Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VU ÁN ĐÂN SỰ...

Tài liệu KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VU ÁN ĐÂN SỰ

.DOC
30
382
51

Mô tả:

Giúp cho các Luật sư trao đổi và để hiểu sâu hơn về kỹ năng tranh tụng của Luật sư trong vụ án dân sự, trang bị các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết cho các Luật sư trong việc xác định ngay từ khi khách hàng đặt vấn đề bảo vệ quyền lợi cho họ (có thể từ khi bắt đầu khởi kiện hay bất kỳ giai đoạn tố tụng nào). Như vậy, với Luật sư tranh tụng kỹ năng từ giai đoạn khởi kiện đến kỹ năng thu thập chứng cứ phân tích, đánh giá, sử dụng chứng cứ, kỹ năng viết bản luận cứ, kỹ năng chuẩn bị các việc liên quan đến trước khi ra phiên tòa, kỹ năng tại phiên tòa sơ thẩm và kỹ năng của Luật sư trong giai đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm thực sự là cần thiết. Xuất phát từ mục đích đó, trong khuôn khổ bài viết này tôi muốn giới thiệu thêm một số kỹ năng cơ bản trong tranh tụng dân sự chúng ta hãy cùng tìm hiểu, trao đổi để có kỹ năng tranh tụng tốt hơn đối với các vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng ngày càng đạt được hiệu qủa.
KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ Mục đích Giúp cho các Luật sư trao đổi và để hiểu sâu hơn về kỹ năng tranh tụng của Luật sư trong vụ án dân sự, trang bị các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết cho các Luật sư trong việc xác định ngay từ khi khách hàng đặt vấn đề bảo vệ quyền lợi cho họ (có thể từ khi bắt đầu khởi kiện hay bất kỳ giai đoạn tố tụng nào). Như vậy, với Luật sư tranh tụng kỹ năng từ giai đoạn khởi kiện đến kỹ năng thu thập chứng cứ phân tích, đánh giá, sử dụng chứng cứ, kỹ năng viết bản luận cứ, kỹ năng chuẩn bị các việc liên quan đến trước khi ra phiên tòa, kỹ năng tại phiên tòa sơ thẩm và kỹ năng của Luật sư trong giai đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm thực sự là cần thiết. Xuất phát từ mục đích đó, trong khuôn khổ bài viết này tôi muốn giới thiệu thêm một số kỹ năng cơ bản trong tranh tụng dân sự chúng ta hãy cùng tìm hiểu, trao đổi để có kỹ năng tranh tụng tốt hơn đối với các vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng ngày càng đạt được hiệu qủa. Yêu cầu - Giới thiệu một cách hệ thống các kỹ năng của Luật sư từ khi giúp khách hàng quyết định khởi kiện, kỹ năng xác định quan hệ tranh chấp; kỹ năng hòa giải; kỹ năng thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ; kỹ năng viết bản luận cứ cho đến kỹ năng tranh tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và trong giai đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm; - Đề cập được các đặc thù trong kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm; - Nêu cách thức xử lý một số tình huống phát sinh tại phiên tòa dân sự sơ thẩm và phúc thẩm nhằm trang bị thêm kinh nghiệm nghề nghiệp cho các Luật sư; 1 - Trang bị kỹ năng soạn thảo đơn kháng cáo, nộp đơn kháng cáo và chuẩn bị tranh tụng giai đoạn phúc thẩm; - Trang bị kỹ năng của Luật sư trong việc xác định những điều kiện giám đốc thẩm, tái thẩm và giúp khách hàng viết đơn khiếu nại. I. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRANH TỤNG TRƯỚC KHI THAM GIA PHIÊN TÒA. Trong giai đoạn này có thể nói Luật sư tranh tụng đã phải đảm trách một số công việc của Luật sư tư vấn. Tuy vậy, cần phân biệt là Luật sư tranh tụng làm các công việc hướng dẫn đương sự trước khi tham gia phiên tòa là một phần việc cần phải làm. Có thể xây dựng các công việc của Luật sư tranh tụng trước phiên tòa theo bốn hướng sau đây: - Hướng dẫn đương sự trong việc quyết định khởi kiện hay không khởi kiện; - Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện; - Hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ; - Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án. 1. Hướng dẫn đương sự trong việc quyết định khởi kiện hay không khởi kiện. Việc khởi kiện hay không khởi kiện thuộc quyền tự định đoạt của các đương sự. Trong nhiều trường hợp đương sự cũng không tự quyết định được có nên khởi kiện hay không. Điều đó ảnh hưởng nhiều đến việc quyết định lợi ích của chính bản thân họ. Có nghĩa là trong trường hợp cụ thể đó, việc họ khởi kiện thì có lợi hay không có lợi. Khả năng thắng kiện của họ đến đâu và khả năng của bản án được đưa vào thi hành trong thực tế như thế nào? Tóm lại, các đương sự quan tâm là họ được lợi bao nhiêu hay không được lợi gì trong trường hợp họ khởi kiện ra trước Tòa án. Luật sư 2 phải giúp đương sự thực sự hiểu rõ nếu họ khởi kiện thì khả năng họ được lợi sẽ là bao nhiêu phần trăm cũng như nếu họ không khởi kiện thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được bảo vệ như thế nào. Luật sư là người không những chỉ nắm bắt pháp luật mà còn hiểu được trạng thái tâm lý khách hàng của mình. Không nên chỉ khởi kiện vì một mục đích là thỏa mãn tính kiêu ngạo và tính hiếu thắng của khách hàng. Ở đây có thể xảy ra những tình huống khác nhau: + Có thể khách hàng muốn khởi kiện nhưng Luật sư thấy không cần thiết, có thể giải quyết tranh chấp bằng con đường khác; + Có thể Luật sư cho rằng cần phải khởi kiện nhưng khách hàng chưa thực sự thấy cần thiết; + Có thể khách hàng muốn khởi kiện nhưng “mặc cả” với Luật sư là phải thắng được đối phương, trong khi Luật sư không bảo đảm là sẽ thắng; Kể cả trong trường hợp trên Luật sư đều phải phân tích từ các khía cạnh pháp lý để đương sự tự nhận thức được việc khởi kiện hay không khởi kiện là cần thiết. Cần lưu ý đương sự rằng khởi kiện là một quyền của họ nhưng họ có thể không thực hiện quyền đó mà vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngược lại, trong một số trường hợp cần lý giải để đương sự thấy rằng khởi kiện là một quyền của họ và nếu họ không thực hiện quyền đó thì không còn phương cách nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như nếu họ không thực hiện ngay quyền đó thì quyền đó cũng có thể bị mất đi cùng với thời gian (Ví dụ: hết thời hiệu khởi kiện). Sau khi đã hướng dẫn đương sự để đương sự quyết định khởi kiện hay không khởi kiện thì Luật sư cần tiếp tục thực hiện những công việc tiếp theo. Trong trường hợp đương sự quyết định không khởi kiện ra trước Tòa án mà lựa chọn một phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác thì Luật sư cũng phải hướng dẫn đương sự thực hiện theo hướng đó. Ví dụ: Khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp đương sự quyết định khởi kiện ra trước Tòa án có 3 thẩm quyền thì Luật sư cần tiếp tục hướng dẫn hoặc giải thích cho các đương sự một số vấn đề sau: + Thời hiệu khởi kiện; + Thẩm quyền giải quyết vụ án: Khởi kiện ra trước Tòa án nào; + Đã có đầy đủ các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng hay chưa, cần bổ sung thêm những chứng cứ nào nữa; + Thời gian tối đa do luật định để xem xét và giải quyết vụ án này là bao nhiêu; + Án phí như thế nào; + Dự liệu trước những khó khăn và thuận lợi nếu thực hiện việc khởi kiện; + Họ cần phải chuẩn bị những điều kiện gì để tham gia tố tụng được tốt. 2. Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện. Đơn kiện là một văn bản có giá trị tố tụng rất lớn. Đơn kiện thể hiện yêu cầu chính đáng của đương sự trong vụ án mà họ yêu cầu Tòa án giải quyết. Đơn kiện còn là văn bản trong đó nguyên đơn trình bày quá trình diễn biến của vụ án cũng như những lý lẽ, tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn dùng để làm căn cứ. Thông thường đương sự khi viết cho mình một đơn khởi kiện, họ thường bỏ qua các yếu tố về hình thức mà chủ yếu chỉ muốn yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết yêu cầu của mình. Một đơn kiện như thế có thể không bao hàm hết những nội dung mà nguyên đơn muốn trình bày. Đơn kiện đó cũng không có ý nghĩa tạo ra một sự chú ý từ phía Tòa án. Vì vậy, Luật sư phải giúp đương sự viết đơn hoặc tự mình viết đơn cho đương sự để ít nhất một đơn kiện phải thể hiện được các nội dung theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS. 4 Đơn khởi kiện có thể viết tay. Tuy vậy, Luật sư cần hướng dẫn đương sự viết rõ ràng và tốt nhất nên đánh máy. Sau khi đương sự đã viết xong đơn khởi kiện hoặc Luật sư đã viết xong đơn khởi kiện cho đương sự, Luật sư và đương sự cần ngồi với nhau để xem lại lần cuối cùng trước khi gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền. 3. Hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ. Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được tốt, đương sự cần chuẩn bị cho mình những chứng cứ cần thiết. Những chứng cứ đó đương sự phải tự mình thu thập. Các chứng cứ mà đương sự có thể tự thu thập được thông thường bao gồm: Các hồ sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản, ví dụ: các bản hợp đồng, các bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh … Có một số giấy tờ, tài liệu hoặc chứng cứ đương sự phải tự mình thu thập thông qua các cơ quan chính quyền ở địa phương, ví dụ: giấy xin xác nhận hộ khẩu thường trú, giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về một sự kiện pháp lý nào đó. Trong một vụ án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác nhau. Luật sư cần hướng dẫn các đương sự nắm bắt được sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn của mình. Thông thường chứng cứ có thể được sắp xếp theo thứ tự ngày tháng, nội dung hoặc theo hình thức của chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ là bản gốc duy nhất, Luật sư cần hướng dẫn các đương sự photo công chứng lại các bản gốc. Tất cả các chứng cứ mà đương sự đã thu thập được nhất thiết phải được nhân ra làm hai bản trở lên. Một bản để nộp cho Tòa án, bản còn lại do Luật sư hoặc đương sự giữ. Việc cung cấp các chứng cứ đã thu thập được cho Tòa án vào thời điểm nào do Luật sư quyết định. 4. Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Luật sư cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần 5 lượt cung cấp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào là một quyết định có tính chất chiến lược. Có những chứng cứ cần thiết phải được cung cấp ngay để thông qua Tòa án nội dung của chứng cứ đó được chuyển tải cho phía bên kia. Tuy vậy, có những chứng cứ nếu cung cấp ngay cho Tòa án và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho mình. Vì vậy cần cân nhắc kỹ cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào, Luật sư sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong trường hợp này. 4.1. Cung cấp chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Đây là giai đoạn rất quan trọng, trong đó Tòa án tiến hành các bước cần thiết để thu thập chứng cứ và bước đầu đánh giá chứng cứ. Bên cạnh các chứng cứ do phía mình cung cấp còn có các chứng cứ do đối phương cung cấp. Để làm rõ các yêu cầu của mình và phản bác các yêu cầu của đối phương Luật sư cần hướng dẫn để các đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các chứng cứ với mục đích trên. Những chứng cứ chưa thực sự cần thiết phải cho đối phường biết nên khuyên đương sự chưa cung cấp cho Tòa án vội. Mặt khác Luật sư cần chuẩn bị cho đương sự các bài giải trình. Các bài giải trình này cần trình bày ngắn gọn và nên đi vào trọng tâm của vấn đề. Mỗi một bài giải trình cần đặt ra cho mình một mục tiêu cụ thể, có nghĩa là: mỗi một bài giải trình cần giải quyết dứt điểm một vấn đề. Cùng với việc giải trình cần thu thập và cung cấp cho Tòa án những văn bản tài liệu có liên quan. Các văn bản, tài liệu này giúp Tòa án nhìn nhận vấn đề một cách chính xác và có hiệu quả. Nếu biết được các lập luận của đối phương thì cũng cần thiết phải chuẩn bị các bài giải trình để phản bác lại các lập luận đó. Các phản bác nên ngắn gọn, sắc bén, có tính thuyết phục và phải luôn được phân tích, nhìn nhận từ góc độ pháp lý. Khi cung cấp chứng cứ cho Tòa án nên thể hiện rõ quan điểm của mình là chứng cứ này dùng để chứng minh cho yêu cầu nào của mình và tại sao? Cũng cần đề xuất luôn phương án để Tòa án xem xét. 4.2. Cung cấp chứng cứ tại phiên tòa. 6 Tại phiên tòa các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ, nguyên đơn có quyền thay đổi nội dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu. Tuy vậy, bởi vì các phần việc của Tòa án nói chung đã được chuẩn bị kỹ trước khi Tòa án mở phiên tòa do đó việc cung cấp thêm chứng cứ mới của đương sự không nên làm xáo trộn các công việc chuẩn bị của Tòa án trước đó. Các chứng cứ cung cấp tại phiên tòa có thể là những chứng cứ mà đương sự đã thu thập được trước đó nhưng chưa cung cấp cho Tòa án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương sự mới thu thập được. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa phải thực sự gây được sự chú ý của Tòa án nếu không nói chứng cứ do mình cung cấp có thể giúp Tòa án nhìn nhận lại vụ tranh chấp một cách có lợi cho mình hơn. 5. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Hồ sơ khởi kiện là hồ sơ mà nguyên đơn nộp cho Tòa án khi khởi kiện vụ án ra trước Tòa. Hồ sơ khởi kiện thông thường bao gồm: - Đơn khởi kiện; - Các tài liệu chứng minh hoặc giải trình trực tiếp cho yêu cầu của nguyên đơn; - Các tài liệu về tư cách pháp nhân của nguyên đơn; - Các tài liệu, chứng cứ kèm theo; - Các văn bản pháp luật liên quan. Mục đích của việc lập hồ sơ khởi kiện là nhằm tập hợp một cách có hệ thống các tài liệu, chứng cứ và những vấn đề liên quan đến vụ án mà nguyên đơn đang yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. 6. Trao đổi với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trao đổi được đề cập ở đây thực chất là các giải trình của khách hàng của mình gửi cho Tòa án trong trường hợp cần trả lời một yêu cầu của Tòa án hoặc cần giải trình một vấn đề nào đó liên quan đến một vấn đề mà đương sự khác nêu ra trái với quan 7 điểm của mình. Các giải trình này còn có thể được thể hiện dưới dạng các sửa đổi, bổ sung các tài liệu mà mình đã cung cấp cho Tòa án trước đó nhưng bị hiểu nhầm, hiểu không đúng hoặc bị xuyên tác. Vì vậy, dù giải trình do khách hàng ký tên thì Luật sư cũng phải giúp khách hàng soạn thảo hoặc ít ra phải giúp khách xem lại lần cuối cùng trước khi gửi Tòa án. Cũng cần lưu ý là các văn thư này trở thành nguồn chứng cứ rất quan trọng mà Tòa án, Viện kiểm sát và các đương sự khác có thể sử dụng trong vụ án. Vì vậy, khi soạn các văn bản này cần hết sức thận trọng cả về hình thức và nội dung, nên ngắn gọn, dễ hiểu, trong sáng. Về nội dung phải chứa đựng và khẳng định lại các quan điểm mà Luật sư hoặc khách hàng đã trình bày trước đó. Tuyệt đối không đưa ra các quan điểm trái ngược với các quan điểm đã đưa ra trước đó trong cùng một vụ án. 7. Chuẩn bị cá nhân của Luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư phải làm việc rất bận rộn. Một mặt, vừa phải chuẩn bị cho khách hàng của mình, một mặt Luật sư phải tự chuẩn bị cho mình. Những phần việc Luật sư cần chuẩn bị cho mình có thể được thể hiện dưới dạng sau: - Thu thập chứng cứ; - Nghiên cứu hồ sơ vụ án; - Nghiên cứu và đánh giá chứng cứ; - Chuẩn bị đề cương bản luận cứ; - Làm việc với Tòa án khi cần thiết. 7.1. Thu thập chứng cứ. Có những trường hợp Luật sư phải tự mình đi thu thập, xác minh chứng cứ tại một số cơ quan, xí nghiệp, địa phương mà khách hàng không thể tự làm được. Ví dụ trường hợp Luật sư cần gặp Cục địa chính, UBND thành phố, UBND quận, huyện… 8 để yêu cầu các cơ quan này cung cấp hoặc xác nhận về một tình tiết nào đó có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng của mình. Trong một số trường hợp, khi giao tiếp với các cơ quan này Luật sư cần mang theo giấy giới thiệu của Đoàn Luật sư và/hoặc giấy giới thiệu của Tòa án đã thụ lý vụ án. Những chứng cứ, tài liệu mà Luật sư xác minh thu thập được cần thông báo cho khách hàng của mình, đồng thời cũng cần thiết phải cung cấp cho Tòa án. 7.2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án. * Nghiên cứu hồ sơ vụ án là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Vụ án dù đơn giản đến đâu thì Luật sư cũng phải dành thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, có hệ thống, khách quan giúp Luật sư nắm bắt được những mặt mạnh, mặt yếu của khách hàng của mình, trên cơ sở đó hình thành các luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án có thể đi theo những hướng khác nhau tùy thuộc vào việc Luật sư tham gia tố tụng từ giai đoạn nào. Nguyên tắc là nghiên cứu một cách toàn diện nhưng không nhất thiết phải nghiên cứu lại những vấn đề mà mình đã biết trước đó. * Nghiên cứu hồ sơ một cách toàn diện; * Nghiên cứu hồ sơ của nguyên đơn; * Nghiên cứu hồ sơ của bị đơn; * Nghiên cứu các tài liệu của bị đơn (trong trường hợp là Luật sư của nguyên đơn). Là Luật sư của nguyên đơn thì cần thiết bắt đầu việc nghiên cứu hồ sơ từ tài liệu do phía bị đơn cung cấp. Thông thường tài liệu của phía bị đơn cung cấp có thể bao gồm các tài liệu mà bị đơn dùng để phản bác lại yêu cầu của nguyên đơn, các tài liệu chứng minh cho các yêu cầu, phản yêu cầu của bị đơn; * Nghiên cứu các tài liệu do Tòa án xác minh thu thập được. 7.3. Nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. 9 Nghiên cứu chứng cứ là việc trực tiếp thụ cảm, xem xét, phân tích và so sánh chứng cứ. Mục đích của nghiên cứu chứng cứ là nhìn nhận chứng cứ dưới góc độ trực giác để bước đầu xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Đánh giá chứng cứ là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ và tính hiệu quả của chứng cứ trong tổng thể vụ án. Khác với Tòa án, Luật sư nghiên cứu và đánh giá chứng cứ là để bảo vệ cho thân chủ của mình. Như vậy không loại trừ những trường hợp trong quá trình nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Luật sư phát hiện ra những chứng cứ bất lợi cho khách hàng của mình. Chứng cứ bản thân nó tồn tại khách quan do đó kể cả Luật sư cũng không thể loại bỏ sự hiện diện và giá trị chứng minh của chứng cứ được. Luật sư có thể không khai thác các chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ có lợi, Luật sư nên tận dụng triệt để. Quá trình đánh giá chứng cứ còn tìm ra các bất hợp lý trong các chứng cứ do các đương sự khác cung cấp, Luật sư cần phải tận dụng những điều đó để vạch ra cho Tòa án thấy được những bất cập liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đối thủ của mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tìm ra được những chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình vậy. Chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể là: một bản hợp đồng, một bản di chúc, một tờ giấy khai sinh, một kết luận giám định. Nhiều khi bản thân các chứng cứ này đứng riêng lẻ thì không tạo nên giá trị chứng cứ, nhưng nếu phân tích, so sánh chúng với nhau thì thấy rõ sự khác biệt và chính sự khác biệt đó lại tạo nên giá trị chứng minh. 7.4. Chuẩn bị đề cương bản luận cứ Luật sư. Đề cương luận cứ Luật sư là văn bản có ý nghĩa tố tụng rất lớn. Một mặt nó phản ánh quan điểm của Luật sư, phản ánh tâm tư nguyện vọng của khách hàng, thể hiện mong muốn của cả Luật sư và thân chủ của mình thông qua các yêu cầu mà Luật sư đề xuất. Mặt khác nó cũng là cơ hội để Luật sư phân tích, nhận định và giải thích pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình. Để có 10 được một bản luận cứ sắc sảo, có tính thuyết phục cần làm tốt các khâu chuẩn bị sau đây: - Vạch cho mình một đề cương chi tiết; - Lắp đặt những phần đã được ghi chép theo đề cương; - Tìm các văn bản pháp luật áp dụng; - Trình bày các nhận định và kết luận dưới dạng đơn giản; - Chuẩn bị các luận cứ để phản bác lại ý kiến của đối phương; + Cơ cấu của bản luận cứ Bản luận cứ của Luật sư thông thường bao gồm các phần sau đây: - Phần mở đầu; - Phần nội dung; - Phần kết luận và đề xuất. * Trong phần mở đầu: Luật sư tự giới thiệu mình, nếu cần thiết có thể nêu thêm về bối cảnh nhận tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư tranh tụng trong vụ án này. * Phần nội dung nên lần lượt trình bày theo các ý sau: - Nêu tóm tắt diễn biến vụ án; - Phân tích hợp lệ hoặc bất hợp lệ trong việc Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án này: + Thẩm quyền của các vụ án (bao gồm cả thời hiệu khởi kiện); + Tư cách của đương sự trong vụ án; + Khẳng định yêu cầu Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ. - Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp; 11 - Xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ nhận định về các tình tiết đó; - Ở mỗi phần nhận định đều viện dẫn văn bản pháp luật áp dụng và nêu rõ tại sao, căn cứ vào đâu để đưa ra các nhận định như vậy; - Sau mỗi phần nhận định cần có kết luận. Kết luận chỉ được đưa ra sau khi có đầy đủ chứng cứ để khẳng định nó. * Phần kết luận và đề xuất: Cần thiết phải nhắc lại kết luận của mình và yêu cầu cụ thể đối với Tòa án. Các yêu cầu cần rõ ràng, cụ thể. Trong phần kết luận cũng nêu rõ căn cứ vào văn bản pháp luật nào để yêu cầu Tòa án xét xử như vậy. + Viết bản luận cứ Trước hết cần vạch sẵn một đề cương về bản luận cứ của mình. Tất nhiên việc chuẩn bị và viết bản luận cứ của Luật sư là một công việc được tiến hành liên tục ngay từ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và kéo dài cho đến khi Luật sư trình bày xong bản luận cứ đó trước tòa án và nộp cho Tòa án. Ở đây chỉ lưu ý một số điểm để Luật sư vạch trước cho mình một đề cương bản luận cứ nhằm thực hiện quá trình này được tốt. + Viết phần mở đầu Bản luận cứ thường bắt đầu bằng câu: Kính thưa hội đồng xét xử. Nhiều Luật sư mở đầu Bài luận cứ của mình bằng cách thưa gửi rất khác nhau. Về nguyên tắc, Luật sư chỉ cần Kính thưa Hội đồng xét xử là đủ, cũng có thể là Thưa Tòa hoặc Thưa quý Tòa! Nếu Luật sư quá lạm dụng việc thưa gửi có thể không những không tác dụng tốt mà còn ngược lại. Mặc dù cho đến thời điểm này chúng ta chưa có một quy định nào về việc này. Sau đó Luật sư có thể tự giới thiệu về mình và bối cảnh nhận tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư trong vụ án. + Viết phần nội dung 12 Phần nội dung là phần chính của bản luận cứ. Một số nội dung như tóm tắt diễn biến của vụ án, phân tích tính hợp pháp, đúng đắn hoặc không hợp lệ của việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, phân tích thẩm quyền của Tòa án, thời hiệu khởi kiện, những thủ tục được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến thời điểm Tòa án xét xử vụ án, tư cách của đương sự trong vụ án, khẳng định việc yêu cầu Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần thiết được viết trước. Đối với những nội dung khác như: nhận đinh về các tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi của thân chủ, trình bày các chứng cứ và đánh giá các chứng cứ đó, các kết luận được rút ra sau khi nhận định và đánh giá chứng cứ…..trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư cũng chưa cần phải viết một cách quá chi tiết mà chỉ cần viết nháp theo một đề cương đã được vạch sẵn để tiện cho việc bổ sung, sửa chữa. Đối với những nội dung này nhất thiết phải được bổ sung, sửa đổi lại cho phù hợp sau khi Luật sư đã trực tiếp tham gia vào quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa. Một số nội dung đã được chuẩn bị sẵn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng có thể bị thay đổi cho phù hợp với những tình tiết vừa mới được sáng tỏ tại phiên tòa. Lưu ý là trong phần này, những vấn đề như chứng minh được các yêu cầu của khách hàng của mình là rất quan trọng. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải lần lượt nêu ra các yêu cầu, hoặc phản yêu cầu đó và dùng các chứng cứ để chứng minh, làm rõ. Khi nhận định, phân tích hoặc kết luận nhất thiết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Khi sử dụng các quy định pháp luật để làm căn cứ phải kiểm tra trước hiệu lực của các văn bản đó. + Viết phần kết luận bản luận cứ Phần kết luận bao gồm hai nội dung chính: Khẳng định lại các quan điểm (các kết luận) của mình thông qua quá trình phân tích, chứng minh trong phần nội dung và đề xuất với Tòa án phương án giải quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của đương sự. Phần 13 kết luận phải được trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý, tránh hiểu nhầm và phải có căn cứ pháp luật. Không đề xuất chung chung như “đề nghị tòa án xử buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị tòa án xét xử theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi quyền lợi chính đáng cho khách hàng của tôi…..” Những yêu cầu về án phí cũng cần thiết phải được đề cập đến trong phần đề xuất. Các thời hạn, thời hiệu hoặc các liên đới về quyền và nghĩa vụ cũng cần được làm rõ. Các quy đổi ngoại tệ hoặc tính tương đương để quy đổi từ tiền này sang loại tiền khác hoặc từ tài sản sang tiền hoặc ngược lại cũng cần phải được trình bày một cách rõ ràng, đồng thời các khoản đã được một bên thanh toán trước đó cũng cần được giải quyết. 8. Ghi chép. Lần đầu tiên gặp Luật sư, khách hàng thường dành phần lớn thời gian để trình bày về vụ việc của mình. Thông thường đây là các thông tin một chiều, chưa được tham vấn và nhiều khi còn thô. Tuy vậy, có thể những lần tiếp xúc sau, khách hàng sẽ có nhiều gọt rũa, lược bớt các nội dung mà họ cho là không cần thiết cho họ hoặc không có lợi cho họ. Vì vậy, việc ghi chép để giữ lại những “thông tin sạch” này là rất quan trọng. Nó rất có thể sẽ là các thông tin mà từ đó Luật sư có thể khai thác thêm được những thông tin khác quan trọng. Khi nghe và ghi chép các thông tin ban đầu từ phía thân chủ, Luật sư nên cẩn trọng trong việc khẳng định những điểm mà Luật sư cho là thân chủ có thể bị nhầm lẫn hoặc chưa suy nghĩ chín chắn. Những ngụy biện ban đầu của khách hàng cũng phải được Luật sư làm rõ ngay từ đầu để tránh phải mất thời gian vì những thông tin đó sau này. 8.1. Ghi chép trong quá trình thu thập chứng cứ. Trong giai đoạn này nhiều khi Tòa án, Luật sư của đối phương, các đương sự đều có thể có những biểu hiện, những ý kiến có liên quan đến việc Tòa án giải quyết vụ án. Vì vậy, Luật sư cần theo dõi, ghi chép những thông tin đó nhằm giúp có một cái 14 nhìn toàn diện về vụ án, về các bên, về những diễn biến bên ngoài mà trong hồ sơ nhiều khi không bao giờ thể hiện hết. 8.2. Ghi chép trong giai đoạn hòa giải. Nói chung khi tiến hành hòa giải, các bên cũng như tòa án đều mong muốn đạt được những lợi ích nhất định. Tuy vậy, không phải lúc nào các mong muốn của các bên cũng đều đạt được. Vì vậy, ghi chép lại diễn biến của giai đoạn này để có cơ sở cho các giai đoạn tiếp theo, thậm chí những ý kiến, quan điểm của các bên có thể được sử dụng lại trong phần xét hỏi nhằm nhắc lại cho họ rằng đã có lúc họ bày tỏ những mong muốn như thế nhưng họ đã không đạt được và bây giờ họ vẫn còn cơ hội để thực hiện những mong muốn đó. Ngoài ra, khi biết được quan điểm của đối phương trong giai đoạn hòa giải, Luật sư cũng có thể dựa vào đó để giúp đương sự điều chỉnh yêu cầu hoặc phản yêu cầu của mình. Nếu không ghi chép lại những diễn biến đó, rất có thể sẽ bị quên hoặc nhớ không chính xác. 8.3. Ghi chép trong giai đoạn xét xử. Trong giai đoạn này Luật sư phải tham gia xét hỏi, phải đặt các câu hỏi, phải tham gia tranh luận, vì vậy, tất cả những gì diễn ra tại phiên tòa phải được Luật sư ghi chép lại cẩn thận. Luật sư phải ghi chép từ các câu hỏi của HĐXX, của đại diện VKS, Luật sư của đối phương, của những người tham gia tố tụng khác. Để tiện theo dõi nên chia ra thành các cột, mỗi cột chứa một nội dung, thông tin của một người tham gia tố tụng hoặc tiến hành tố tụng. Những người này nếu có quan hệ với nhau hoặc các hành vi của họ có thể ảnh hưởng đến nhau thì nên xếp họ gần nhau. Ví dụ, xếp cột nguyên đơn bên cạnh cột bị đơn, cột Tòa án với cột nguyên đơn.... Các ghi chép này luôn được lưu giữ một cách có hệ thống để sử dụng cho cả quá trình tố tụng, cả trong giai đoạn phúc thẩm (xem thêm phần Luật sư trong giai đoạn xét hỏi). 9. Làm việc với thân chủ. 15 Thân chủ là đối tượng của hoạt động tranh tụng của Luật sư. Vì quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mà Luật sư làm việc. Vì vậy trước khi đưa ra một ý tưởng gì cũng nên thông báo cho khách hàng của mình được biết. Trong trường hợp có bất đồng quan điểm giữa thân chủ và luật sư, nếu luật sư có đầy đủ cơ sở cho là mình đúng thì nên thuyết phục khách hàng nghe theo ý kiến của mình trên cơ sở phân tích cho họ thấy từ góc độ luật pháp. Cả hai thái cực hoặc: “dĩ hòa vi quý” hoặc “cố đấm ăn xôi” đều không phải là phương án tốt. Nên trình bày rõ ràng, ngắn gọn những quan điểm mà Luật sư có ý định trình bày trước tòa. Nếu đã chuẩn bị xong bản luận cứ thì nên gửi cho khách hàng một bản. Cũng cần nói rõ là bản luận cứ luôn luôn ở trong tình trạng có thể bị thay đổi, cập nhật cho phù hợp nhưng mục đích cuối cùng là bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng. Cũng nên cho khách hàng biết qua diễn biến của phiên tòa có thể xảy ra, dự báo những điều cần thiết có lợi hoặc bất lợi cho khách hàng.Trong bất kỳ trường hợp nào thì dự báo cũng nên trung thực, khách quan nhưng không bi quan hoặc chủ quan thái quá. Cần hướng dẫn cho khách hàng một số công việc cần thiết khi họ phải trả lời các câu hỏi trước tòa. Nếu cần nên tập dượt trước cho thuần thục, nên cho khách hàng biết rằng họ có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào hoặc nhờ Luật sư trả lời hộ trong trường hợp cần thiết. Làm việc với thân chủ cũng quan trọng như làm việc với Tòa án hoặc Viện kiểm sát. Thân chủ trong phần lớn các trường hợp có thể cung cấp cho Luật sư những thông tin chính xác và rất quan trọng. Để các buổi làm việc với khách hàng có hiệu quả, Luật sư nên vạch ra cho mình một kế hoạch, theo đó, Luật sư cần gặp khách hàng vào những hôm nào, bàn về những việc gì và mục đích hay kết quả cần đạt được từ những buổi làm giệc đó là gì. 10. Kỹ năng của luật sư trong giai đoạn hòa giải. Việc hòa giải có thể được tiến hành theo hai cách: các đương sự tự hòa giải với nhau và hòa giải do thẩm phán tiến hành. Trong cả hai cách này, Luật sư đều cần thiết phải tham gia. Ngoài ra Luật sư cũng có thể tham gia hòa giải trực tiếp với bên kia 16 trong trường hợp được ủy quyền. Để việc hòa giải tiến hành có hiệu quả cần thiết phải có những chuẩn bị sau đây: 10.1. Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ cho thân chủ trước khi hòa giải. Nhìn chung các chứng cứ cần sử dụng khi hòa giải không có gì khác so với các chứng cứ của toàn bộ vụ án. Tuy vậy cũng cần phải phân loại chúng theo yêu cầu khác nhau để khi sử dụng những chứng cứ này đối phương thấy được họ đang được lợi hoặc nếu họ tiếp tục theo đuổi vụ kiện thì sẽ gặp bế tắc. Về nguyên tắc các tài liệu chứng cứ của khách hàng (trong trường hợp họ là nguyên đơn) đều đã được thể hiện trong Hồ sơ khởi kiện. Trước khi tham gia hòa giải Luật sư chỉ cần tập hợp lại và giới thiệu qua cho nguyên đơn biết để trong quá trình hòa giải, nguyên đơn có thể tự mình đưa ra được các chứng cứ để minh họa cho giải trình của mình. Để giúp cho khách hàng nắm bắt một cách hệ thống và dễ hiểu thì Luật sư nên sắp xếp lại Hồ sơ khởi kiện để phục vụ riêng cho giai đoạn hòa giải. Đối với trường hợp khách hàng của mình là bị đơn thì Luật sư cũng căn cứ vào bộ hồ sơ mà khách hàng cùng với Luật sư đã chuẩn bị trước đó và cũng sắp xếp lại tương tự như trong trường hợp làm cho nguyên đơn. 10.2. Thỏa thuận trước với thân chủ về các yêu cầu cần đạt được trong hòa giải, những vấn đề cần nhượng bộ. Trước khi hòa giải, luật sư cần thỏa thận trước với khách hàng của mình về một số yêu cầu cần đạt được sau khi nhượng bộ là như thế nào.Thông thường không phải lúc nào đương sự cũng sẵn sàng đồng ý với Luật sư để nhượng bộ đối phương, nhất là trong những trường hợp liên quan đến danh dự hoặc các quyền lợi tinh thần. + Thông báo cho khách hàng về tình trạng pháp lý của họ; + Những ưu thế và bất lợi cho họ; + Những ưu thế và bất lợi của đối phương; 17 + Các chứng cứ của cả hai bên; + Khả năng đối phương sẽ phản ứng như thế nào khi mình đưa ra các đề xuất; +Đưa ra các giải pháp nhượng bộ để khách hàng lựa chọn; + Thống nhất với khách hàng về một số giải pháp tối ưu. 10.3. Thỏa thuận về án phí. Án phí cũng là một nội dung rất quan trọng trong hòa giải. Trong nhiều trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về nội dung giải quyết tranh chấp nhưng lại không thỏa thuận được với nhau về án phí bởi án phí cũng là một khoản đóng góp rất đáng kể, nhất là trong những vụ án có giá ngạch lớn. Tùy từng trường hợp mà Luật sư tư vấn cho khách hàng của mình chấp nhận mức án phí bao nhiêu là phù hợp và cần thiết để tạo thuận lợi cho bên đối phương. Tất nhiên nếu hai bên không thỏa thuận để đi đến thống nhất về ai phải chịu và chịu bao nhiêu thì án phí sẽ được quyết định theo pháp luật. II. KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM. Giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa có một ý nghĩa gần như quyết định đối với Luật sư tranh tụng. Trong giai đoạn này Luật sư thể hiện hết tài thao lược của mình, bộc lộ hết các quan điểm và ý tưởng của mình. Một Luật sư được đánh giá công khai là tốt hay tồi phần lớn là thông qua giai đoạn tranh tụng. Vì vậy chuẩn bị tốt cho giai đoạn này là điều sống còn đối với Luật sư (và cả đối với thân chủ của mình nữa). 1. Những vấn đề cần lưu ý trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. 1.1. Về các yêu cầu hoãn phiên tòa. “Điều 199. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 18 1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tòa án thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn phiên tòa. 2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì xử lý như sau: a) Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn; b) Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ; c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập có người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn; d) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.” ...... 19 Như vậy, theo quy định của pháp luật, HĐXX chỉ có quyền hoãn phiên tòa trong một số trường hợp nhất định. Trong những trường hợp HĐXX đề nghị hoãn phiên tòa không theo các căn cứ nêu trên Luật sư có quyền đề xuất ý kiến để phản đối quyết định hoãn đó. Ngoài ra, trong một số trường hợp mặc dù không có các căn cứ do Luật định nhưng theo thông lệ và được chấp nhận tại các Tòa án nhân dân thì Luật sư cũng không nên quá gay gắt khi bày tỏ quan điểm phản đối của mình. Ngược lại, Luật sư có thể tận dụng những cơ hội như vậy nếu thấy việc hoãn phiên tòa là cần thiết và có lợi cho thân chủ của mình. 1.2. Về các yêu cầu cung cấp thêm chứng cứ hoặc triệu tập thêm người làm chứng. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa trước khi kết thúc chủ tọa phiên tòa thường hỏi những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm bằng chứng hay không, nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định. Như vậy, trong trường hợp cần phải triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm bằng chứng, Luật sư cần triệt để tận dụng cơ hội đó. Như trong phần cung cấp chứng cứ đã nêu có thể có những chứng cứ mà trước đó thân chủ của mình hoặc Luật sư chưa có cơ hội hoặc chưa muốn cung cấp cho Tòa án thì là cơ hội tốt để cung cấp cho Tòa án những chứng cứ đó. Nếu Tòa án không đặt câu hỏi về việc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm bằng chứng mà Luật sư thấy cần thiết phải làm việc đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của mình thì Luật sư phải chủ động đề xuất với HĐXX để HĐXX xem xét và quyết định. Thực tiễn cho thấy Luật sư chưa tận dụng triệt để quyền của mình trong giai đoạn này để đề nghị Tòa án triệu tập thêm người làm chứng. 1.3. Luật sư trong giai đoạn xét hỏi. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan