III.2. Hoà nhập hay Cô lập
Tiếp xúc “bề mặt”
có phân biệt.
Sự hoà nhập có hàm ý rằng các hoạt động khác nhau được
nhiều người cùng tham dự. Sự cô lập có hàm ý một sự
tách biệt của các chức năng và các nhóm người không
giống nhau.
Hoà nhập các hoạt động và các chức năng trong và chung
quanh những không gian công cộng thu hút người ta hoạt
động cùng nhau và truyền cảm hứng cho nhau. Hơn nữa, sự
pha trộn các chức năng và các kiểu người khác nhau giúp
người ta có thể giải thích xã hội xung quanh được cấu tạo
như thế nào và hoạt động như thế nào.
Với sự quan tâm đến vấn đề này, không phải sự hoà nhập
một cách hình thức các toà nhà và những chức năng của
thành phố, mà là sự hoà nhập thực sự các sự kiện với những
người khác nhau trên quy mô rất nhỏ - điều quyết định mức
độ cảm nhận khi tiếp xúc sẽ đơn điệu hay thú vị. Điều quan
trọng không phải là các nhà máy, những nhà ở, các chức
năng dịch vụ, v.v. có được đặt gần nhau trên bản vẽ của kiến
trúc sư, là việc mà những người làm việc và sống ở đó có sử
dụng hay không chính các không gian công cộng ấy ngoài
những hoạt động hằng ngày.
Những mô hình quy
hoạch cho hoà nhập
và cô lập.
Sự phát triển từ thành phố gắn kết thời Trung Cổ với các
hoạt động gần gũi, đến thành phố theo chủ nghĩa Chức năng
cho thấy những khả năng pha trộn và tách biệt người và sự
kiện trong mối liên hệ với quy hoạch vật chất.
Ở các thành phố cũ thời Trung Cổ, giao thông đi bộ cho
phép một cơ cấu thành phố mà các thương gia và những
người thợ thủ công, người giàu và người nghèo, người trẻ và
người già đều cần sống và làm việc sát bên nhau. Những
thành phố như thế là hiện thân của những lợi thế và những
cái bất lợi của một cơ cấu thành phố định hướng hoà nhập.
Có thể thấy, trái lại, cơ cấu quy hoạch thành phố theo chủ
nghĩa Chức năng thể hiện sự tách biệt những chức năng khác
nhau. Kết quả là thành phố được chia thành các khu vực đơn
chức năng.
103
Hoà nhập - một trường đại học ở thành phố.
Khu dân cư rộng liên tục với những nhóm dân cư đồng
dạng, các khu công nghiệp đơn điệu chán ngắt và những
thành phố giả, rộng lớn tương tự được xây dựng quanh một
chức năng đơn lẻ hoặc một nhóm người, chẳng hạn như một
tổ hợp nghiên cứu, một khu đại học, một làng hưu trí, là tất
cả các ví dụ về những khu đơn chức năng như thế.
Trong những khu vực này, một nhóm người đơn lẻ, công
ăn việc làm đơn lẻ, nhóm xã hội đơn lẻ ít nhiều bị cách biệt
với các nhóm khác trong xã hội.
Có lẽ điểm có lợi là một quá trình quy hoạch hợp lí, cự li
ngắn hơn giữa những chức năng tương tự và tính hiệu quả
lớn hơn, nhưng cái giá là làm giảm sự tiếp xúc với xã hội
xung quanh, môi trường nghèo hơn và đơn điệu hơn.
Sự lựa chọn một trong những mô hình quy hoạch ấy là
chính sách quy hoạch được phân biệt rõ hơn, khi các quan hệ
xã hội và những lợi thế thực tế được đánh giá từ chức năng
này đến chức năng khác và sự tách biệt chỉ được chấp nhận
khi những bất lợi của sự tập hợp nhiều hơn lợi thế một cách
rõ ràng. Chẳng hạn như chỉ có một số ít những hoạt động
công nghiệp gây phiền toái nhất là không thích hợp cho sự
hoà nhập với sự cư trú.
Hoà nhập ở tỉ lệ lớn.
104
Ở tỉ lệ lớn, có thể thực hiện một cố gắng nhất quán để pha
trộn tất cả các chức năng không chống đối nhau hoặc không
gây phiền cho nhau.
Mặt bằng thành phố định hướng hoà nhập có thể thực hiện
điều đó bởi sự mô tả các hướng phát triển hoặc những khu sẽ
được mở rộng vào các thời điểm khác nhau, chứ không phải
bởi những chức năng khác nhau, định rõ các phần phát triển
cho năm 2005 đến 2010, đến 2015 thay cho việc định ra những
khu dân cư, khu công nghiệp và khu dịch vụ công cộng.
Thành phố là một
trường đại học và
ngược lại.
Mặt bằng thành phố định hướng hoà nhập cũng có thể là
thành phố mà các chức năng lớn của nó được sử dụng như
một cơ hội làm cho nhiều đơn vị nhỏ hợp thành bối cảnh
rộng hơn - đô thị. Chẳng hạn, các mặt bằng đô thị sử dụng
trường đại học mới như một dịp để bố trí một số khá lớn nhà
ở và doanh nghiệp trong cơ cấu thành phố hoà nhập - một
thành phố đại học với những nhà ở và những doanh nghiệp.
Các cơ cấu thành phố hoà nhập cũ vẫn còn tồn tại sát bên
những khu mới đơn chức năng làm cho người ta có thể nghiên cứu cả hai nguyên tắc quy hoạch.
Trường đại học Copenhagen được bố trí chủ yếu là ở
trung tâm thành phố cũ. Toà nhà chính nằm ở chính giữa,
còn các trường phổ thông và trường cao đẳng thì được rải ra
chung quanh, và các khoa được bố trí ở nhiều địa điểm khác
nhau làm cho người ta thấy như không gian trở nên có ý
nghĩa thiết thực. Các đường phố (của thành phố này) là một
bộ phận của trường đại học và hoạt động như những hành
lang trong và hành lang ngoài làm nhiệm vụ nối tiếp.
105
Cô lập - khu trường đại học.
Khu trường đại học Kĩ thuật, Copenhagen.
Tổ chức xung quanh lô đất đỗ xe trung tâm
Khu Trường đại học Kĩ thuật. Mặt bằng tỉ lệ 1: 20 000
Để so sánh. Toàn bộ khu nội thành Copenhagen
Mặt bằng tỉ lệ 1:20000.
106
Chắc chắn, trường đại học được bố trí rải rác khắp thành
phố là nguyên nhân của nhiều cái bất lợi đối với cơ quan
như một đơn vị hành chính. Nhưng với những người tham
gia, sự tiếp xúc gần với thành phố tạo ra vô số khả năng cho
việc sử dụng thành phố và tham gia vào đời sống của thành
phố. Và đối với thành phố, sự bố trí trường đại học như thế
có nghĩa là sự đóng góp có giá trị về năng lượng, đời sống
và các hoạt động.
Đối nghịch là một cơ sở giáo dục cao cấp được thiết kế
“hợp lí” - khu Trường đại học Kĩ thuật Đan Mạch ở phía
ngoài Copenhagen. Kế hoạch giáo dục được hệ thống hoá,
Ba chức năng của thành phố phải cùng tạo thành cơ sở cho một thành phố sinh động nếu như khái
niệm quy hoạch là để tạo ra các thành phố thay cho các khu đơn chức năng tách biệt.
Trên cao, bên trái: Khu nhà cao tầng 7000 dân được bao quanh bởi khu vực đỗ xe và các bãi cỏ.
Dưới, bên trái: Tổ hợp Phát thanh và truyền hình Quốc gia Đan Mạch. Một nghìn rưởi người được
bao quanh bởi khu vực đỗ xe và khu bãi cỏ xanh không có người ở. Công việc ở đây là bộ phận hành
chính và sản xuất các chương trình truyền hình.
Dưới, bên phải: Trường cao đẳng Sự phạm có 1500 sinh viên được cách biệt tương tự.
107
Hoà nhập ở tỉ lệ nhỏ.
Trên: Hoà nhập nhóm trẻ
và nhóm già trong một khu
nhà ở. Bốn trăm căn hộ và
những ngôi nhà nhỏ xung
quanh nhà và trung tâm
dịch vụ cho những người
cao tuổi (A), trung tâm
chăm sóc ban ngày, vườn
trẻ và các tiện ích cho
thanh niên (B, C và D).
(Khu đô thị trang tân
Solbjerg Have ở Copenhagen, 1978 - 81. Các KTS.
Fællestegnestuen)
108
các đường nối từ khoa này đến khoa kia được tổ chức hợp lí.
Mặt khác, “thành phố này” có rất ít hoạt động. Không có cơ
sở cho nhiều hoạt động hiệu quả. Chỉ có một ít quán cà phê
và quầy bán sách báo, bởi những người sử dụng khu vực này
chỉ là sinh viên và giảng viên.
Việc giảng dạy cho các nhà kĩ thuật chuyên môn hoá quá
sâu, giáo dục không đồng đều được thực hiện trong những
điều kiện tốt nhất có thể - môi trường chuyên môn hoá quá
sâu, không đồng đều - vì sự nối tiếp trực tiếp hằng ngày
giữa môi trường học tập và xã hội nói chung đã bị cắt đứt.
Hoà nhập ở tỉ lệ nhỏ.
Loại bỏ các khu đơn chức năng là điều kiện tiên quyết cho
việc hoà nhập mọi người và các hoạt động khác nhau. Nếu
những khả năng ấy không thể thực hiện được thì công việc
quy hoạch và thiết kế ở tỉ lệ trung bình và tỉ lệ rất nhỏ sẽ là
các nhân tố quyết định.
Chẳng hạn như các trường có thể được bố trí ở giữa khu
phát triển nhà ở và vẫn được tách biệt một cách hữu hiệu
khỏi môi trường xung quanh bằng những hàng rào, tường và
bãi cỏ. Nhưng các trường cũng có thể được thiết kế như một
bộ phận không thể thiếu được của nơi ở. Chẳng hạn như
những lớp học có thể được bố trí xung quanh các đường phố
chung của thành phố mà lúc đó được dùng như những hành
lang và sân chơi. Quán cà phê trên quảng trường được dùng
như quán ăn tự phục vụ của trường, vì thế thành phố trở
thành một bộ phận của quá trình giáo dục. Chức năng thương
mại và các chức năng khác của thành phố có thể được bố trí
tương tự dọc theo đường phố hoặc trên bản thân khu vực
công cộng sao cho ranh giới giữa những chức năng khác
nhau và giữa những nhóm người khác nhau được xoá nhoà.
Mỗi hoạt động đều có cơ hội hoà cùng với hoạt động khác.
Các trung tâm thành phố ở Dronten và Eindhoven của
KTS F.van Klingeren ở Hà Lan [11] minh hoạ cho nguyên
tắc quy hoạch này và những khả năng của nó.
Trung tâm thành phố trở thành quảng trường có mái che
với các trang thiết bị thể thao, màn ảnh chiếu phim, khán
đài, ghế ngồi, v.v. sao cho nó có thể được sử dụng theo nhiều
cách. Về nguyên tắc, các chức năng của quảng trường hoàn
toàn giống như một quảng trường truyền thống.
Thương mại, bóng đá, mít tinh chính trị, các hoạt động tôn
giáo tín ngưỡng, hoà nhạc, nhà hát, các cuộc biểu diễn, cà
phê vỉa hè, triển lãm, trò chơi và nhảy múa đều có thể cùng
tồn tại ở quảng trường đó. Kết quả tiếp theo ở cấp độ cao
hơn, diễn ra trong các hoạt động đa dạng khác nhau của
109
Giao thông hoà nhập hoặc giao thông cô lập.
Các phương thức giao
thông tách biệt khác
nhau dẫn đến kết quả
trong các hệ thống
đường và đường đi bộ
buồn tẻ.
110
Khi toàn bộ giao thông là đi bộ như ở Venice, thì sự tách biệt giao thông
ra khỏi những hoạt động khác của thành phố sẽ không bao giờ trở thành
vấn đề.
đông đảo cư dân thành phố so với các hoạt động thông
thường ở các thành phố khác của Hà Lan.
Hoà nhập cũng là yêu cầu then chốt trong nhiều dự án cải
thiện ở những khu dân cư nhiều tầng đơn điệu được xây
dựng trong thập niên 1960.
Trong dự án đổi mới như thế ở Thuỵ Điển một số nhà kiểu
căn hộ trước đây đã được cải tạo thành nhà công nghiệp nhẹ,
cơ quan văn phòng và nhà ở cho người cao tuổi, làm cho khu
vực này trở nên đa dạng hơn nhiều.
Chính sách hoà nhập này đã đạt được kết quả thật đáng
lưu ý.
Phòng sinh hoạt
chung như một
mô hình.
Ví dụ về phòng sinh hoạt chung trong nhà có thể dùng như
một mô hình cho sự hoà nhập của các hoạt động trong một
tỉ lệ nào đó của đô thị. Ở phòng sinh hoạt chung tất cả các
thành viên trong gia đình có thể bận rộn với các hoạt động
riêng khác nhau, nhưng vẫn có nhiều hoạt động cùng
nhau.
Giao thông hoà
nhập hay giao thông
cô lập.
Trong tất cả các hoạt động đã diễn ra ở phạm vi công cộng
thì giao thông vận chuyển người và hàng trên đường từ chỗ
này đến chỗ khác là hoạt động có tính toàn diện nhất.
Ở mô hình giao thông bình thường, trên các đường phố
hỗn hợp có chia thành giao thông bằng ôtô, bằng xe đạp và
đi bộ, dẫn đến sự trải rộng rõ rệt và phân cách người và các
hoạt động. Khi những người tham gia giao thông được phân
tán hơn nữa thông qua một hệ thống đường khác biệt, mỗi
111
Bốn nguyên tắc quy hoạch giao thông.
Los Angeles (Mĩ)
Hoà nhập giao thông về mặt
giao thông tốc độ cao. Hệ
thống giao thông đơn giản,
không khó khăn với độ an
toàn thấp. Đường phố không
thích hợp cho bất cứ loại
hình giao thông nào ngoài
giao thông ôtô.
Radburn (Mĩ)
Hệ thống tách biệt giao
thông năm 1928 được đưa
vào Radburn, New Jersey:
một hệ thống phức tạp, đắt
tiền, kéo theo nhiều đường
và đường đi bộ song song
và nhiều đường chui. Khảo
sát các khu dân cư cho thấy
rằng nguyên tắc này (về
lí luận đã xuất hiện để cải
thiện sự an toàn giao thông)
hoạt động tồi trong thực tế
bởi vì người đi bộ thích đi
theo con đường ngắn hơn
so với đường an toàn hơn
nhưng dài hơn.
Delft
(Nederland - Hà Lan)
Hoà nhập giao thông về mặt
giao thông tốc độ chậm. Đưa
vào năm 1969, hệ thống này
đơn giản, không khó khăn,
an toàn, duy trì đường phố
như một không gian công
cộng quan trọng cho tất cả.
Khi xe phải được lái đến
nhà, hệ thống hoà nhập này
tốt hơn nhiều so với hai hệ
thống trên.
Venice (Italia)
Thành phố đi bộ. Sự chuyển
biến từ giao thông tốc độ cao
sang giao thông tốc độ thấp
ở ngoại ô thành phố hoặc
khu vực này. Hệ thống giao
thông đơn giản và không khó
khăn, với độ an toàn khá cao
và có cảm giác an ninh hơn
nhiều so với bất cứ hệ thống
nào khác.
112
loại giao thông có đường riêng, thì sự tách biệt ấy là đủ.
Việc lái xe trở nên buồn tẻ hơn, đi bộ buồn tẻ hơn và sống
dọc theo những đường và đường phố ấy trở nên buồn tẻ hơn,
bởi vì một số người đáng kể tham gia giao thông bây giờ bị
cô lập khỏi các hoạt động khác của thành phố.
Thay cho những hệ thống đường phố có phân biệt, có
thể vạch ra những cách khác trong việc sử dụng ôtô và các
phương tiện giao thông nhanh khác.
Chẳng hạn như một tỉ lệ lớn hơn các chuyến đi cá nhân có
thể chuyển từ hệ thống ôtô sang mạng lưới kết hợp của các
hệ thống vận tải công cộng, đi bộ và đi xe đạp.
Tính chất quan trọng của một hệ thống giao thông hoà
nhập đối với cuộc sống của thành phố có thể được quan sát
ở những thành phố mà giao thông chủ yếu là đi bộ.
Ở châu Âu có một số thành phố cũ, trong cuộc sống của
thành phố giao thông không bao giờ phân rõ thành giao
thông bằng ôtô và đi bộ. Thực tế là có một số thành phố đi
bộ như ở miền đồi Italia, các thành phố bậc thang ở Nam Tư,
các thành phố đảo của Hi Lạp, nhất là thành phố Venice ở
Italia có vị trí đặc biệt trong số những thành phố đi bộ. Đó là
những thành phố phải nói là lớn, có dân số hơn 250000
người nhưng lại là một ví dụ giải quyết thấu đáo nhất vấn đề
giao thông đi bộ.
Ở Venice hàng nặng được vận tải trên các kênh đào, trong
khi hệ thống đường đi bộ vẫn hoạt động như mạng lưới giao
thông quan trọng nhất của thành phố.
Ở đây cuộc sống và giao thông cùng tồn tại sát bên nhau
trong cùng một không gian hoạt động đồng thời như không
gian để lưu lại ngoài trời và kết nối quan hệ. Trong bối cảnh
đó giao thông không đặt ra các vấn đề an ninh, khói thải,
tiếng ồn, rác, nên vì thế không bao giờ phải tách biệt sự làm
việc, nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi, giải trí và quá cảnh.
Venice là chỗ sinh hoạt chung với các quá trình hoà nhập
được mở rộng đến quy mô thành phố.
Cũng khái niệm đó giải thích thói quen của người dân Venice đến muộn tại các cuộc gặp mặt được thu xếp trước, bởi vì
người ta chắc chắn gặp bạn bè và người quen hoặc ngừng
nhìn một cái gì đó trong khi đi bộ khắp thành phố này.
Chuyển sang giao
thông tốc độ chậm
tại ranh giới của
thành phố.
Nguyên tắc giao thông chính ở Venice là việc chuyển từ
giao thông tốc độ nhanh sang giao thông tốc độ chậm ở
ranh giới của thành phố chứ không phải ở cửa trước như
nó trở thành thói quen thông thường qua nhiều năm ở đa
số nơi sử dụng ôtô.
113
Ở đâu mà ôtô phải được đến gần lối vào nhà thì giải pháp tốt nhất là nguyên tắc "Woonerf” của Hà
Lan, lúc bấy giờ các đường phố sẽ cung cấp chỗ cho giao thông bằng ôtô tốc độ chậm, bộ hành và
xe đạp. Các đường phố được ghi đầy đủ theo cách có chỉ rõ tình trạng chính của chúng chủ yếu như
những khu vực “giao thông mềm”. Tốc độ giao thông sẽ giảm nữa bởi những đoạn đường dốc thấp
và những cản trở khác.
Ảnh trên: Đường phố Hà Lan trước và sau khi chuyển đổi thành đường phố “Woonerf”.
114
Nguyên tắc ôtô rời khỏi ranh giới của thành phố hoặc ở
góc khu dân cư rồi đi bộ 50 đến 100, đến 150m (170 đến
330, đến 500ft) về nhà gần đây đã trở nên phổ biến ở các khu
dân cư của châu Âu. Đó là sự phát triển tích cực cho phép
giao thông địa phương hoà nhập trở lại với các hoạt động
khác ở ngoài trời.
Sự hoà nhập giao
thông khu vực với
đi bộ.
Sự cố gắng hoà nhập giao thông khu vực bằng ôtô với đi bộ
cũng là sự phát triển tích cực. Nguyên tắc này đã được đưa
vào đầu tiên ở Hà Lan, nơi mà các khu vực được thiết kế
hoặc được phục hồi cho giao thông bằng ôtô tốc độ chậm.
Ở các khu vực Woonerf, ôtô được phép đến gần cửa trước,
nhưng các đường phố đều được thiết kế rõ ràng như những
khu vực đi bộ mà xe ôtô buộc phải chạy với tốc độ chậm
giữa khu vực nghỉ ngơi đã ổn định và khu vực chơi ngoài
trời. Xe ôtô là khách trong lãnh địa của bộ hành.
Khái niệm giao thông ôtô hoà nhập với đi bộ có những lợi
thế đáng kể so với giao thông cô lập. Dù là những khu vực
hoàn toàn không có ôtô vừa có mức độ an toàn giao thông cao
hơn, vừa có thiết kế tốt hơn và có kích thước tốt hơn cho việc
ở lại ngoài trời và giao thông đi bộ nên có giải pháp tối ưu,
khái niệm về sự hoà nhập giao thông của Hà Lan trong nhiều
trường hợp cũng có sự lựa chọn rất có thể được chấp nhận
trong số các phương án lựa chọn, là giải pháp tốt thứ hai.
Sự hoà nhập giao
thông và ở lại
ngoài trời.
Bất chấp các khu vực dân cư được xây dựng theo nguyên
tắc Venice với sự chuyển tiếp từ giao thông tốc độ nhanh
sang giao thông tốc độ chậm ở ranh giới thành phố hay
theo nguyên tắc Woonerf của Hà Lan với các đường phố đa
năng cho giao thông bằng ôtô tốc độ chậm, cũng như cho
giao thông bằng xe đạp và đi bộ, điều quan trọng là phải có
sự cố gắng để hoà nhập giao thông và các hoạt động có liên
quan đến việc ở lại ngoài trời. Khi giao thông bao gồm bộ
hành hoặc ôtô tốc độ chậm thì những luận chứng cho sự
tách biệt khu vực ở lại ngoài trời và khu vực vui chơi ra
khỏi những khu vực cho giao thông đã mất đi căn cứ vững
chắc của chúng. Việc giao thông đến nhà và từ nhà trong
gần như tất cả các trường hợp bao trùm tất cả những hoạt
động ngoài trời trong khu dân cư là lí do tốt cho việc tìm
kiếm để hoà nhập càng nhiều hoạt động khác với giao
thông. Đối với những người đi qua, đối với trẻ em vui chơi
và đối với những sinh hoạt quanh nhà, một chính sách hoà
nhập giao thông sẽ giúp cho các hoạt động hỗ trợ và thúc
đẩy lẫn nhau.
115
Nhiều hoạt động - vui chơi, ở lại ngoài trời, trò chuyện
- sẽ bắt đầu khi người ta thực sự bị lôi cuốn với một cái gì
đó nữa hoặc ở một nơi nào đó trên đường.
Ở lại ngoài trời và đi qua là những hoạt động không có giới
hạn với giới tuyến rõ ràng. Ranh giới của chúng có tính chất
co giãn; việc người tham gia vào các hoạt động cũng vậy.
Các loại hoạt động khác nhau có xu hướng mạnh mẽ đan
xen vào nhau nếu chúng được phép làm như thế.
116
III.3. Hút vào hay Đẩy ra
Hút vào hay đẩy ra.
Các không gian công cộng trong thành phố và trong những
khu dân cư có sức hấp dẫn (hút vào) và dễ tới được nên vì
thế khuyến khích người và các hoạt động vận động từ môi
trường riêng tư đến môi trường công cộng. Ngược lại, các
không gian công cộng có thể được thiết kế sao cho khó đi
vào đó về mặt tự nhiên và về tâm lí.
Hút vào - sự
chuyển tiếp trôi
chảy giữa các khu
công cộng và
riêng tư.
Trong những sự việc khác, môi trường công cộng hút vào
hay đẩy ra là vấn đề môi trường công cộng được bố trí như
thế nào trong mối quan hệ với môi trường riêng tư và vùng
biên được thiết kế như thế nào giữa hai khu vực. Giới tuyến
rõ ràng như người ta thấy ở các khu dân cư có nhà nhiều
tầng, nơi người ta hoặc hoàn toàn ở trong nhà và các tầng
gác riêng tư hoặc hoàn toàn ở khu vực công cộng bên ngoài
trên cầu thang, ở thang máy, hay trên đường phố - trong
nhiều tình huống sẽ làm cho họ khó vào được môi trường
công cộng nếu không cần thiết phải vào.
Mặt khác ranh giới linh động (co giãn) dưới dạng những
vùng chuyển tiếp không hoàn toàn riêng tư mà cũng không
hoàn toàn là công cộng, thường sẽ có thể hoạt động như
những mắt xích nối, làm dễ dàng hơn cả về mặt vật chất và
về mặt tâm lí cho cư dân và cho các hoạt động đi tới đi lui
giữa không gian riêng tư và không gian công cộng, giữa
trong và ngoài. Vấn đề rất quan trọng này sẽ được xem xét
một cách chi tiết hơn trong phần sau (xem trang 189).
Hút vào - để có thể
thấy cái gì đang
diễn ra.
Để có thể thấy cái gì đang diễn ra trong không gian công
cộng cũng có thể là một yếu tố của sự hút vào.
Nếu trẻ em có thể thấy đường phố hoặc sân chơi từ nhà
của chúng, chúng cũng có thể theo dõi cái gì sẽ xảy ra và
thấy ai chơi ở ngoài trời. Như thế thì chúng thường hay có
động cơ để đi ra ngoài trời và chơi, khác với những đứa trẻ
không thể trông thấy cái gì đang diễn ra bởi vì chúng sống ở
nơi quá cao hoặc quá xa.
117
Hút vào - chuyển tiếp dần dần từ trong nhà đến ngoài trời.
Chuyển tiếp dần dần
giữa không gian công
cộng và không gian
riêng tư giúp cư dân
tham gia hoặc tiếp tục
sự tiếp xúc chặt chẽ với
cuộc sống và các sự
kiện trong không gian
công cộng ấy.
Trên: Sân trước bán tư
của nhà trong một dãy
nhà.
Bên phải: Những vùng
chuyển tiếp dần dần
trong khu dân cư nhà
nhiều tầng - nhưng chỉ
cho tầng trệt (Almere,
Hà Lan). Đường phố
như sự hút vào (Saint
Paul Baie, Quebec).
118
Nhiều ví dụ nhấn mạnh mối quan hệ giữa cái có thể trông
thấy và mong muốn được tham gia cũng có thể được tìm
thấy trong các hoạt động của người lớn. Những câu lạc bộ
thanh niên và các trung tâm cộng đồng với những cửa sổ
trên đường phố có nhiều thành viên hơn các câu lạc bộ ở
những phòng của tầng hầm, bởi vì những người qua đường
được truyền cảm hứng để tham gia vào đó vì nhìn thấy cái gì
đang diễn ra và ai đang tham gia. Nhân thể có thể thấy là các
thương gia bao giờ cũng biết rằng bố trí đúng ở chỗ người
qua lại và có cửa sổ hướng ra đường phố là hết sức quan
trọng. Bằng cách cũng giống như thế, quán cà phê vỉa hè hấp
dẫn khiến nhiều người trực tiếp tham gia.
Hút vào - con
đường ngắn và có
thể quản lí được.
Một sự hút vào cũng có thể là một vấn đề về con đường ngắn
và có thể quản lí được giữa môi trường riêng tư và môi
trường công cộng. Nhiều ví dụ minh hoạ ảnh hưởng lớn của
những nhân tố như cự li, chất lượng đường và phương thức
giao thông vận tải của sự nối tiếp giữa người với người và
giữa các chức năng khác nhau.
Các trẻ nhỏ ít khi di chuyển nhiều hơn 50m (170ft) từ
trước cửa nhà của chúng để chơi. Trẻ em thường hay chơi
với trẻ em láng giềng nhiều hơn với trẻ em sống ở xa hơn
một chút.
Một điều phổ biến là gia đình và những người bạn sống
gần nhau gặp nhau nhiều hơn so với người quen sống ở xa
hơn. Tình trạng tiếp xúc không chính thức như “tạt vào
thăm” dễ diễn ra khi người ta sống gần nhau. Điều đó lại có
thể có ảnh hưởng tích cực đến các hình thức tiếp xúc khác.
Thư viện công cộng cũng đã lưu ý đến mối quan hệ trực
tiếp giữa cự li và người mượn sách. Những ai sống gần thư
viện nhất và ai có thể dễ dàng đến thư viện nhất cũng sẽ
mượn nhiều sách nhất.
Sự thay đổi động cơ
- chuyến đi như là
nguyên cớ.
Trong số các điều kiện được đáp ứng phần nào ở các không
gian công cộng là nhu cầu tiếp xúc, nhu cầu hiểu biết và nhu
cầu cho sự kích thích. Những cái đó thuộc về nhóm các nhu
cầu về tâm lí. Hiếm khi thoả mãn những nhu cầu đó được
định hướng mục tiêu và có chủ tâm, như các nhu cầu cơ bản
hơn như ăn, uống, ngủ, v.v. Chẳng hạn như người lớn ít khi
đi đến thành phố với ý định rõ rệt về sự thoả mãn nhu cầu
kích thích hoặc nhu cầu tiếp xúc. Bất chấp mục đích thực sự
có thể có, người ta đi ra ngoài vì lí do hợp lí, đáng tin cậy - đi
mua sắm, đi dạo, đi hít thở không khí trong lành, đi mua báo,
đi rửa xe, v.v.
119
Hút vào - đi đến một nơi nào đó.
Không chú ý đến trang
thiết bị để chơi và trang
trí đẹp đẽ dành cho nó,
bãi chơi về cơ bản vẫn
là nơi gặp gỡ. Bãi chơi
có thể phát sinh ở nơi
trẻ em có thể thường
hay đến và trang thiết
bị cho việc chơi tạo ra
những cơ hội cho việc
dùng thời gian một mình
trước khi những đứa
trẻ khác đến và các trò
chơi thú vị hơn có thể
bắt đầu.
Có lẽ là sai nếu nói chuyến đi mua sắm là lí do để tiếp xúc
và kích thích, bởi vì rất ít người đi ra ngoài sẽ chấp nhận một
sự thật là nhu cầu cho sự tiếp xúc và kích thích đóng một vai
trò nào đó trong kế hoạch mua sắm của họ. Việc là những
người lớn làm việc ở nhà trung bình phải dùng nhiều hơn gần
ba lần thời gian để đi mua sắm so với những người làm việc
120
ở ngoài nhà, và việc các chuyến đi mua sắm được phân bố
đều nhau trong tuần, thậm chí mỗi tuần chỉ đi mua sắm một
lần có lẽ là dễ dàng hơn, làm cho người ta có thể thừa nhận
rằng đối với nhiều người thì việc đi mua sắm hằng ngày
không chỉ là vấn đề để mua đồ dùng.
Đặc điểm chung là các nhu cầu tự nhiên và tâm lí cơ bản
được thoả mãn đồng thời, những nhu cầu cơ bản và dễ định
rõ thường dùng để giải thích và làm động cơ cho việc thoả
mãn cả hai nhóm nhu cầu. Trong bối cảnh đó, việc đi mua
sắm vừa là một chuyến đi mua sắm, vừa là cái cớ, hay là một
dịp để tiếp xúc và kích thích.
Hút vào - đi đến
một nơi nào đó.
Sự gắn bó này của các động cơ nhấn mạnh tầm quan trọng
của nơi đến trong môi trường công cộng: những cái và những
chỗ mà cá nhân có thể tìm kiếm một cách tự nhiên và dùng
đó là động cơ và sự khuyến khích đi ra ngoài. Nơi đến có thể
là những chỗ đặc biệt, điểm canh gác, chỗ ngắm mặt trời lặn
hoặc có thể là cửa hàng, trung tâm cộng đồng, những trung
tâm thể thao, v.v.
Ở nông thôn, với giếng công cộng và nhà tắm giặt, còn có
thể thấy các tiện nghi sinh hoạt như những chất xúc tác chi
phối tất cả các tình huống tiếp xúc không chính thức. Những
lí do ấy thậm chí được hệ thống hoá như ở San Vittorino
Romano (xem trang 88), nơi mà theo truyền thống những
cái xô được để lại bên giếng nên bao giờ cũng có thể “đi ra
và lấy cái xô” nếu có người nào đó nói quẳng đi.
Ở Nam Âu các quầy rượu cũng đóng một vai trò quan
trọng với tư cách là những điểm đến. Người ta đi đến quầy
rượu để uống một li rượu vang, nhưng chắc chắn cũng là để
gặp gỡ bạn bè. Ở những nơi khác trên thế giới thì các quán
rượu, hiệu thuốc và quán cà phê cũng được dùng với mục
đích như những điểm đến và duyên cớ.
Tại các khu dân cư mới, thùng thư, quầy bán sách báo,
tiệm ăn, cửa hàng và những khu thể thao phải đảm đương
vai trò duyên cớ cho cá nhân được có mặt và ở lại trong môi
trường công cộng ấy.
Đối với trẻ em, sân chơi là chỗ có thể đến luôn luôn.
Trong thực tế, vai trò này là một trong những chức năng
quan trọng nhất của sân chơi. Tuy nhiên, ngay cả đa số
sân chơi cũng chỉ được sử dụng hạn chế nên trẻ em chơi
ở những chỗ khác sân chơi ấy trong phần lớn thời gian ở
ngoài trời của chúng, sân chơi vẫn có chức năng quan
trọng là nơi gặp gỡ, nơi mở đầu các hoạt động khác của
trẻ em.
121
Hút vào - làm cái gì đó.
Làm cái gì đó.
Bên trái: Mảnh vườn hoa
nho nhỏ trong khu nhà nhiều
tầng ở Anh.
Dưới: Ngày duy tu bảo
dưỡng ngõ trong khu dân
cư ở Hà Lan. Tất cả các thế
hệ đều tham gia và buổi liên
hoan của những người láng
giềng thường kết thúc ngày
hoạt động nhóm.
Dù các đứa trẻ khác có chơi ngoài trời hay không, bọn trẻ
bao giờ cũng có thể đi đến sân chơi và ở đây bao giờ cũng
có cái gì đó để làm - như là một sự khởi đầu.
Hút vào làm cái gì đó.
122
Cũng như việc trẻ em sử dụng sân chơi như là chỗ để đi đến
và sử dụng trang thiết bị chơi cho đến khi các trò khác có thể
bắt đầu, vườn hoa và công việc làm vườn chẳng hạn, có thể
phục vụ cho cũng mục đích đó rất tốt cho những nhóm lứa
tuổi khác.
- Xem thêm -