TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
---o0o---
NGUYỄỄN THỊ HIỆP
LÀNG GỐỐM THỔ HÀ VÀ TIỄỀM NĂNG PHÁT TRIỂN D
KHÓA LUẬN TỐỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
HÀ NỘI, 2016
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
---o0o---
NGUYỄỄN THỊ HIỆP
LÀNG GỐỐM THỔ HÀ VÀ TIỄỀM NĂNG PHÁT TRIỂN D
KHÓA LUẬN TỐỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
Ngƣời hƣớng dẫẫn khoa học
ThS. TRẦỀN HẠNH PHƢƠNG
HÀ NỘI, 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường Đại học đến
nay, tôi nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của gia đình, bạn bè và quý
Thầy Cô ở khoa Ngữ Văn – trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 đã truyền tải
cho chúng tôi những kiến thức để có thể hoàn thành tốt được bài luận khóa
luận này.
Với lòng biết ơn sâu sắc tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Trần Hạnh
Phƣơng, giảng viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 và
chính quyền địa phương huyện Việt Yên (Bắc Giang) đã tận tâm giúp đỡ tôi
thực hiện luận văn của mình.
Trong thời gian nghiên cứu, tìm hiểu còn nhiều hạn chế và bỡ ngỡ. Do
vậy không thể tránh khỏi những điều thiếu sót, tôi rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp quý báu của quý Thầy Cô và các bạn để luận văn của tôi
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 6 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Hiệp
LỜI CAM ĐOAN
Những nội dung trong bài luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của ThS. Trần Hạnh Phương. Mọi tham khảo dùng trong
luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình, thời gian địa
điểm công bố. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian
trá, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Sinh viên
Nguyễn Thị Hiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.....................................................................2
3. Mục đính nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................3
6. Đóng góp của khóa luận........................................................................4
7. Cấu trúc của khóa luận......................................................................... 4
NỘI DUNG………………………………………………………………….5
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................5
1.1 Các khái niệm...........................................................................................5
1.1.1 Du lịch....................................................................................................5
1.1.2. Làng nghề truyền thống................................................................... 6
1.1.3. Du lịch làng nghề truyền thống....................................................... 8
1.2 Đặc trƣng của làng nghề truyền thống..............................................9
1.3 Điều kiện phát triển du lịch làng nghề truyền thống...........................10
1.4 Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống......................................11
1.4.1 Đối với phát triển kinh tế - xã hội...................................................... 11
1.4.2 Đối với phát triển du lịch....................................................................13
CHƢƠNG 2. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG GỐM THỔ
HÀ…...............................................................................................................15
2.1 Giới thiệu chung về làng gốm Thổ Hà................................................ 15
2.1.1 Vị trí địa lý...........................................................................................15
2.1.2 Làng Thổ Hà trong truyền thống.........................................................16
2.1.3 Làng Thổ Hà trong xã hội đương đại..................................................17
2.1.4 Gía trị văn hóa làng Thổ Hà................................................................ 18
2.1 Nghề gốm Thổ Hà...................................................................................30
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển nghề gốm........................................30
2.2.2 Đặc điểm sản xuất nghề gốm...............................................................34
2.2.3 Nét độc đáo của gốm Thổ Hà...............................................................42
CHƢƠNG 3. LÀNG GỐM THỔ HÀ – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN DU LỊCH.............................................................................. 46
3.1 Thực trạng...............................................................................................46
3.1.1 Thực trạng về sản xuất.........................................................................46
3.1.2 Thực trạng về du lịch........................................................................... 47
3.2 Giải pháp................................................................................................. 47
3.2.1 Giải pháp phát triển chung.................................................................. 47
3.2.2 Giải pháp phát triển cụ thể...................................................................49
KẾT LUẬN.................................................................................................... 53
1. Lý do chọn đề tài
MỞ ĐẦU
Người ta thường nói “Người là tinh hoa của trời, Gốm là tinh hoa của
đất”. Nghề gốm Thổ Hà có từ thế kỉ 12 và là một trong ba trung tâm gốm sứ
cổ xưa nhất của người Việt, gốm biểu hiện cho văn minh dân tộc và còn được
coi như một thứ niên biểu lịch sử.
Gốm Thổ Hà đang được khôi phục và phát triển, làng Thổ Hà còn từng
bước được chú ý để xây dựng thành một điểm du lịch hấp dẫn khách du lịch
trong và ngoài nước. Với những giá trị độc đáo và mới lạ của mình, làng gốm
Thổ Hà sẽ là một địa chỉ hấp dẫn du khách, nhưng hiện nay vẫn chưa được
nhiều du khách quan tâm.
Du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều
Quốc gia trên Thế giới. Hiện nay các quốc gia đang cố gắng phát triển du lịch
văn hóa với các làng nghề truyền thống.
Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam cũng đã và đang
chú trọng đến phát triển du lịch làng nghề. Loại hình du lịch này cũng đã và
đang triển khai tại nhiều địa phương trong cả nước như: làng gốm Bát Tràng
(Hà Nội), làng gốm Chu Đậu (Hải Dương), làng cổ Đường Lâm (Hà Nội),
Bản Lác – Mai Châu (Hòa Bình), Suối Voi – Lộc Tiên – Phú Lộc (Thừa
Thiên Huế), thôn Sín Chải – SaPa…Những điểm du lich này đã thu hút một
lượng khách du lịch lớn. Làng gốm Thổ Hà cũng thu hút khách du lịch bởi nét
cổ kính của ngôi làng cổ, những lò gốm đang được phụng dựng và giàu có về
tài nguyên nhân văn.
Với tất cả nhưng lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Làng Gốm Thổ
Hà và tiềm năng phát triển du lịch” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đây là đề tài vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính thực tiễn cao phù hợp với
chuyên ngành Việt Nam học.
7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghề và các làng nghề thủ công truyền thống luôn là đối tượng nghiên
cứu của nhiều lĩnh vực: văn hóa, lịch sử...Trong du lịch, làng nghề thủ công
truyền thống được xem như là một yếu tố tài nguyên du lịch. Vì vậy, những
nghiên cứu để đánh giá nó như một tài nguyên cho ngành du lịch thì rất ít.
Đối với nghề gốm nói riêng, cũng có nhiều cuốn sách tìm hiểu và tôn vinh
nghề gốm. Tuy nhiên các nghiên cứu hầu hết chỉ tập trung vào nghiên cứu
một số làng nghề thủ công truyền thống như Bát Tràng, Chu Đậu, Phù Lãng...
và nhìn nhận dưới góc độ văn hóa hoặc kinh tế.
Thổ Hà là một làng sản xuất chuyên về đồ sành từ lâu đời nhưng cho
đến nay, các công trình nghiên cứu còn lẻ tẻ và đặc biệt, chưa có những cuộc
khai quật, hay khảo cổ học.
Năm 1974, tác giả Nguyễn Xuân Cần có bài viết: “Gốm Thổ Hà” trong
Hà Bắc nghìn năm văn hiến”. Có thể xem đây là những thông tin giới thiệu
đầu tiên về làng gốm này. [2, 123 – 124]
Năm 1976, các tác giả Nguyễn Du Chi, Nguyễn Tiến Cảnh bàn về niên
đại ngôi đình làng gốm Thổ Hà. Dưới góc độ dân tộc học, tác giả Đỗ Thúy
Bình bàn về gốm Thổ Hà trước cánh mạng tháng Tám. Còn dưới góc độ mỹ
thuật tạo hình, tác giả Lưu Thanh Danh lại “Tìm hiểu hình dáng đất nung Thổ
Hà”.
Nhiều tác giả nghiên cứu quan tâm đến các di tích kiến trúc hiện còn ở
Thổ Hà là đình, chùa, đền miếu.Các tác giả Nguyễn Bích Ngọc, Nguyễn Tiến
Cảnh giới thiệu về đình, chùa, đền Thổ Hà. Năm 1998, Đình Thổ Hà được
giới thiệu trong công trình nghiên cứu về “Đình Việt Nam” của giáo sư Hà
Văn Tấn.
Trong chương trình nghiên cứu các làng nghề truyền thống của Viện
Nghiên cứu văn hóa thực hiện năm 2000 có đề tài khoa học cấp viện “Làng
gốm Thổ Hà”. Đề tài do tác giả Trương Minh Hằng làm chủ nhiệm nghiên
cứu về gốm Thổ Hà dưới góc độ văn hóa học. Trên cơ sở tư liệu khảo sát,
Trương Minh Hằng đã công bố các nghiên cứu về làng Thổ Hà vào năm 2001
và 2003.
Năm 2001, Nguyễn Đình Chiến có bài “Gốm Thổ Hà”, trong tạp chí
Thế Giới di sản và Cổ vật tinh hoa giới thiệu sơ lược về một số loại hình tiêu
biểu của sưu tập gốm Thổ Hà lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. [10, 10 –
13]
Năm 2001, nội dung tấm bia “Bản xã nguyện bi ở đình Thổ Hà” (Bắc
Giang) đã được Cao Minh Ngọc, Nguyễn Văn Phong nghiên cứu giới thiệu
trong hội nghị Thông báo khảo cổ học.
3. Mục đính nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Khai thác những giá trị độc đáo, hấp dẫn của
làng nghề gốm Thổ Hà để góp phần thúc đẩy việc phát triển du lịch ở làng
Thổ Hà nói riêng và huyện Việt Yên (Bắc Giang) nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Thứ nhất: Giới thiệu chung về làng Thổ Hà và nghề gốm Thổ Hà
trong quá khứ và hiện tại.
+ Thứ hai: Tiềm năng phát triển du lịch của làng gốm Thổ Hà.
+ Thứ ba: Đề ra những thực trạng và giải pháp nhằm phát triển Thổ Hà
thành một điểm du lịch làng nghề hấp dẫn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tiềm năng phát triển du lịch tại làng gốm Thổ
Hà
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn làng Thổ Hà thuộc
huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp điền dã: khảo sát thực trạng, phỏng vấn, chụp ảnh
6. Đóng góp của khóa luận
- Làm nổi bật vai trò của làng nghề thủ công truyền thống trong phát
triển du lịch.
- Thấy được tiềm năng phát triển du lịch của làng gốm Thổ Hà.
- Đưa ra một số giải pháp để phát triển du lịch tại làng gốm Thổ Hà.
7. Cấu trúc của khóa luận
Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển du lịch gắn với làng nghề thủ
công truyền thống.
Chương 2: Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề gốm Thổ Hà.
Chương 3: Gốm Thổ Hà – thực trạng và giải pháp phát triển du lịch.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Du lịch
Ngày nay, du lịch đang phát triển rất mạnh mẽ và trở thành hoạt động
không thể thiếu của toàn xã hội. Thuật ngữ “du lịch” xuất hiện từ rất lâu và có
rất nhiều nghiên cứu. Cũng vì vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du
lịch do các nhà nghiên cứu có cách tiếp cận và quan điểm riêng.
Theo Machand nhà địa lý học người Pháp, khái niệm về du lịch được
hiểu: “Du lịch là tập hợp những hoạt động sản xuất tiêu thụ, phục vụ cho việc
đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thường xuyên với lý do giải trí,
kinh doanh, sức khỏe, hội họp, thể thao và tôn giáo”. [10]
Còn rất nhiều quan điểm khác nhau về du lịch của các học giả khác
nhau trong và ngoài nước, nhưng khái niệm du lịch được sử dụng phổ biến ở
Việt Nam là của I.I. Pirogionic, theo ông Du lịch là một dạng hoạt động của
dân cư trong thời gian rỗi, liên quan đến sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi chữa bện, phát triển thể chất
và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo
việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa. [9]
Theo luật du lịch Việt Nam (2005): Du lịch là các hoạt động có liên
quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định. [19]
Như vậy, định nghĩa về du lịch được chứa đựng những nội dung cơ bản
sau:
- Là sự di chuyển và cư trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên
của khách nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng.
- Cùng với mục đích du lịch là việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên,
kinh tế, văn hóa và dịch vụ điểm đến của khách.
- Là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế có
liên quan đến khác du lịch
1.1.2. Làng nghề truyền thống
Có thể nói, lịch sử phát triển của nền kinh tế, văn hóa Việt Nam luôn
gắn liền với lịch sử của các làng nghề. Sự tồn tại và phát triển của các làng
nghề ở nước ta là một quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu đời của những người
thợ. Bởi vậy không ít làng nghề đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm
năm và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nhiều làng nghề có những sản
phẩm độc đáo, nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ tuy được làm bằng các vật
liệu đơn giản nhưng mang đậm nét đặc trưng của văn hóa truyền thống Việt
Nam. Làng nghề thủ công truyền thống kết hợp với du lịch đã góp phần đáng
kể trong việc phát triển kinh tế ở nông thôn.
Hiện nay ở nước ta có rất nhiều quan điểm khác nhau về làng nghề. Có
thể thống kê một số quan điểm tiêu biểu như sau:
Quan niệm thứ nhất, nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng nêu rõ: “Làng
nghề là làng ấy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ (lợn,
gà...), cũng có một số nghề phụ khác nhau (đan lát, làm tương, làm đậu phụ...)
song nổi trội một số nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thủ công
chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường hội (có cơ cấu tổ chức), có
ông trùm, ông phó cả…”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được
bằng nghề đóvà sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng đã có
tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có quan hệ tiếp thị với một thị
trường là vùng xung quanh và với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở rộng
ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả thị trường nước ngoài. Những làng nghề
ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ hàng trăm năm) “dân biết mặt,
nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ trở thành di sản
văn hóa dân gian”.[21, 38 – 39]
Cùng với quan điểm của của GS. Trần Quốc Vượng, nhà nghiên cứu
Bùi Văn Vượng cũng nêu rõ: Làng nghề truyền thống là làng nghề có truyền
làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng
thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm
nghề nông nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ
chuyên sản xuất hàng nghề truyền thống ngay tại làng quê của mình. [20]
Quan niệm thứ hai, tác giả Dương Bá Phượng cho rằng: “Làng nghề là
làng ở nông thôn có một hay một số nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp
và kinh doanh độc lập” [18, 13 – 14]
Quan niệm thứ ba, một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm làng nghề
kèm theo những tiêu chí rất cụ thể về lao động và việc làm như: “Làng nghề
là những làng đã từng có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa
phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng số thu nhập của họ
trong năm” [11].
Cùng với quan điểm này, trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về
chính sách khuyến nghị phát triển làng nghề nông thôn được Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, “Làng nghề là thôn, ấp, bản có
trên 35% số hộ tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ
ngành nghề nông thôn chiếm trên 50% tổng thu nhập của làng”…
Từ các quan niệm trên cho thấy, khái niệm về làng nghề được cấu
thành từ hai yếu tố là làng và nghề. Bởi vậy, không phải bất cứ làng nào có
nghề cũng được gọi là làng nghề.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm trên quan niệm về làng nghề có
thể được hiểu như sau: Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống mà ở đó tập
trung một số lượng lớn lao động vào làm một hoặc một số nghề nào đó, chiếm
ưu thế về thời gian làm việc và số thu nhập so với nghề nông.
1.1.3. Du lịch làng nghề truyền thống
Du lịch làng nghề truyền thống đang là loại hình du lịch thu hút được
sự quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước. Xu hướng hiện đại ngày
nay cuộc sống căng thẳng nhiều áp lực, con người quay về với những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhu cầu đi du lịch về những miền nông
thôn, làng nghề truyền thống ngày càng cao.
Nhìn chung khái niệm làng nghề truyền thống vẫn còn khá mới mẻ ở
nước ta. Du lịch làng nghề truyền thống thuộc loại hình du lịch văn hóa.
Trước hết phải hiểu thế nào là du lịch văn hóa.
Theo tác giả Trần Nhạn trong: “Du lịch và kinh doanh du lịch” thì: “Du
lịch văn hóa là loại hình du lịch mà du khách muốn thẩm nhận bề dày lịch sử,
di tích văn hóa, những phong tục tập quán còn hiện diện…Bao gồm hệ thống
đình, chùa, nhà thờ, lễ hội, các phong tục tập quán về ăn, ở, mặc, giao tiếp,…”
[17, tr15]
Đối với làng nghề truyền thống thì đó là nơi chứa đựng kho tàng kinh
nghiệm kỹ thuật, bí quyết nghề nghiêp từ việc sử dụng nguyên liệu, kỹ thuật
chế tác đến chủ đề sáng tạo trong việc tạo ra một sản phẩm thủ công truyền
thống. Đó chính là phần văn hóa phi vật thể. Ngoài ra làng nghề truyền thống
còn có các giá trị văn hóa vật thể khác như: đình, chùa, các di tích có liên
quan trực tiếp đến các làng nghề, các sản phẩm thủ công của làng nghề thủ
công truyền thống…
Khách du lịch đến đây chính là để tìm hiểu các giá trị văn hóa đó. Vì
vậy mà du lịch làng nghề truyền thống được xếp vào loại hình du lịch văn
hóa. Từ đó ta có thể hiểu du lịch làng nghề truyền thống như sau:
Du lịch làng nghề truyền thống là một loại hình du lịch văn hóa mà qua
đó du khách được thẩm nhận các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể có liên
quan mật thiết đến một làng nghề cổ truyền của một dân tộc nào đó.
1.2 Đặc trƣng của làng nghề truyền thống
Làng nghề thủ công truyền thống thường xuất hiện gắn liền với những
hoạt động nông nghiệp ở nông thôn. Thưở ban đầu phần lớn người dân trong
làng đều sinh sống bằng việc sản xuất nông nghiệp và thường là các làng
thuần nông. Tuy nhiên, trong những lúc nông nhàn, người nông dân đã biết
tận dụng những nguyên liệu có sẵn (tre, nứa, song, mây, mây…), tự tay làm ra
một số loại sản phẩm, ban đầu chỉ để phục vụ cho những nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày (rổ, rá, nón, chổi…). Về sau, khi lực lượng lao động tăng lên, một
bộ phận đã dần tách ra làm và sống bằng nghề thủ công đó. Như vậy những
người dân này đã trở thành thợ thủ công và làng nghề thủ công truyền thống
cũng xuất hiện từ đó.
Tại các làng nghề thủ công truyền thống, công cụ sản xuất thường thô
sơ, đơn giản, sử dụng lao động ở mọi lứa tuổi, chủ yếu là người địa phương
nhưng sản phẩm là làm ra vẫn mang tính sáng tạo, tính thẩm mỹ cao và đậm
đà bản sắc dân tộc. Đại đa số làng nghề truyền thống có sản phẩm làm ra từ
chính đôi bàn tay của mình kết hợp với những công cụ đơn giản thô sơ (như
đục đẽo ở các làng làm nghề mộc, dùng bàn xoay để nặn gốm sứ…)
Mặc dù ở một số làng nghề đã có sự hỗ trợ của các thiết bị máy móc
nhưng không dễ thay thế hoàn toàn đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, vì
xuất phát từ đặc thù của những sản phẩm lại đòi hỏi phải có đôi bàn tay, óc
sáng tạo của nghệ nhân mà máy móc không thể thay thế được. Đây cũng
chính là lợi thế để các làng nghề tận dụng sức lao động của hầu hết mọi lứa
tuổi, gắn với những công đoạn khác nhau. Tuy nhiên, công đoạn cuối cùng để
hoàn thiện các sản phẩm lại đòi hỏi phải có đôi bàn tay của những người thợ
cả có những bí quyết nghề nghiệp. Vì vậy, những phương thức cha truyền con
nối trở thành một phần quan trọng để tồn tại các làng nghề thủ công truyền
thống.
Thị trường của những sản phẩm làng nghề thủ công truyền thống chưa
thực sự ổn định, thường tự phát, chưa có chiến lược xây dựng thị trường nòng
cốt rõ ràng, thiếu kế hoạch định nghiên cứu và phát triển thị trường tiềm năng.
Mặc dù các làng nghề thủ công truyền thống ở nước ta đã có quá trình tồn tại
và phát triển lâu dài, nhưng tính đến nay, trong sự phát triển của các làng
nghề, việc xúc tiến, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm còn nhiều bất cập. Xuất
phát từ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và sự đơn lẻ của các sản phẩm được làm ra
nên việc tiêu thụ các sản phâm này vẫn tiến hành tại chỗ. Trước đây, ở nhiều
địa phương, hoạt động sản xuất của các làng nghề truyền thống còn mang tính
tự cấp, tự túc hoặc thị trường tiêu thụ còn nhỏ hẹp. Hiện nay, thị trường tiêu
thụ sản phẩm thủ công phong phú và rộng lớn hơn nhưng các làng nghề vẫn
gặp nhiều khó khăn khi bước vào cơ chế thị trường.
1.3 Điều kiện phát triển du lịch làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng
quý giá, để phát triển được du lịch làng nghề truyền thống cần có những điều
kiện nhất định.
- Thuận tiện cho việc giao thương: đây là yếu tố quan trọng để một làng
nghề có thể phát triển vì gần đường giao thông sẽ thuận lợi cho việc vận
chuyển, thông thương giữa làng nghề và các vùng khác.
- Gần nguồn nguyên liệu để có thể liên tục sản xuất.
- Lao động và tập quán sản xuất của từng vùng.
- Làng nghề đó phải có sản phẩm độc đáo, đặc trưng.
- Gần các danh lam thắng cảnh để có thể kết nối các tour du lịch.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng phát triển du lịch.
1.4 Vai trò của làng nghề thủ công truyền thống
1.4.1 Đối với phát triển kinh tế - xã hội
* Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn
Các làng nghề truyền thống có vai trò tích cực trong việc tăng tỉ trọng
của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỉ trọng nông
nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang sản
xuất phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Sự tác động này đã tạo ra một nền
kinh tế đa dạng ở nông thôn với sự thay đổi về cơ cấu, phong phú, đa dạng về
loại hình sản phẩm.
Việc phát triển các làng nghề tuyền thống đã tạo điều kiện cho hoạt
động dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, thu hút
nhiều lao động. Sự phát triển lan tỏa của các làng nghề truyền thống đã mở
rộng quy mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động. Tính đến nay, cơ
cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60 – 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 –
30% cho nông nghiệp. [22]
* Hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề, tạo ra khối
lƣợng hàng hóa đa dạng, phong phú, phục vụ tiêu dùng.
Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Được phân bố rộng
khắp ở các vùng nông thôn, hằng năm các làng nghề sản xuất ra một khối
lượng hàng hóa lớn, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế nói chung và kinh tế
địa phương nói riêng. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng của làng
nghề lên tới 20% năm, đã thúc đẩy sản xuất hàng hóa ở nông thôn phát triển.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, giá trị sản phẩm
của một làng nghề hiện nay đạt bình quân khoảng 25 – 30 tỷ đồng/năm. Tổng
giá trị sản phẩm của các làng nghề năm 2005 đạt trên 45 ngàn tỷ đồng. Thực
tế cho thấy, địa phương nào có nhiều làng nghề thì cũng có kinh tế hàng hóa
phát triển, góp phần đáng kể và sự gia tăng giá trị sản phẩm cho địa phương.
Hiện nay, 60 – 70% sản phẩm làng nghề được tiêu thụ trong nước, 30 – 40%
được xuất khẩu ra nước ngoài, kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục và đạt 750
tiệu USD (2007) (chưa tính các sản phẩm mỹ nghệ - gỗ)
* Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cƣ địa
phƣơng.
Sự phục hồi và phát triển các làng nghề góp phần quan trọng trong việc
giải quyết vấn đề việc làm cho số lao động dư thừa ở nông thôn. Trong những
năm qua, những làng nghề trên khắp cả nước đã góp phần thu hút khoảng 11
triệu lao động, chiếm 30% lực lượng lao động nông thôn.
Mở rộng và phát triển làng nghề không những thu hút lao động của bản
thân các hộ nghề mà còn thu hút thêm lao động ở địa phương và từ các địa
phương khác. Các làng nghề truyền thống như làng chiếu cói Nga Sơn (Thanh
Hóa), mộc Đồng Kỵ (Bắc Ninh), làng gốm Bát Tràng (Hà Nội)…đều sử dụng
lao động trong và ngoài địa phương.
Thu nhập từ nghề truyền thống đã chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu
nhập, đã đem lại cho người dân các làng nghề cuộc sống đầy đủ hơn cả về vật
chất và tinh thần.
* Phát triển làng nghề góp phần thu hút nhiều lao động nhàn rỗi ở
nông thôn, tận dụng thời gian nông nhàn và hạn chế di dân tự do.
Các cơ sở kinh tế trong các làng nghề chủ yếu là những hộ gia đình,
mức đầu tư cho một lao động và quy mô vớn cho một cơ sở sản xuất, kinh
doanh trong các làng nghề không nhiều. Các cơ sở sản xuất thu hút nhiều lao
động thời vụ, nông nhàn và cả lao động trên hay dưới độ tuổi vào quá trình
sản xuất vẫn thu hút nhiều lao động thời vụ, nông nhàn và cả lao động trên
hay dưới độ tuổi vào quá trình sản xuất.
Chấn hưng nghề và làng nghề còn làm giảm nhẹ gánh nặng cho sự
bùng nổ quá trình nhập cư vào các đô thị.
* Góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển du lịch.
Các sản phẩm của các làng nghề truyền thống là sự kết tinh, sự giao lưu
và phát triển các giá trị văn hóa, văn minh lâu đời của dân tộc. Những sản
phẩm này luôn mang dấu ấn tâm hồn và bản sắc dân tộc, có hình ảnh của mỗi
làng quê đất nước Việt.
Tại những làng nghề này đều có tục thờ Tổ nghề và ngày giỗ Tổ cũng
là ngày hội của làng. Đây cũng được coi là một dạng tài nguyên du lịch nhân
văn có thể khai thác nhằm phát triển loại hình du lịch làng nghề.
Như vậy, sự phát triển và hưng thịnh trở lại của các làng nghề thủ công
truyền thống trong thời gian gần đây đã đem lại nhiều lợi ích cho khu vực
nông thôn, cho ngành du lịch và nền kinh tế nói chung. Đây là dấu hiệu đáng
mừng và cần được tiếp tục đầu tư và phát huy.
1.4.2 Đối với phát triển du lịch
Mỗi làng nghề truyền thống luôn gắn với một vùng văn hóa với những
nét đặc sắc và truyền thống riêng. Các làng nghề thủ công truyền thống là tài
nguyên du lịch nhân văn góp phần thu hút khách du lịch làm cho hoạt động du
lịch thêm phong phú, đa dạng, nhiều lựa chọn hấp dẫn cho du khách.
Đối với mỗi làng nghề truyền thống, du lịch làng nghề là một cơ hội
lớn để giữ làng, giữ nghề. Vì vậy, các làng có nghề thủ công truyền thống đều
cố gắng thúc đẩy loại hình du lịch mới mẻ này. Mặt khác, ngành du lịch cũng
xác định hệ thống các làng nghề thủ công truyền thống như một nhân tố quan
trọng để phát triển du lịch. Do đó, có thể nói, các làng nghề thủ công truyền
thống có khả năng thu hút khách du lịch.
Thông qua việc giới thiệu, quảng bá làng nghề và sản phẩm truyền
thống để tạo lập thị trường tiêu thụ sản phẩm, các làng nghề đã thực sự thu
hút được một lượng đông đảo khách du lịch hằng năm đến tham quan, du lịch,
tìm hiểu sản phẩm truyền thống, quy trình, phương pháp sản xuất, tìm hiểu thị
trường và ký kết hợp đồng kinh tế.
Ngành du lịch cũng xác định hệ thống các làng nghề thủ công truyền
thống như một nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Xét về mặt kinh tế thì
tài nguyên du lịch nhân văn có nhiều ưu thế hơn tài guyên du lịch tự nhiên do
hầu hết tính thời vụ, không chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố thời tiết, khí hậu.
Do đó, các hoạt động du lịch ở các làng nghề truyền thống thường diễn ra liên
tục, quanh năm, không bị gián đoạn, ít ảnh hưởng đến doanh thu. Việc khai
thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này là vấn đề quan trọng, không chỉ
để phát triển du lịch mà còn nhằm gìn giữ và phát huy những truyền thống
vốn có của làng nghề.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, do có nhiều làng nghề truyền thống phát
triển mang tính bộc phát, thiếu sự quy hoạch đồng bộ hoặc không được chính
quyền địa phương chú trọng nên hiệu quả kinh tế thu được ở những địa
phương đó chưa cao. Khi mức sống và trình độ dân trí của người dân ở các
nông thôn còn thấp, cơ sở hạ tầng và điều kiện vật chất kỹ thuật còn yếu kém
và chưa đồng bộ thì việc khai thác các tài nguyên du lịch nói chung và làng
nghề truyền thống nói riêng gặp nhiều khó khăn. Cần chú ý phát huy và bảo
tồn các làng nghề trước khi chú ý đến lợi ích kinh tế từ đó góp phần quan
trọng cho sự phát triển du lịch.
- Xem thêm -