CUỘC SỐNG GIỮA NHỮNG
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
1
2
GS-TS-KTS Jan Gehl
CUỘC SỐNG GIỮA NHỮNG
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
Sử dụng không gian công cộng
Người dịch:
KTS Lê Phục Quốc
(Qua bản dịch sang tiếng Anh của Jo Koch)
HEALTHBRIDGE CANADA IN VIETNAM
NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỰNG
HÀ NỘI - 2009
3
Jan Gehl
LIFE BETWEEN BUILDINGS
Sixth edition.
© Arkitektens Forlag. The Danish
Architectural Press and Jan Gehl 2006.
Printed: Arco Grafisk A/S, Skive.
ISBN 87-7407-360-5
All Rights reserved.
4
Mục lục
Lời nói đầu ............................................................................... 6
CHƯƠNG I: CUỘC SỐNG GIỮA NHỮNG
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
I.1. Ba loại hoạt động ngoài trời............................................ 9
I.2. Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc................... 15
I.3. Các hoạt động ngoài trời và chất lượng của
không gian ngoài trời..................................................... 31
I.4. Những hoạt động ngoài trời và các xu hướng
kiến trúc......................................................................... 39
I.5. Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc
trong tình trạng xã hội hiện nay..................................... 50
CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT
CỦA QUY HOẠCH
II.1. Các quá trình và những dự án....................................... 55
II.2. Các giác quan, thông tin liên lạc và các kích thước...... 65
II.3. Cuộc sống giữa các công trình kiến trúc
là một quá trình............................................................. 75
CHƯƠNG III: TẬP HỢP HAY PHÂN TÁN
Quy hoạch thành phố và Quy hoạch địa điểm
III.1.
III.2.
III.3.
III.4.
Tập hợp hay phân tán................................................... 83
Hoà nhập hay cô lập................................................... 103
Hút vào hay đẩy ra..................................................... 117
Mở rộng hay che kín.................................................. 125
CHƯƠNG IV: KHÔNG GIAN ĐI DẠO, CHỖ Ở LẠI
Quy hoạch chi tiết
IV.1.
IV.2.
IV.3.
IV.4.
IV.5.
IV.6.
IV.7.
Không gian đi dạo. Chỗ ở lại...................................... 133
Đi bộ........................................................................... 137
Đứng........................................................................... 151
Ngồi............................................................................ 159
Nhìn, nghe và trò chuyện............................................ 167
Nơi thú vị về mọi mặt................................................. 175
Lề mềm....................................................................... 187
Tài liệu tham khảo................................................................ 202
Minh hoạ được sử dụng........................................................ 204
5
Lời Nhà xuất bản
Không gian công cộng trong đô thị là chủ đề rộng, cần thiết, nhưng khó
bởi sự liên quan trực tiếp đến cuộc sống đô thị, vì thế luôn được các nhà
nghiên cứu ở nước ngoài quan tâm, trong đó có GS.TS.KTS Jan Gehl,
Trường kiến trúc, Học viện mỹ thuật hoàng gia Đan Mạch.
Bằng cách đặt vấn đề đơn giản, có thể nói là dung dị dưới cái tên “Cuộc
sống giữa những công trình kiến trúc”, cuốn sách của GS Jan Gehl đã giải
thích dễ hiểu một vấn đề khó: không gian công cộng với con người và
cuộc sống trong đô thị. Đó là những không gian công cộng quen thuộc ở
bất cứ đô thị nào, là những con phố, các quảng trường, những không gian
công cộng khác, nói đúng hơn, là những không gian mở với cây xanh ở
nhiều quy mô khác nhau, từ mảnh sân xinh xắn trước ngôi nhà đến những
công viên thênh thang. Ở đó diễn ra các hoạt động hết sức đa dạng của
người đô thị, từ những hoạt động thuần túy cá nhân nhỏ nhất đến những
hoạt động của từng nhóm xã hội và của cả cộng đồng rộng lớn.
Hiểu được “Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc” quả thật là rất quan
trọng. Đối với người dân, chắc chắn sẽ có thêm tình cảm gắn bó với nơi
mình cư trú, đối với các nhà chuyên môn, những kiến trúc sư, người thiết
kế không gian, càng sâu sắc thêm sứ mệnh góp phần nâng cao chất lượng
thẩm mỹ của không gian công cộng, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người
dân. Và thành phố, như thế sẽ là môi trường sống tốt và có bản sắc. Đó là
nội hàm của cuốn sách và cũng chính là mục đích của tất cả chúng ta.
Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam chủ trương dịch cuốn sách
này sang tiếng Việt là đã nói lên tất cả. Đó là quảng bá thông tin khoa học
về không gian công cộng và cuộc sống đô thị, một lĩnh vực mà ở nước ta
chưa phải là đã được nghiên cứu nhiều với mong muốn góp phần thúc
đẩy việc xây dựng các thành phố sống tốt cho mọi người.
Về phần mình, Nhà xuất bản Xây dựng xin cảm ơn dịch giả, KTS Lê
Phục Quốc, đã tin cậy giao bản thảo, cảm ơn các nhà khoa học đã quan
tâm, đóng góp ý kiến hoàn thiện bản dịch. Đặc biệt xin trân trọng cảm ơn
Tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam, Quỹ Trao đổi và Phát triển
Văn hóa Đan Mạch (CDEF), Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam,
Trung tâm Kiến trúc Đan Mạch (DAC) về ý tưởng xuất bản, trách nhiệm
bảo trợ và sự tin cậy đối với nhà xuất bản để quyển sách ra đời.
Chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng cuốn sách có vị trí xứng đáng
trong bộ sách về đô thị học ở nước ta và chắc chắn là tài liệu tham khảo
bổ ích, đáp ứng nhu cầu của độc giả, nhất là các kiến trúc sư, nhà quy
hoạch, sinh viên kiến trúc và những người quan tâm đến đô thị.
Nhà xuất bản Xây dựng
Giám đốc
Bùi Hữu Hạnh
6
Lời nói đầu
Cuốn sách này đã được xuất bản lần đầu tiên vào thập niên 1970 với
mục đích vạch ra những khiếm khuyết của quy hoạch thành phố và kiến
trúc theo chủ nghĩa Chức năng (công năng) đã thống trị trong thời kì
đó. Nó đòi hỏi sự quan tâm đến những người di chuyển đây đó trong
không gian giữa các công trình kiến trúc, nhấn mạnh sự thông cảm về
những đặc tính tinh tế mà trong suốt cả lịch sử định cư của loài người
đã có liên quan đến sự hội họp của nhân dân trong các không gian công
cộng và lưu ý đến cuộc sống giữa những công trình kiến trúc như một
khía cạnh của kiến trúc, của thiết kế đô thị và quy hoạch thành phố cần
được nghiên cứu kĩ càng.
Đến nay, khoảng 35 năm trôi qua. Nhiều phong cách kiến trúc và các
hệ tư tưởng đã diễn ra cho thấy rằng sức sống của các thành phố và các
khu dân cư vẫn sẽ là một vấn đề quan trọng. Cường độ cùng chất lượng
cao của các không gian công cộng được sử dụng khắp nơi trên thế giới,
cùng sự quan tâm chung đã tăng lên đối với chất lượng của các thành
phố và của những không gian công cộng đang nhấn mạnh điểm này.
Đặc điểm của cuộc sống giữa những công trình kiến trúc thay đổi cùng
với sự thay đổi của tình hình xã hội, nhưng các nguyên tắc cơ bản và
những tiêu chuẩn chất lượng phải được áp dụng trong lĩnh vực công
cộng được chú ý thường xuyên.
Trong những năm qua cuốn sách này đã được cập nhật hoá, sửa lại và dịch
sang 16 ngoại ngữ (*). Bản tiếng Anh in lần thứ 6 này ít giống các bản in
của những lần xuất bản trước đây. Tư liệu mới và các minh hoạ mới đã
được bổ sung, song hoàn toàn không có lí do gì để thay đổi bức thông điệp
ban đầu mà đến nay vẫn có tầm quan trọng cơ bản là quan tâm đầy đủ đến
cư dân và cuộc sống quý giá giữa những công trình kiến trúc.
Vào thời điểm khi các thành phố trên toàn thế giới đang trải qua những
thay đổi lớn trong quá trình phát triển và hiện đại hoá, tôi hi vọng rằng
những nguyên tắc nhân đạo được trình bày trong cuốn sách này có thể
là nguồn cảm hứng cho các quá trình quan trọng đó.
Copenhagen, tháng 01-2006.
Jan Gehl
(*) Bản tiếng Việt xuất bản năm 2009 tại Hà Nội là bản ngoại ngữ thứ 17 được
dịch qua bản tiếng Anh in lần thứ 6 năm 2006 tại Copenhagen, Đan Mạch ─ ND.
7
Chương I
Cuộc sống giữa những
công trình kiến trúc
I.1. Ba loại hoạt động ngoài trời
I.2. Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc
I.3. Các hoạt động ngoài trời và chất lượng của
không gian ngoài trời
I.4. Những hoạt động ngoài trời và các xu hướng kiến trúc
I.5. Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc trong tình
trạng xã hội hiện nay
8
I.1. Ba loại hoạt động ngoài trời
Quang cảnh
đường phố.
Một ngày bình thường trên một đường phố bình thường.
Các khách bộ hành đi trên vỉa hè, trẻ em chơi gần những cửa
ra vào mặt trước nhà, một số người khác ngồi trên các ghế
băng và bậc thềm, người đưa thư đi loanh quanh để phân
phát bưu phẩm, hai khách qua đường chào hỏi nhau trên vỉa
hè, hai công nhân cơ khí sửa chữa xe ôtô, các nhóm người
tụ tập nhau trò chuyện. Sự hỗn hợp những hoạt động ngoài
trời đó đã chịu ảnh hưởng của nhiều điều kiện. Môi trường
tự nhiên là một trong những nhân tố có ảnh hưởng đến các
hoạt động với mức độ khác nhau và bằng nhiều cách khác
nhau. Những hoạt động ngoài trời và nhiều điều kiện tự
nhiên có ảnh hưởng đến các hoạt động đó là chủ đề của cuốn
sách này.
Ba loại hoạt động
ngoài trời.
Được đơn giản hoá nhiều, những hoạt động ngoài trời trong
không gian công cộng có thể được chia thành ba loại (mỗi
loại trong đó đề ra các yêu cầu rất khác nhau về môi trường
tự nhiên). Đó là những hoạt động thiết yếu, những hoạt động
tự chọn và những hoạt động xã hội.
Những hoạt động
thiết yếu ─ trong
mọi điều kiện.
Những hoạt động thiết yếu bao gồm các hoạt động bắt buộc
trong chừng mực nào đó (ít nhiều có tính chất cưỡng bách)
như đi học hoặc đi làm việc, đi mua sắm, đợi xe hoặc chờ
nhau, chạy việc vặt, đưa thư, v.v. - nói một cách khác là tất
cả những hoạt động đòi hỏi phải tham gia với mức độ ít
nhiều khác nhau.
Nói chung, các trò giải trí tiêu khiển và những nhiệm vụ
hằng ngày đều thuộc về nhóm này. Giữa các hoạt động khác,
nhóm này bao gồm đại đa số những hoạt động có liên quan
đến đi bộ.
Vì các hoạt động trong nhóm này là thiết yếu nên phạm vi
của chúng chỉ chịu ảnh hưởng không đáng kể của khuôn khổ
tự nhiên. Những hoạt động đó sẽ diễn ra trong suốt cả năm hầu
như trong mọi điều kiện và ít nhiều độc lập đối với môi trường
bên ngoài. Những người tham gia không có sự lựa chọn.
9
Ba loại hoạt động ngoài trời.
Những hoạt động thiết yếu
Những hoạt động tự chọn
Những hoạt động xã hội
10
Các hoạt động tự
chọn ─ chỉ diễn ra
khi những điều kiện
bên ngoài thuận lợi.
Những hoạt động tự chọn là vấn đề hoàn toàn khác, là những
việc người ta thích làm nếu thời gian và địa điểm cho phép.
Loại hoạt động này bao gồm những việc như đi bộ để hít
thở không khí trong lành, đứng xem cảnh sống vui thích
hoặc ngồi sưởi nắng.
Những hoạt động đó chỉ diễn ra khi các điều kiện bên
ngoài thuận lợi, khi thời tiết và địa điểm quyến rũ. Mối quan
hệ đó quan trọng đặc biệt về quy hoạch theo quy luật tự
nhiên vì đa số những hoạt động giải trí, nhất là những hoạt
động vui thích diễn ra ở ngoài trời đều được xếp đúng vào
loại này. Các hoạt động đó đặc biệt lệ thuộc vào những điều
kiện tự nhiên bên ngoài.
Những hoạt động
ngoài trời và chất
lượng của không
gian ngoài trời.
Khi khu vực ngoài trời có chất lượng không tốt thì chỉ các
hoạt động thực sự thiết yếu mới diễn ra.
Khi khu vực ngoài trời có chất lượng cao thì những hoạt
động thiết yếu diễn ra với tần số gần như nhau - mặc dù
chúng có xu hướng rõ ràng là diễn ra trong thời gian lâu hơn
vì có các điều kiện tự nhiên tốt hơn. Tuy vậy, thêm vào đó,
nhiều hình thức hoạt động tự chọn khác nhau cũng sẽ diễn ra
bởi vì địa điểm và không khí hoạt động có sức lôi cuốn
người ta dừng chân, ngồi lại, ăn, chơi, v.v.
Trên các đường phố và những không gian thành phố có
chất lượng thấp thì chỉ có tối thiểu ít ỏi các hoạt động diễn
ra. Ai cũng vội vàng về nhà mình.
Trong môi trường tốt có thể thực hiện được tất cả những
hoạt động hoàn toàn khác nhau của con người.
Chất lượng của môi trường tự nhiên
Xấu
Mô tả bằng đồ hoạ mối
quan hệ giữa chất lượng
của không gian ngoài
trời và đánh giá sự diễn
ra các hoạt động ngoài
trời.
Khi chất lượng của khu
vực ngoài trời tốt thì các
hoạt động tự chọn sẽ
diễn ra với tần số tăng
lên. Hơn nữa, vì mức độ
hoạt động tự chọn tăng
lên nên số lượng những
hoạt động xã hội cũng
thường tăng lên đáng kể.
Tốt
Những hoạt động
thiết yếu
Những hoạt động
tự chọn
Những hoạt động
xã hội
11
Những hoạt động
xã hội.
Chào hỏi các bạn già ở
Bilbao.
12
Các hoạt động xã hội là những hoạt động phụ thuộc vào sự
hiện diện của các hoạt động khác ở những không gian công
cộng. Các hoạt động xã hội bao gồm trẻ em đùa chơi, chào
hỏi nhau và trò chuyện, các dạng khác nhau của những hoạt
động cộng đồng và cuối cùng là một hoạt động xã hội phổ
biến nhất: những sự tiếp xúc thụ động, nghĩa là chỉ nhìn và
nghe người khác.
Các dạng khác nhau của những hoạt động xã hội diễn ra ở
nhiều nơi: trong nhà ở; ở những không gian ngoài trời của
riêng tư, vườn hoa và ban công nhà riêng; ở các toà nhà công
cộng; ở nơi làm việc; v.v, nhưng trong bối cảnh đó chỉ có
những hoạt động nào diễn ra ở không gian mà công chúng
có thể đến sử dụng thì mới được xem xét.
Các hoạt động ấy cũng có thể được gọi là những hoạt động
“kết quả” bởi vì trong hầu như tất cả các trường hợp chúng
tự tiến triển dần từ những hoạt động liên kết với hai loại hoạt
động kia. Chúng phát triển trong sự nối tiếp từ các hoạt động
khác vì dân chúng ở trong cùng một không gian ấy, gặp
nhau, đi ngang qua hoặc chỉ là trong tầm nhìn thấy nhau.
Những hoạt động xã hội diễn ra tự phát là kết quả trực tiếp
của sự di chuyển đó đây của người dân và ở trong cùng các
không gian ấy. Điều đó có hàm ý rằng những hoạt động xã
hội được ủng hộ gián tiếp mỗi khi các hoạt động thiết yếu và
các hoạt động tự chọn tạo được những điều kiện tốt hơn
trong các không gian công cộng.
Dân chúng dành càng
nhiều thời gian ở ngoài
trời thì họ càng gặp
nhau thường xuyên hơn
và họ càng trò chuyện
với nhau nhiều hơn. Đồ
thị vẽ quan hệ giữa số
lượng hoạt động ngoài
trời và tần số tương tác
(Nghiên cứu cuộc sống
đường phố ở Melbourne
[20]).
110
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 110 120 130 140 150 160 170
Đặc tính của những hoạt động xã hội là khác nhau, phụ
thuộc vào bối cảnh mà chúng diễn ra trong đó. Ở các đường
phố nhà ở, gần trường học, gần những chỗ làm việc, nơi mà
dân số có giới hạn với cơ sở hoặc quyền lợi chung thì các
hoạt động xã hội ở những không gian công cộng có thể rất
toàn diện: việc chào hỏi, trò chuyện, thảo luận và chơi phát
sinh từ những quyền lợi chung và vì người ta “biết nhau”,
bởi lý do duy nhất là họ thường gặp nhau luôn.
Ở đường phố và trung tâm thành phố, hoạt động xã hội nói
chung sẽ có tính chất hời hợt bề ngoài, với chủ yếu là sự tiếp xúc
thụ động - nhìn và nghe nhiều người không quen biết. Nhưng
thậm chí kiểu hoạt động giản dị ấy cũng có thể rất hấp dẫn.
Lí giải một cách rất phóng khoáng, hoạt động xã hội được
diễn ra khi có hai người ở trong cùng một không gian. Nhìn
và nghe nhau, gặp gỡ chính là một hình thức tiếp xúc, một
hoạt động xã hội ở trong đó. Sự gặp gỡ thực tế chỉ là sự tồn
tại hiện thời, hơn nữa là mầm mống cho những hình thức
hoạt động xã hội khác toàn diện hơn.
Sự nối tiếp ấy là quan trọng trong quan hệ với quy hoạch
tự nhiên. Mặc dù khuôn khổ tự nhiên không có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng, nội dung và cường độ của sự tiếp
xúc xã hội, các kiến trúc sư và những nhà quy hoạch có thể
tác động đến khả năng dân chúng gặp mặt, nhìn và nghe những khả năng, không những bảo đảm chất lượng cho bản
thân các hoạt động đó mà còn trở nên quan trọng như bối
cảnh và xuất phát điểm cho những hình thức tiếp xúc khác.
Đó là bối cảnh cho việc điều tra trong cuốn sách này về
những khả năng gặp gỡ và những cơ hội nhìn và nghe những
người khác. Một lí do khác để xem xét lại một cách toàn
diện các hoạt động, đó là sự hiện diện của những người khác,
các hoạt động, những sự kiện, cảm hứng và sự khuyến khích
13
tạo thành một trong những phẩm chất quan trọng nhất của
các không gian công cộng nói chung.
Cuộc sống giữa
những công trình
kiến trúc đã được
định rõ.
Tiếp xúc ở cấp độ đơn
giản nhưng rõ ràng vẫn
là tiếp xúc
14
Nếu chúng ta nhìn lại quang cảnh đường phố là điểm xuất
phát để định rõ ba loại hoạt động ngoài trời, ta có thể thấy
những hoạt động thiết yếu, những hoạt động tự chọn và
những hoạt động xã hội diễn ra như thế nào trong cách kết
hợp tuyệt vời. Người ta đi bộ, ngồi và trò chuyện. Các hoạt
động chức năng, các hoạt động giải trí và các hoạt động xã
hội gắn chặt với nhau trong sự kết hợp có thể tưởng tượng ra
được. Bởi vậy, việc xem xét vấn đề những hoạt động ngoài
trời không bắt đầu từ một loại hoạt động hữu hạn đơn độc.
Cuộc sống giữa các công trình kiến trúc không chỉ có sự đi
lại của bộ hành hoặc các hoạt động giải trí, hay những hoạt
động xã hội. Cuộc sống giữa các công trình kiến trúc bao
gồm toàn bộ những hoạt động kết hợp với nhau để tạo thành
các không gian cộng đồng ở thành phố và các khu dân cư
đầy ý nghĩa và có sức hấp dẫn.
Cả những hoạt động thiết yếu theo chức năng và các hoạt
động tự chọn để giải trí đã được nghiên cứu kĩ trong những
bối cảnh khác nhau suốt những năm qua. Các hoạt động xã
hội và sự kết hợp của chúng để tạo nên cơ cấu cộng đồng thì
nhận được sự quan tâm ít hơn nhiều.
Đó là bối cảnh để xem xét tiếp một cách chi tiết hơn những
hoạt động xã hội trong các không gian công cộng.
I.2. Cuộc sống giữa những
công trình kiến trúc
Cuộc sống giữa
những công trình
kiến trúc và nhu cầu
tiếp xúc.
Khó mà định nghĩa chính xác cuộc sống giữa những công
trình kiến trúc nghĩa là gì trong mối quan hệ với nhu cầu tiếp
xúc [14].
Các cơ hội gặp gỡ và những hoạt động hằng ngày ở các
không gian công cộng của thành phố hoặc của khu dân cư
làm cho người ta có thể ở đó để nhìn và nghe những người
khác, rút kinh nghiệm người khác đã hoạt động như thế nào
trong các hoàn cảnh khác nhau.
Những “tiếp xúc nhìn và nghe” đơn giản này phải được
xem xét trong mối tương quan với các hình thức tiếp xúc
khác và được coi như một phần của toàn bộ những hoạt động
xã hội từ các tiếp xúc rất đơn giản và không tự ràng buộc đến
những mối quan hệ phức tạp và có dính líu về tình cảm.
Khái niệm về các cấp độ (degrees) thay đổi của cường độ
tiếp xúc (contact intensity) là cơ sở của phác thảo đơn giản
hoá sau đây của những hình thức tiếp xúc khác nhau.
Cường độ cao
Cường độ thấp
Tình bạn thân thiết.
Các bạn.
Những người quan biết.
Những tiếp xúc tình cờ.
Những tiếp xúc thụ động (những
tiếp xúc “nhìn và nghe”).
Dưới dạng phác thảo này, cuộc sống giữa các công trình
kiến trúc mô tả chủ yếu những tiếp xúc cường độ thấp có vị
trí ở đáy thang chia độ. So với các hình thức tiếp xúc khác,
những tiếp xúc này có vẻ tầm thường, vậy mà chúng có giá
trị lớn vì vừa là những hình thức tiếp xúc độc lập, vừa là điều
kiện tiên quyết cho những tương tác khác phức tạp hơn.
Các cơ hội chỉ liên quan đến khả năng gặp gỡ, nhìn và
nghe những người khác bao gồm:
- tiếp xúc ở cấp độ đơn giản;
- điểm xuất phát có thể có cho tiếp xúc ở các cấp độ khác;
- khả năng duy trì những tiếp xúc đã thiết lập;
15
Sự khởi đầu có thể có cho những tiếp xúc ở các cấp độ khác.
16
Tiếp xúc ở cấp độ
đơn giản.
- nguồn thông tin về xã hội - thế giới bên ngoài;
- nguồn cảm hứng, lời đề nghị về kinh nghiệm lí thú.
Một hình thức
tiếp xúc.
Những khả năng có liên quan đến các hình thức tiếp xúc có
cường độ thấp xuất hiện ở những không gian công cộng có
lẽ sẽ được mô tả tốt nhất bởi tình trạng đó có tồn tại dù cho
là còn chưa nhiều.
Nếu hoạt động giữa những công trình kiến trúc bị bỏ qua,
điểm cuối thấp nhất của thang tiếp xúc cũng sẽ biến mất.
Các hình thức quá độ đa dạng giữa sự tồn tại đơn độc và sự
tồn tại cùng nhau cũng đã biến mất. Ranh giới giữa sự cô lập
và sự tiếp xúc trở nên rõ nét hơn - người ta hoặc có mặt một
mình, hoặc có mặt cùng với những người khác nữa ở cấp độ
tương đối khắt khe và đòi hỏi nhiều nỗ lực.
Cuộc sống giữa những công trình kiến trúc tạo cơ hội có
mặt cùng với những người khác một cách thoải mái và không
khắt khe. Thỉnh thoảng người ta có thể đi bộ, có thể đi đường
vòng dọc theo đường phố chính trên đường về nhà hoặc tạm
ngưng một lát ở chiếc ghế băng quyến rũ gần cửa ra vào nhà
để được ở giữa những người khác trong chốc lát. Hoặc người
ta có thể đi mua sắm hằng ngày mặc dù trên thực tế việc đó
chỉ cần làm mỗi tuần một lần. Thậm chí thỉnh thoảng nhìn
qua cửa sổ, nếu người ta có đủ may mắn trông thấy được
một cái gì đó cũng có thể cảm thấy thoả mãn. Ở giữa những
người khác, nhìn và nghe họ, tiếp nhận xung lực từ họ hàm
ý các trải nghiệm tích cực, các giải pháp có thể chọn để tồn
tại một mình. Người ta không nhất thiết phải ở cùng với một
người nào đó, nhưng vẫn thấy như đang ở cùng với những
người khác.
Trái với việc làm người quan sát thụ động những kinh
nghiệm của người khác trên máy truyền hình, video hoặc
17
Cơ hội để duy trì sự tiếp xúc đã thiết lập.
18
phim ảnh trong không gian công cộng, bản thân mỗi cá nhân
hiện diện là người tham gia một cách đơn giản, nhưng là
người tham gia rõ ràng nhất.
Phương cách có thể
dẫn đến tiếp xúc ở
các cấp độ khác.
Tiếp xúc có tần số thấp cũng là tình trạng làm cho các hình
thức tiếp xúc khác có thể phát triển. Đó là trung dung của cái
không thể đoán trước được, cái tự phát, cái không được
hoạch định sẵn.
Những cơ hội đó có thể được minh hoạ bằng cách xem
các hoạt động vui chơi của bọn trẻ đã bắt đầu như thế nào.
Những tình huống như thế có thể được sắp xếp. Trò chơi
chính thức hoá (có ghi trong chương trình) được diễn ra ở
các buổi liên hoan mừng sinh nhật và những nhóm chơi
được sắp xếp ở trường. Tuy nhiên, nói chung thì việc chơi
đùa thường không có sắp đặt. Nó phát triển một cách tự
nhiên khi bọn trẻ ở cùng nhau, khi chúng nhìn thấy nhau ở
chỗ chơi, khi chúng cảm thấy thích chơi và “ra ngoài để
chơi” mà thực sự không tin chắc rằng trò chơi sẽ bắt đầu.
Điều kiện tiên quyết đầu tiên là sự có mặt trong cùng một
không gian. Sự gặp gỡ.
Những tiếp xúc phát triển một cách tự phát chỉ kết hợp với
sự có mặt ở nơi những người khác thường thoáng qua rất
nhanh - trao đổi vài lời ngắn ngủi, một cuộc tranh luận ngắn
với người đàn ông bên cạnh ngồi trên ghế băng, nói chuyện
phiếm với đứa trẻ trong xe buýt, quan sát một người nào đó
làm việc và hỏi vài câu, v.v. Từ cấp độ đơn giản ấy, sự tiếp
xúc có thể phát triển sang những cấp độ khác khi những
người tham gia mong muốn. Sự gặp gỡ, có mặt trong cùng
một không gian ở mỗi trường hợp của những hoàn cảnh đó
đều là điều kiện tiên quyết căn bản.
Một cơ hội không
phức tạp để duy trì
những tiếp xúc đã
thiết lập.
Khả năng gặp gỡ những người láng giềng và các bạn đồng
nghiệp thường hay nói về những người đến và đi hằng
ngày là một cơ hội quý giá để thiết lập và sau đó duy trì
sự quen biết một cách bớt căng thẳng và không cần nhiều
nỗ lực.
Các sự kiện xã hội có thể tiến triển một cách tự phát. Các
tình huống được phát triển. Những cuộc thăm viếng và tụ
họp có thể được thu xếp ngay khi được thông báo nếu muốn.
Rất dễ “tạt vào thăm” hoặc “ghé thăm” hay thoả thuận cái gì
sẽ diễn ra ngày mai nếu những người tham gia thường hay đi
ngang qua trước cửa nhà nhau và nhất là thường gặp nhau
trên đường phố, hoặc nói về các hoạt động hằng ngày ở
quanh nhà ở, nơi làm việc, v.v.
19
Thông tin về môi trường xã hội.
20
- Xem thêm -