) Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. (Hồ Chí Minh) Cách phân loại này được đánh giá là đã chú ý đến cả mặt số lượng lẫn mặt vai trò, chức năng của các cụm chủ vị (kết hợp, dung hòa hai cách trên đây). Tuy vậy, ở cách phân loại này cũng có những hạn chế nhất định (thể hiện ở cách dùng thuật ngữ cũng như ở việc xác định khái niệm cụm chủ vị nòng cốt như sẽ được chỉ ra ở dưới đây). Bên cạnh ba cách phân loại phổ biến và khá quen thuộc trên đây, còn có một vài cách phân loại trong đó có sự điều chỉnh, bổ sung nhất định đối với một trong những cách phân loại đã giới thiệu trên đây. Chẳng hạn, ở cách phân loại của Hoàng Trọng Phiến, bên cạnh câu đơn (câu có một cụm chủ vị hay một trung tâm tính vị ngữ [40, 104]) và câu ghép (câu gồm hai cụm chủ vị hay hai trung tâm tính vị ngữ trở lên có tính độc lập tương đối [40, 205]) còn có câu trung gian (câu có cụm chủ vị làm thành phần câu [40, 189 - 191]). Theo cách phân loại của Nguyễn Văn Hiệp, câu cũng được chia thành: câu đơn, câu phức, câu ghép. Câu đơn được hiểu là những câu chỉ có một cụm chủ vị nòng cốt (các cụm chủ vị còn lại nếu có chỉ là thành phần không nòng cốt như định ngữ, trạng ngữ). Ví dụ: (21) Tôi biết nó. 10 (22) Người mà chúng ta vừa gặp là nhà văn. Câu phức là câu có ít nhất một trong những thành phần nòng cốt (các thành phần tham gia nòng cốt câu như chủ ngữ, bổ ngữ, vị ngữ) có dạng là kết cấu chủ vị. Ví dụ: (23) Cô ấy làm thế rất đúng. (24) Tôi muốn anh giúp một tay. Câu ghép là câu có ít nhất hai cụm chủ vị trở lên có quan hệ với nhau về logic - ngữ nghĩa và mối quan hệ này có thể được đánh dấu hoặc không đánh dấu. Ví dụ: (25) Gái có công, chồng chẳng phụ. (26) Giá tôi có tiền thì tôi đã mua ô tô. Như vậy, theo cách phân loại trên đây của Nguyễn Văn Hiệp, những câu có cụm chủ vị làm thành phần câu được tách ra thành hai nhóm: nhóm những câu có cụm chủ vị làm định ngữ, trạng ngữ thuộc về câu đơn; còn nhóm những câu có cụm chủ vị là chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ lại thuộc về câu phức. Khái niệm câu đơn, câu phức theo cách phân loại này lại trở nên phức tạp hơn. Qua sự trình bày trên đây, có thể phần nào thấy tính phức tạp của sự đối lập giữa các loại, kiểu câu về mặt cấu tạo và kéo theo điều đó là những khó khăn, phức tạp của việc phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp. 1.1.2.2. Nhận xét đánh giá về cách phân loại câu theo độ phức tạp về cấu tạo Trong ba cách phân loại trên đây, chúng tôi nhận thấy cách phân loại thứ nhất tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn. Theo cách này, trước hết, câu bình thường được chia dựa vào số lượng cụm chủ vị thành hai loại: câu đơn (câu đơn giản) và câu phức (câu phức hợp). Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ vị. Ví dụ: (27) Nam chạy. (28) Nam viết thư. Câu phức là câu bao gồm hai cụm chủ vị trở lên. 11 Ví dụ: (29) Ngôi nhà Hoàng ở rất rộng. (30) Tôi biết anh ấy là người tốt. Ở bước tiếp theo, câu đơn và câu phức sẽ được chia tiếp thành những kiểu cụ thể dựa vào những tiêu chí nhất định. Chẳng hạn, câu đơn sẽ được chia tiếp dựa vào đặc điểm chi phối của vị từ - vị ngữ đối với các thành phần bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) thành các kiểu với các mô hình cú pháp (mô hình kết trị) đặc trưng được xác định trên cơ sở thuộc tính cú pháp của vị từ - vị ngữ. Câu phức được chia tiếp dựa vào vai trò, chức năng của các cụm chủ vị thành: câu phức phụ thuộc (câu phức chỉ có một cụm chủ vị chính hay một cụm chủ vị nòng cốt) và câu phức đẳng lập (câu phức gồm từ hai cụm chủ vị chính hay hai cụm chủ vị nòng cốt trở lên). Theo chúng tôi, ưu điểm của cách phân loại này là: - Đơn giản, tiện lợi, dễ áp dụng. - Phản ánh được rõ sự đối lập theo độ phức tạp về cấu tạo ngữ pháp giữa các loại câu thể hiện ở cả mặt số lượng cụm chủ vị lẫn vai trò, chức năng của các cụm chủ vị. - Giúp khắc phục được những hạn chế của các cách phân loại thứ hai và ba như đã chỉ ra. 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ trong Tuyển tập Nam Cao Trong số các tác giả hàng đầu của văn xuôi hiện thực giai đoạn văn học 1930 - 1945, Nam Cao đến với làng văn không sớm nhưng các tác phẩm của ông đều để lại ấn tượng rõ nét trong lòng độc giả. Không chỉ mới mẻ trong kết cấu, văn Nam Cao còn tạo sức hấp dẫn bền lâu ở việc sử dụng ngôn ngữ. Tuổi thơ cũng như gần như cả cuộc đời ông gắn liền với nông thôn và dân nghèo thành thị cho nên các tác phẩm của ông gắn liền với người nông dân, người dân nghèo thành thị và trí thức tiểu tư sản. Đặt sáng tác của Nam Cao trong bối cảnh văn xuôi 1930 - 1945, chúng ta nhận ra Nam 12 Cao có lối đi riêng. Nếu Thạch Lam đi tìm cái đẹp để khám phá và phát hiện; Vũ Trọng Phụng mổ xẻ đến tận cùng cái ung nhọt của xã hội đến mức cực đoan; Khái Hưng, Nhất Linh nhiều phần thi vị hóa cuộc sống… thì Nam Cao thể hiện một ngòi bút tỉnh táo, đúng mực khi nhìn nhận hiện thực. Đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về phong cách nghệ thuật và ngôn ngữ trong tác phẩm của Nam Cao. Có thể tóm lược như sau: Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự của Nam Cao, tác giả Chu Bích Thu trong bài “Sức sống của một sự nghiệp văn chương” đã viết “…trong văn Nam Cao, một thứ văn xuôi tự nhiên như lời ăn tiếng nói hằng ngày mà soi kỹ lại thấy chữ nghĩa rất chỉnh, tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả hòa quyện, đan xen tạo nên một thế giới đa thanh, phức điệu mà chỉ văn xuôi hiện đại mới có”[57; 33]. Trong bài viết của mình, tác giả Bích Thu còn nhấn mạnh: “Ngôn ngữ của tác phẩm Nam Cao là sự hòa âm, phối hợp của nhiều loại ngôn ngữ khác nhau”.Tác giả cũng đã đưa ra quan điểm về hai khía cạnh là ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại, qua đó, chỉ ra cái tài của Nam Cao. Trong sử dụng ngôn ngữ đối thoại, về ngôn ngữ đối thoại, Bích Thu viết: “Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi đời thường, ngoài việc thực hiện chức năng tự sự còn là để khắc họa tính cách và nội tâm nhân vật” [57;33]. Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, chúng ta cũngcần nhìn nhận về giá trị của ngôn ngữ độc thoại thể hiện nội tâm của nhân vật. Đề cập đến vấn đề này, Bích Thu viết “Nam Cao có nhiều đóng góp cho việc miêu tả lời thoại nội tâm, đặc biệt trong sự tiếp thu một cách sáng tạo chắt lọc phương pháp dòng ý thức của văn học phương Tây trong sáng tác, tạo điều kiện vào đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, khiến nhân vật đối diện với chính mình, tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận ngầm, bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về một vấn đề đang được quan tâm: nhân cách trong cuộc đời, trong sáng tạo nghệ thuật” [57;33]. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan