Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án giáo phận thái bình lịch sử, thực trạng và những vấn đề đặt ra (tt)...

Tài liệu Luận án giáo phận thái bình lịch sử, thực trạng và những vấn đề đặt ra (tt)

.PDF
27
378
108

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ XUÂN BÀN GIÁO PHẬN THÁI BÌNH: LỊCH SỬ, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ngành Mã số : Tôn giáo học : 62 22 03 09 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội, 2017 Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: - Giáo viên hướng dẫn 1: PGS.TS Nguyễn Hồng Dương - Giáo viên hướng dẫn 2: PGS.TS Chu Văn Tuấn Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: (ghi tên các thư viện nộp luận án) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Giáo phận có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức chặt chẽ có tính toàn cầu của Công giáo. Giám mục quyết định mọi mặt hoạt động của Công giáo trong phạm vi giáo phận phụ trách dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo hoàng và trên cơ sở giáo luật. Vì vậy, xu hướng hoạt động hay sự thịnh suy của giáo hội Công giáo phụ thuộc vào từng giáo phận. Tình hình Công giáo Việt Nam nói chung và giáo phận Thái Bình nói riêng, ngoài xu hướng tích cực là chủ đạo thì trong lịch sử cũng như hiện tại đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, bất cập cho cả giáo hội và cả công tác quản lý của chính quyền địa phương cần được kiến giải để đề xuất hướng giải quyết có cơ sở khoa học dưới góc độ tôn giáo học. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay Đảng, Nhà nước ta cũng như các địa phương Thái Bình, Hưng Yên đang đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, việc quản lý tôn giáo nói chung và đối với hoạt động tôn giáo của giáo phận Thái Bình nói riêng cũng cần có sự đổi mới cho phù hợp. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Giáo phận Thái Bình: Lịch sử, thực trạng và những vấn đề đặt ra” cho đề tài luận án tiến sĩ Tôn giáo học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích làm rõ lịch sử hình thành, thực trạng hoạt động tôn giáo và những vấn đề đặt ra của giáo phận Thái Bình, luận án đề xuất một số khuyến nghị góp phần phát huy mặt tích cực, hạn chế những bất cập của Công giáo ở địa phương. 1 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu để thấy rõ một cách khái quát lịch sử hình thành và phát triển của giáo phận Thái Bình - Làm rõ thực trạng Công giáo ở giáo phận Thái Bình trên các phương diện cộng đồng (giáo dân, giáo sĩ, nhà tu hành, tổ chức giáo hội), niềm tin tôn giáo và thực hành niềm tin tôn giáo, các hoạt động xã hội, văn hóa, … - Nêu lên những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất một số khuyến nghị đối với giáo hội và chính quyền địa phương. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là lịch sử và thực trạng giáo phận Thái Bình, tập trung vào một số vấn đề cơ bản là: cộng đồng tôn giáo, niềm tin tôn giáo và thực hành niềm tin tôn giáo cũng như mối quan hệ tương tác đối với các thiết chế văn hóa, chính trị đương thời. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, trong phạm vi địa giới hành chính của hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên mà giáo phận Thái Bình đang hiện diện. Về thời gian, nghiên cứu giáo phận Thái Bình từ khi Công giáo xâm nhập, hình thành giáo phận (năm 1936) cho đến nay, đặc biệt là từ khi có chính sách đổi mới về công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị quyết số 24 NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị đến năm 2014 (khi được Giám đốc Học viện Khoa học giao đề tài luận án), đồng thời có cập nhật một số số liệu năm 2015, 2016 trong quá trình thực hiện luận án. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài luận án 4.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu 2 Đề tài được tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chú trọng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học, nghiên cứu liên ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu (phân loại và hệ thống hóa); Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp lịch sử; Phương pháp so sánh; Phương pháp chuyên gia... 5. Đóng góp mới của đề tài luận án - Đưa ra đánh giá có tính khái quát về sự hình thành, phát triển của giáo phận Thái Bình. - Khắc họa bức tranh toàn cảnh về đời sống đạo, vai trò của Công giáo đối với đời sống cộng đồng và với xã hội, cũng như đánh giá tác động của việc quản lý nhà nước đối với đời sống đạo của giáo phận Thái Bình. - Từ góc nhìn tôn giáo học, cung cấp thêm những bằng chứng khoa học cho những người đứng đầu giáo phận Thái Bình có sự điều chỉnh hoạt động để phù hợp với xã hội. Đồng thời, để các nhà hoạch định chính sách tham khảo trong việc giải quyết vấn đề phức tạp liên quan đến giáo phận Thái Bình, nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của địa phương. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ về hoạt động của giáo sĩ, giáo dân giáo phận Thái Bình; sự biến đổi đời sống 3 tôn giáo, những đặc điểm của giáo phận, qua đó làm phong phú thêm những nét riêng biệt về đời sống tôn giáo của Công giáo ở Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu đóng góp thêm vào việc hoàn thiện về lý luận quản lý nhà nước đối với Công giáo của giáo phận Thái Bình và trong phạm vi cả nước nói chung. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy tôn giáo học; tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và những người làm công tác tôn giáo ở các địa phương. Đồng thời, Cung cấp thêm những luận điểm khoa học có tính hệ thống cho các nhà hoạch định chính sách về quản lý tôn giáo, khuyến nghị đối với những người có trách nhiệm của giáo phận Thái Bình về các hoạt động tôn giáo. 7. Kết cấu nội dung đề tài luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài luận án chia làm 4 chương: Chương 1: Tổng quan Chương 2: Lịch sử hình thành và phát triển của giáo phận Thái Bình Chương 3: Thực trạng đời sống tôn giáo ở giáo phận Thái Bình Chương 4: Đặc điểm giáo phận Thái Bình, những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị 4 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1- Những công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam liên quan đến lịch sử và đời sống tôn giáo của giáo phận Thái Bình Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam liên quan đến lịch sử và đời sống tôn giáo ở giáo phận Thái Bình của các học giả trong và ngoài Công giáo. Trong đó, đáng chú ý là một số tác phẩm như: cuốn “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng (quyển I), năm 1959; cuốn “Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm (1945-1995)”, phát hành năm 1996 và “Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam” gồm 2 tập, phát hành năm 2008 do tác giả Trương Bá Cần làm chủ biên; bộ sách “Giải thích giáo luật 1983” của linh mục Phan Tấn Thành (Rôma, 1995); cuốn “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” (năm 2001) của tác giả Nguyễn Hồng Dương, “Kỷ yếu tọa đàm khoa học Từ Công đồng Vatican II đến thư chung 1980”, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2005; tác phẩm “Ảnh hưởng qua lại giữa Công giáo và văn hóa Việt Nam” (Nxb tôn giáo Hà Nội 2012) của tác giả Phạm Huy Thông... 1.1.2- Những công trình nghiên cứu về giáo phận Thái Bình Về lịch sử giáo phận Thái Bình, đáng chú ý có các tác phẩm: “Sử ký Địa phận Trung” (năm 1916) do thừa sai Manuel Moreno dòng Đa Minh Tây Ban Nha biên soạn; cuốn “Lịch sử truyền giáo Đàng Ngoài”, (năm 1927) , của Adrien Launy - học giả thừa sai người Pháp; cuốn “Lịch sử truyền giáo của dòng Đa Minh ở Đàng Ngoài” (năm 1928), của Marcos; Cuốn “Kỷ yếu năm Thánh Giáo phận Thái Bình”, Nxb Hà Nội 1996; Trên cơ sở cuốn Kỷ yếu “75 năm thành lập giáo phận Thái Bình 5 (1936-2011), (năm 2011); một số công trình nghiên cứu về lịch sử các giáo xứ cụ thể, một số hương ước làng Công giáo thuộc giáo phận và hai tác phẩm lưu hành nội bộ của Giám mục giáo phận Thái Bình Nguyễn Văn Sang là Giáo huấn phục vụ nói với giới trẻ (xuất bản năm 2004) và Giáo huấn phục vụ nói với giáo dân (xuất bản năm 2005). 1.1.3- Những vấn đề nghiên cứu đặt ra Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và giải quyết được một số vấn đề như: giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Công giáo ở Việt Nam; về các mối quan hệ giữa Công giáo với đời sống chính trị, xã hội, trong đó có giáo phận Thái Bình trong lịch sử dân tộc; tìm hiểu về cơ cấu tổ chức giáo hội, hội đoàn, dòng tu Công giáo; nhân sự truyền giáo; cơ sở vật chất, trong đó có giáo phận Thái Bình; sự hội nhập giữa Công giáo với văn hóa Việt Nam thể hiện qua lối sống đạo, sinh hoạt tôn giáo, văn hóa và kiến trúc, nghệ thuật; sự thích nghi của Công giáo với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam; sự tác động, ảnh hưởng của Công giáo, các khuynh hướng chính trị và phong trào yêu nước của người Công giáo ở Việt Nam và ở giáo phận Thái Bình trong lịch sử và hiện tại. Những công trình này là nguồn tài liệu quý báu, có giá trị khoa học lớn cho việc nghiên cứu đề tài luận án. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu tổng thể về lịch sử, hiện trạng giáo phận Thái Bình. Trên cơ ở tiếp thu những công trình nghiên cứu đi trước, luận án mong muốn đưa ra được một bức tranh tổng quát về giáo phận Thái Bình trong lịch sử và hiện tại, từ đó rút ra những vấn đề đặt ra hiện nay. Luận án tập trung giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất là, khái quát quá trình hình thành, phát triển của giáo phận Thái Bình từ buổi đầu cho đến nay; sự hình thành cộng đồng Công giáo; 6 mối quan hệ giữa lịch sử truyền giáo với các vấn đề chính trị, xã hội ở địa phương. Thứ hai là, làm rõ thực trạng hệ thống tổ chức hành chính đạo, hội đoàn, dòng tu; hoạt động của giáo hội; các hoạt động chính trị, xã hội của giáo phận Thái Bình; đời sống tôn giáo của Công giáo ở giáo phận (chủ yếu trên 3 phương diện là niềm tin tôn giáo, thực hành tôn giáo và cộng đồng tôn giáo). Thứ ba là, nêu lên những vấn đề đặt ra hiện nay của giáo phận Thái Bình. Trên cơ sở đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt bất cập của Công giáo ở giáo phận. Luận án là công trình khoa học tương đối hệ thống và toàn diện về giáo phận Thái Bình được triển khai dưới góc độ tôn giáo học. 1.2- KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1.2.1- Khung lý thuyết nghiên cứu Luận án đưa ra hệ thống 4 câu hỏi xoay quanh lịch sử hình thành, phát triển; thực trạng đời sống đạo; những vấn đề đặt ra đối với giáo phận Thái Bình và các khuyến nghị. Đồng thời, luận án cũng đưa ra các giả thuyết nghiên cứu về các vấn đề của 4 câu hỏi trên, như về đối tượng truyền giáo, về tình hình Công giáo của giáo phận dưới chính sách cấm đạo thời nhà Nguyễn, dưới thời Pháp thuộc, mối quan hệ chính trị phức tạp của Công giáo, về vai trò của Công giáo đối với xã hội ở địa phương và về xu hướng hoạt động của giáo phận. Để thực hiện đề tài, luận án đã đưa ra bốn lý thuyết cơ bản là: Thực thể tôn giáo, Cấu trúc - chức năng, Hội nhập văn hóa và Lý thuyết vùng văn hóa. 1.2.2- Một số khái niệm công cụ để nghiên cứu đề tài luận án 7 Để làm công cụ cho việc nghiên cứu, luận án có đưa ra thống nhất một số khái niệm cơ bản là: Công giáo, Ban hành giáo, Chủng viện, Chủng sinh, Cơ sở tôn giáo, Tín đồ Công giáo, Giáo sĩ, Giám mục, Giáo phận (hay địa phận), Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân, Giáo phận Thái Bình, Giáo hạt, Giáo xứ, Giáo họ, Hội đoàn, Dòng Tên, Dòng Đa Minh (Dominico), Dòng Phan Sinh (Phanxicô), Dòng Âu Tinh (Ausgutine), Hội thừa sai Paris, Lối sống đạo, Nhà chung, Thừa sai, Đại diện Tông tòa, Tòa Giám mục, Truyền giáo. Chương 2 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO PHẬN THÁI BÌNH Căn cứ vào các yếu tố tác động, luận án phân lịch sử hình thành và phát triển của giáo phận Thái Bình làm ba thời kỳ: Từ buổi đầu đến thời điểm thành lập giáo phận (1638 - 1936); Từ thời điểm thành lập giáo phận (năm 1936) đến năm 1954; Từ năm 1954 đến nay. Ở mỗi thời kỳ luận án về cơ bản trình bày 3 nội dung: (1) Quá trình hình thành, phát triển giáo xứ, giáo họ và cơ cấu tổ chức giáo hội; (2) Quá trình hình thành hàng giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ; (3) Niềm tin, thực hành niềm tin tôn giáo và các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ độ đậm nhạt của 3 nội dung này có sự khác nhau và được luận án trình bày theo lịch đại để thấy được tiến trình phát triển của sự kiện. 2.1- THỜI KỲ TỪ BUỔI ĐẦU ĐẾN THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP GIÁO PHẬN (1638 - 1936) Thời kỳ này, lịch sử hình thành giáo phận Thái Bình lần lượt phụ thuộc vào các đoàn truyền giáo như: dòng Tên (1638 - 1665); Hội Thừa sai Paris - MEP (1666 - 1698); dòng Đa Minh Tây Ban Nha (1698 - 1936). Vì thế, các quá trình hình thành tổ chức giáo hội, cộng đồng Dân chúa, cũng như đời sống đạo của giáo phận gắn liền với 8 các tên tuổi các thừa sai của các dòng truyền giáo này, nhất là dòng Đa Minh Tây Ban Nha. 2.1.1- Quá trình hình thành, phát triển giáo xứ, giáo họ và cơ cấu tổ chức giáo hội - Quá trình hình thành, phát triển giáo xứ, giáo họ Công cuộc truyền giáo vào khu vực Thái Bình, Hưng Yên được tính từ năm 1638 do thừa sai Felice Morelli tiến hành, lập họ giáo đầu tiên là Kẻ Bái tại làng Bồ Trang, tổng Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình sau này. Vị linh mục Dòng Tên, quốc tịch Italy này, được coi là “tổ phụ” của giáo phận Thái Bình. Từ Kẻ Bài các thừa sai truyền đạo ra các khu vực khác và lần lượt lập nên các giáo xứ, giáo họ, hình thành các làng Công giáo ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên thuộc giáo phận Thái Bình hiện nay. Đến năm 1936, khi tách ra từ giáo phận Bùi Chu, giáo phận Thái Bình có 50 giáo xứ, 562 họ lẻ. - Quá trình hình thành, phát triển cơ cấu tổ chức giáo hội Tổ chức giáo hội của Công giáo ở khu vực thuộc giáo phận Thái Bình hiện nay có: tổ chức thày giảng, kẻ giảng, Nhà chung, giáo xứ, giáo họ và hội đoàn. Đến khi thành lập giáo phận (năm 1936), các tổ chức này đã thiết lập một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, chặt chẽ gần giống như ngày nay. + Đội ngũ thày giảng được chia làm ba bậc: bậc 1 là các bõ, ngãi (các chú nhỏ), giúp việc cơm nước, phục vụ; bậc 2 là các thày chưa khấn và bậc 3 là các thày đã khấn (bậc thày). + Tổ chức Nhà Đức Chúa Trời (Nhà chung), bao gồm đội ngũ thày giảng, các chú giúp lễ, các bõ ngãi giúp việc khá đông đảo dưới sự cai quản của các thừa sai hay các linh mục người Việt. + Tổ chức ở giáo xứ hình thành Ban Hành giáo, gọi là Hội Hàng phủ hay Hàng xứ, bao gồm: chánh trương, một hoặc hai phó trương, 9 một thủ quỹ, một ủy viên. Giáo họ có trùm chánh, trùm phó, thủ quỹ, ông trương, bà trương với các phần việc khác nhau. + Hội đoàn cũng có người đứng đầu, các thành viên và đặt dưới sự cai quản của các thừa sai hoặc linh mục người Việt. 2.1.2- Quá trình hình thành hàng giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ Trình bày về hàng giáo sĩ Công giáo ở giáo phận Thái Bình luận án chỉ trình bày hàng giáo sĩ người Việt. Tổ chức tiền thân là “nguồn nhân lực ban đầu” hình thành nên hàng giáo sĩ Công giáo ở Việt Nam nói chung và ở giáo phận Thái Bình nói riêng là đội ngũ thày giảng. Hội Thừa sai Paris đã chọn và cử một số thầy giảng ra nước ngoài để được truyền chức linh mục. Sau đó, hệ thống đào tạo giáo sĩ từ trường thử đến tiểu chủng viện và đại chủng viện được hình thành, việc đào tạo linh mục ngày càng được chú trọng, số linh mục được truyền chức ngày một đông. Sự gia tăng về số lượng cùng với hoạt động tích cực truyền giáo của đội ngũ linh mục người Việt, kết hợp với nghệ thuật lôi kéo người vào đạo của các thừa sai và lợi dụng hoàn cảnh thiên tai, dịch họa, chiến tranh, loạn lạc kéo dài liên miên, đời sống nhân dân đói khổ và dựa vào thế lực của giáo hội đối với chính quyền thực dân, phong kiến, nên số lượng giáo dân khu vực Thái Bình, Hưng Yên ngày một đông. Đến năm 1936, khi thành lập giáo phận Thái Bình có 130.000 giáo dân. Họ chủ yếu là người nghèo, theo đạo nhiều khi vì miếng cơm, manh áo, dân gian thời đó có câu “Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Cùng với sự hình thành, phát triển lực lượng giáo dân và đội ngũ linh mục, thời kỳ này các dòng tu cũng xâm nhập, phát triển ở giáo phận Đông Đàng Ngoài, tiếp đến là giáo phận Trung, giáo phận Bùi Chu mà vào các giai đoạn đó giáo phận Thái Bình là một bộ phận. 10 Do đó, lực lượng tu sĩ ở khu vực Thái Bình và Hưng Yên cũng dần hình thành và ngày một nhiều. 2.1.3- Niềm tin, thực hành niềm tin tôn giáo và hoạt động xã hội - Niềm tin, thực hành niềm tin tôn giáo của tín đồ Công giáo giáo phận Thái Bình thời kỳ này được nhìn nhận đánh giá chủ yếu dưới góc độ đời sống đạo. Giáo dân ở khu vực Thái Bình, Hưng Yên nhìn chung rất sốt sắng trong học hỏi giáo lý, tham gia sinh hoạt tôn giáo, đọc kinh sớm tối tại gia đình và đọc kinh chung tại nơi thờ tự. Họ chăm chỉ và nghiêm túc lãnh nhận các phép bí tích, thực hiện giới răn, tham dự các buổi thánh lễ. Tuy nhiên, các thừa sai truyền giáo nước ngoài tuyệt đối tuân thủ sắc lệnh của Tòa Thánh (ngày 11/7/1742) về việc cấm giáo dân thờ Khổng tử và thờ cúng tổ tiên. Điều đó, đã để lại hậu quả làm cho người Công giáo bị đoạn tuyệt với dòng họ, tách biệt khỏi cộng đồng cư dân truyền thống trở thành người “xa lạ” ngay trên chính quê hương của mình như nhiều học giả Công giáo đã thừa nhận. - Trong thời kỳ này, hoạt động xã hội của Công giáo chủ yếu do các nữ tu tiến hành với hình thức phổ biến là chăm sóc trẻ em mồ côi, người già cô đơn, người mắc bệnh phong, khám chữa bệnh từ thiện... để lôi kéo người vào đạo. 2.2- THỜI KỲ TỪ THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP GIÁO PHẬN (NĂM 1936) ĐẾN NĂM 1954 Ngày 09/3/1936, Giáo hoàng Piô XI ra Sắc chỉ Praecipnas Inter Apostocas tách giáo phận Bùi Chu, thành lập giáo phận Thái Bình bao gồm phần đất của hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên, với diện tích 2.207km2, do Giám mục Gioan Casado (có tên việt là Thuận) làm đại diện tông tòa, tòa giám mục đặt tại tỉnh lỵ Thái Bình. 2.2.1- Tình hình giáo xứ, giáo họ và cơ cấu tổ chức giáo hội 11 Một trong những công việc được Tòa giám mục giáo phận Thái Bình quan tâm trước hết là công việc truyền giáo, phát triển giáo xứ, giáo họ. Bên dưới giáo họ là các tổ chức lân đạo, tích đạo hoặc giáp đạo tùy theo tên gọi của từng vùng. Cũng có giáo xứ lại chia thành các giáo khu. Làng Công giáo một mặt được củng cố, mặt khác có thêm những làng Công giáo mới (gồm cả loại hình làng toàn tòng và làng xôi đỗ). Đến năm 1954, toàn giáo phận có 63 giáo xứ, (tăng thêm 14 giáo xứ so với năm 1936). Cùng với sự gia tăng số lượng giáo xứ, giáo họ, giáo phận Thái Bình cũng rất quan tâm củng cố cơ cấu tổ chức giáo hội. Sau khi được tấn phong, Giám mục Gioan Casado tiến hành chọn linh mục giữ các chức vụ tòa giám mục củng cố hệ thống giáo họ, giáo xứ, giáo hạt. Các tổ chức Hội Hàng phủ, Ban Trùm họ phát huy tốt vai trò trong việc trợ giúp linh mục chính xứ về việc đạo cũng như việc đời. Các chức vị của hội Hàng phủ, Ban Trùm họ không có gì thay đổi. Tổ chức giáp đạo (lân đạo, tích đạo) có thêm tổ chức trùm giáp, thư ký giáp. Có khi trùm họ kiêm chức trùm giáp. Hầu hết các hội đoàn có từ trước tiếp tục tồn tại, số lượng hội viên tăng theo từng năm. Tuy nhiên, một số hội đoàn trở thành tổ chức chính trị, vũ trang phản động như “Thanh niên Công giáo diệt cộng”, “Tự vệ Công giáo”, “Đạo binh Đức Mẹ”, “Liên tôn chống cộng”. 2.2.2- Hàng giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ Thời kỳ này, giáo phận Thái Bình trải qua hai đời giám mục là Gioan Casado Thuận giữ chức vụ từ năm 1936 - 1941 và Ubierna Ninh (từ năm 1942 - 1954). Số lượng linh mục, giáo dân, tu sĩ tăng nhanh. Đến năm 1954, giáo phận có 21 linh mục dòng Đa Minh, 64 linh mục người Việt, 35 đại chủng; 160.000 giáo dân, trên tổng số cư 12 dân 1,5 triệu (chiếm tỷ lệ 10,75%) và đội ngũ tu sĩ đông đảo lên tới vài trăm người. Cộng đồng Dân Chúa ở giáo phận Thái Bình thời kỳ này bị phân hóa theo các khuynh hướng chính trị khác nhau. Nhiều giáo dân tích cực tham gia các tổ chức cứu quốc, tham gia kháng chiến, trở thành đảng viên, đoàn viên, hội viên trong các tổ chức cách mạng. Tuy nhiên, một bộ phận tín đồ của giáo phận bị các phần tử lợi dụng tôn giáo, dưới danh nghĩa “chống cộng sản vô thần, bảo vệ đạo”, lôi kéo vào các hoạt động chống lại phong trào kháng chiến do Đảng Cộng sản lãnh đạo, gây nhiều thiệt hại cho cách mạng 2.2.3- Niềm tin, thực hành niềm tin tôn giáo và hoạt động xã hội - Niềm tin, thực hành niềm tin tôn giáo của tín đồ Công giáo giáo phận Thái Bình thời kỳ này cũng được nhìn nhận đánh giá chủ yếu dưới góc độ đời sống đạo. Do ảnh hưởng Thư chung 1951 của các giám mục Đông Dương, đời sống đạo của giáo dân giáo phận Thái Bìnhđã bị sự xáo trộn. Tinh thần chống cộng được hàng giáo phẩm giáo phận phổ biến sâu rộng. Các phần tử phản động lợi dụng Công giáo tổ chức những cuộc rước ảnh Đức Mẹ nhằm lôi kéo giáo dân chống lại phong trào kháng chiến của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, làm cho đời sống đạo của tín đồ bị nhuốm màu chính trị phản động. - Trong hoạt động xã hội, vẫn nổi lên vai trò của các nữ tu với các công việc từ thiện xã hội, chăm sóc trẻ em, mồ côi, nuôi dưỡng người già không nơi nương tựa, phát thuốc miễn phí. 2.3- THỜI KỲ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NAY 2.3.1- Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1990 Giai đoạn này, hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên cũng như toàn miền Bắc được giải phóng, bước vào công cuộc cải tạo và xây dựng 13 chủ nghĩa xã hội, chi viện cho công cuộc kháng chiến chống Mĩ ở miền Nam và trải qua các cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ. Nhất là di chứng của cuộc di cư năm 1954 đối với giáo phận là rất nặng nề. Các đối tượng tay sai phản động lợi dụng Công giáo dùng nhiều thủ đoạn đe dọa, cưỡng bức đồng bào chạy vào Nam. Hầu hết giáo dân, giáo sĩ, tu sĩ và ngay cả giám mục đứng đầu giáo phận Thái Bình đã di cư vào Nam để lại một sự hoang tàn cho giáo phận. Tất cả giáo phận chỉ còn 13 linh mục (phần lớn đã cao tuổi), 23 chủng sinh, 26 nữ tu dòng Đa Minh và khoảng 80.000 giáo dân. Nhiều giáo họ bị “xóa sổ” hoặc “ghép” lại thành một giáo họ mới. Các giáo xứ, tuy không bị mất tên nhưng số lượng tín đồ ít, thiếu linh mục quản xứ. Các hình thức tổ chức dưới giáo họ như giáp, tích, lân ở giáo phận cũng không còn hiện diện. Nhà Đức Chúa Trời không còn hoạt động, Hội Hàng phủ cũng như Ban Trùm họ bị giải tán, thay vào đó là một tổ chức mới Ban Hành giáo xứ, họ đạo với các chức vụ được tiết giảm. Các hội đoàn cũng thu hẹp, chỉ còn hội đoàn phục vụ cho nghi lễ. Đời sống đạo của giáo dân bị nhuốm màu chính trị, hình tượng Đức Mẹ lại bị các phần tử lợi dụng Công giáo sử dụng như một chiêu bài để hù dọa giáo dân di cư. Các cuộc lễ trọng như Giáng sinh, Phục sinh, lễ Thánh quan thày xứ, họ đạo, lễ Đầu dòng, lễ rước ảnh tượng Đức Mẹ, lễ Thánh thể đều hạn chế, thu hẹp vào khuôn viên nhà thờ. Thánh lễ ngày chủ nhật, dù không rầm rộ nhưng vẫn được tổ chức thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của giáo dân. Giai đoạn này, đời sống của giáo dân từng bước thích ứng với xã hội mới. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp thu hút trên 90% giáo dân tham gia. Nhiều giáo dân gia nhập các tổ chức xã hội như hội nông dân, phụ nữ, đoàn thanh niên, đội thiếu niên. Nhiều giáo dân trở 14 thành đảng viên. Không ít thanh niên Công giáo tham gia bộ đội chống Mỹ cứu nước, thanh niên xung phong mở đường, dân quân du kích bảo vệ xóm làng. Giáo phận chỉ dần phục hồi trở lại từ sau khi đất nước được thống nhất (năm 1875), nhất là khi cả bước vào công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước ta (năm 1986). Giám mục người Việt được Tòa thánh bổ nhiệm (Giám mục Đinh Đức Trụ tiếp đến là Giám mục Đinh Bỉnh). Các giáo xứ, giáo họ được phục hồi, mô hình Hội đồng Giáo xứ, giáo họ xuất hiện. Các hội đoàn dần phục hồi dưới tên gọi là giới. Đội ngũ linh mục được đào tạo, bổ nhiệm nhiều hơn, năm 1990 giáo phận có 31 linh mục, đứng thứ ba trong giáo tỉnh Hà Nội, sau giáo phận Vinh (78 linh mục), giáo phận Bùi Chu (48 linh mục), tỷ lệ coi sóc giáo dân ít nhất trên một linh mục trong Giáo tỉnh Hà Nội. Số giáo dân phai nhạt đạo quay lại hoạt động, sinh hoạt lễ nghi Công giáo từng bước khởi sắc. 2.3.2- Giai đoạn từ năm 1990 đến nay Đây là giai đoạn Đảng, Nhà nước tiến hành đổi mới về công tác tôn giáo nói chung và đối với Công giáo nói riêng, đánh dấu bằng việc ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị. Giáo phận lại được Tòa thánh bổ nhiệm Giám mục Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Sang, tiếp đến là Giám mục Nguyễn Văn Đệ, đều là những người năng động, sáng tạo, tận tụy với công việc giáo hội. Do đó, giáo phận Thái Bình đã có những tăng trưởng về mọi mặt. - Số lượng giáo xứ tăng nhanh, giáo họ có phần giảm đi, đến năm 2015 giáo phận có 108 giáo xứ và 368 giáo họ. Mô hình tổ chức giáo hội của giáo phận với thiết chế: giáo phận -> giáo hạt -> giáo xứ -> giáo họ. 15 - Cơ sở vật chất được xây dựng mạnh mẽ và có quy mô lớn. Đến năm 2015, giáo phận có 473 nhà thờ (108 nhà thờ xứ, 365 nhà thờ họ), chỉ còn lại 3 giáo họ chưa có nhà thờ. Nghĩa là đã có thêm 23 nhà thờ mới, đó là chưa kể nhiều nhà thờ xứ, họ đã được xây dựng mới và mở rộng. - Thiết chế tổ chức giáo hội từ Tòa giám mục đến các giáo hạt, giáo xứ, giáo họ được xây dựng, củng cố với cơ cấu chặt chẽ, đầy đủ các ban bệ và xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận. Hội đoàn được khôi phục và phát triển mạnh mẽ với trên 20 loại hội đoàn, 36.560 hội viên, Toà giám mục Thái Bình đã cơ bản thực hiện đoàn ngũ hoá giáo dân. - Đội ngũ linh mục, tu sĩ tăng nhanh. Đến năm 2016, giáo phận có 116 linh mục, 6 phó tế, 112 chủng sinh, 35 tiền chủng sinh; có 16 dòng tu và tu đoàn tông đồ với 225 tu sĩ, 97 dự tu. Số lượng giáo dân cũng tăng nhưng chủ yếu do sự phát triển dân số tự nhiên, người mới nhập đạo không nhiều. Năm 2015, tổng số giáo dân của giáo phận là 133.156 người, chiếm 4,51% dân số trong vùng (Thái Bình và Hưng Yên). - Niềm tin, thực hành niềm tin tôn giáo và hoạt động xã hội được giám mục, linh mục, tu sĩ chú trọng củng cố, phát triển. Sinh hoạt lễ nghi trở lại sầm uất, các dòng tu tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, ủng hộ đồng bào thiên tai, bão lụt. Các tín đồ, tích cực tham gia các hoạt động xã hội do chính quyền tổ chức. 16 Chương 3 THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO Ở GIÁO PHẬN THÁI BÌNH 3.1- THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH ĐẠO VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC GIÁO HỘI 3.1.1- Thực trạng tổ chức hành chính đạo Tổ chức hành chính đạo được tiếp cận cả đơn vị hành chính chính thức (giáo phận, giáo xứ) và tổ chức mang tính liên kết (giáo hạt) hay tổ chức tự quản (giáo họ). Hiện nay, giáo phận Thái Bình thuộc Giáo tỉnh Hà Nội, là một trong 26 giáo phận của Công giáo Việt Nam, được chia thành 8 giáo hạt với 108 giáo xứ và 368 giáo họ. Điều đáng chú ý là Tòa Giám mục giáo phận Thái Bình đang tập trung hoàn thiện và ngày càng đề cao vai trò của giáo hạt và linh mục quản hạt. Đồng thời, đặt Đại diện giám mục tại Hưng Yên, với quyền hành như “đấng bản quyền” trong phạm vi cụ thể. Số lượng giáo xứ tăng mạnh có tính đột biến, giáo họ lại giảm đáng kể trong khi giáo dân lại chỉ tăng theo tự nhiên, người mới theo đạo ít. Do số giáo xứ tăng không tương xứng với sự gia tăng dân số Công giáo nên số giáo dân trong các giáo xứ giảm mạnh. Điều đó, để lại cho giáo phận nhiều hệ lụy. 3.1.2- Thực trạng cơ cấu tổ chức giáo hội Cơ cấu tổ chức giáo hội của giáo phận Thái Bình giai đoạn này được kiện toàn chặt chẽ hơn. - Tòa Giám mục, dưới sự cai quản của Giám mục Nguyễn Văn Đệ. Giúp việc cho giám mục là một số chức vụ và bộ phận do giám mục chỉ định hoặc do bầu cử như: Giáo phủ giáo phận, Hội đồng Tư vấn (Ban Tư vấn), Hội đồng Linh mục và Các ủy ban của giáo phận, Hội đồng Kinh tế, Hội đồng Mục vụ, các khối ban, ngành nhằm tăng cường và nâng 17 cao hiệu quả hoạt động tôn giáo, tái truyền đạo, củng cố đức tin và khuyếch trương thanh thế, ảnh hưởng của Công giáo. - Hội đồng Giáo xứ, do giáo dân trong giáo xứ bầu hoặc do linh mục chính xứ chỉ định, bao gồm giáo dân từ 20 đến 65 tuổi. Cơ cấu của Hội đồng Giáo xứ gồm: Ban Thường vụ và các ủy viên. Ban Thường vụ có: Chủ tịch (Chánh trương); Phó 1: Phó trưởng nội vụ; Phó 2: Phó trưởng ngoại vụ; Thư ký và Thủ quỹ. - Hội đồng Giáo họ cũng có Ban Thường vụ và các ủy viên. Ban Thường vụ giáo họ gồm 05 người: Chủ tịch (trùm chánh); Phó đối nội (trùm Phó 1); Phó đối ngoại (trùm Phó 2); Thư ký và Thủ quỹ. - Các hội đoàn nằm trong các khối, đều có một linh mục đặc trách, có tôn chỉ hoạt động riêng, tổ chức mừng lễ bổn mạng và thường huấn hàng năm theo cấp giáo phận. 3.2- THỰC TRẠNG HÀNG GIÁO SĨ, GIÁO DÂN, TU SĨ 3.2.1- Thực trạng hàng giáo sĩ Hàng giáo sĩ ở giáo phận hiện nay có 124 người có đủ cả ba bậc: giám mục, linh mục và phó tế, gồm 2 giám mục: Giám mục giáo phận Nguyễn Văn Đệ và Giám mục Nguyễn Văn Sang (đã nghỉ hưu); 116 linh mục và 6 phó tế. Là một trong các giáo phận của giáo tỉnh Hà Nội có lực lượng linh mục nhiều nhất so với số lượng giáo xứ và giáo dân.Tính bình quân mỗi giáo xứ ở giáo phận Thái Bình có 1,07 linh mục coi sóc, mục vụ. mỗi linh mục chỉ coi sóc 1.147 giáo dân. Đội ngũ linh mục của giáo phận đa số còn trẻ, được đào tạo cơ bản, chất lượng ngày càng được nâng cao, phần lớn xuất thân từ nông dân, có tinh thần yêu nước, theo xu hướng canh tân trong hoạt động tôn giáo. 3.2.2- Thực trạng giáo dân Số lượng giáo dân của giáo phận Thái Bình không lớn trong cơ cấu dân cư. Hiện có 133.156 giáo dân, chiếm 4,51% dân số trong vùng. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan