ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
MỘT SỐ KHÍA CẠNH VỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Ngô Văn Lệ
HÀ NỘI – 2013
-2-
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Ngọc Trang, học viên cao học khóa 01 chuyên ngành
Hồ Chí Minh học của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu có
nguồn trích dẫn rõ ràng, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Trang
-3-
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Thầy hướng dẫn – GS.TS. Ngô
Văn Lệ, quý Thầy cô giảng dạy tại Khoa Khoa học Chính trị - Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, quý Thầy cô công tác tại Bộ môn Hồ Chí
Minh học cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã hết lòng chỉ bảo, giúp đỡ,
động viên tôi hoàn thành công trình này!
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Trang
-4-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài. .................................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ............................................................................ 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................. 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ............................................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ................................................. 10
6. Đóng góp của luận văn. .................................................................................. 11
7. Kết cấu của luận văn....................................................................................... 12
Chương 1.MỘT SỐ KHÍA CẠNH VỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ................................................................................. 13
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM ............................................................................... 13
1.1.1.Khái niệm về giáo dục ...................................................................... 13
1.1.2. Mục tiêu giáo dục ............................................................................ 14
1.1.3. Triết lý và Triết lý giáo dục ............................................................. 15
1.1.4. Triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh.................................................. 18
1.1.5. Tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục............................ 22
1.2. MỘT SỐ KHÍA CẠNH VỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ................................................................................... 34
1.2.1. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ................................................. 34
1.2.2. Xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập, đào tạo những
công dân hữu ích cho nước........................................................................ 47
1.2.3. Giáo dục làm người (Giáo dục nhân văn) ....................................... 53
1.2.4. Dù khó khăn đến đâu cũng phải dạy tốt, học tốt, “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” ........... 59
Chương 2.VẬN DỤNG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA HỒ CHÍ
MINHTRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM TA HIỆN NAY .... 73
2.1. Thực trạng về tình hình giáo dục của đất nước ta trong bối cảnh hiện nay ... 73
-1-
2.2. Vận dụng triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục ở
Việt Nam ta hiện nay .......................................................................................... 85
2.2.1. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ................................................. 85
2.2.2. Xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập, đào tạo những
công dân hữu ích cho đất nước. ................................................................. 90
2.2.3. Giáo dục làm người (Giáo dục nhân văn) ....................................... 92
2.2.4. Dù khó khăn đến đâu cũng phải dạy tốt, học tốt, “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” ........... 95
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 102
-2-
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Giáo dục là một ngành nghề then chốt, quan trọng nhất trong toàn xã
hội. Bởi lẽ, muốn phát triển đất nước, muốn đất nước trở nên giàu có và hùng
mạnh thì đòi hỏi mọi công dân phải được nâng cao trình độ tri thức, chuyên
môn nghiệp vụ đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của thời đại. Đặc biệt trong
thời đại toàn cầu hóa hiện nay, mọi quốc gia đều quan tâm đến giáo dục, quan
tâm đến việc đào tạo những con người hữu ích cho xã hội. Đất nước ta đang
trong quá trình hội nhập và phát triển nên đòi hỏi mỗi con người Việt Nam
phải có nền tảng tri thức. Khi ta có tri thức ta mới có thể nghiên cứu, phát
triển khoa học công nghệ, phát triển xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Đất
nước Việt Nam ta cũng mong muốn đào tạo được một đội ngũ trí thức vừa
hồng vừa chuyên, vừa rèn luyện cả đức lẫn tài. Một đất nước có được sự hùng
mạnh sánh với năm châu hoặc đứng vững trên trường quốc tế hay không đều
dựa vào bản lĩnh cũng như kiến thức vững vàng của chính dân tộc đó. Phát
triển giáo dục là cơ sở để phát triển mọi ngành nghề khác. Cho nên, ngành
giáo dục có một tầm quan trọng rất lớn. Chính vì những lẽ trên, để xây dựng
một xã hội phồn vinh, một đất nước giàu đẹp văn minh, Việt Nam ta nâng
giáo dục và đào tạo lên một tầm quan trọng lớn và nó được xem là quốc sách
hàng đầu của đất nước.
Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân ta.
Phát triển giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh. Các nhiệm
vụ trọng tâm của giáo dục là nâng cao chất lượng và hiệu quả, phát triển quy
mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm bảo chất lượng, thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và xây dựng
xã hội học tập.
-3-
Ngay sau khi khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến giáo dục. Theo quan điểm của Người, mọi
người dân phải có một sự hiểu biết nhất định, hiểu biết về nhiệm vụ và quyền
lợi của bản thân và của dân tộc mình, quốc gia mình. Nhân dân càng hiểu biết
càng có đủ bản lĩnh và trí tuệ để tham gia vào công cuộc chung của đất nước.
Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao. Khi dân trí cao sẽ xuất
hiện nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người chỉ ra con đường đưa
đất nước thoát khỏi cảnh yếu hèn, chính là con đường phát triển giáo dục.
Người kêu gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta trở thành một dân
tộc văn minh, tiến bộ.
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dành sự quan tâm rất lớn đối với đối với ngành Sư phạm và sự nghiệp phát
triển giáo dục nước nhà. Nền giáo dục của nước nhà trong thời đại Hồ Chí
Minh đã có những khẩu hiệu thật sự ý nghĩa như: Gắn nhà trường với cuộc
sống, trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò, hai tốt: dạy tốt, học
tốt. Mọi lời dạy của Người, nhất là đối với việc giáo dục, đều vừa giản dị,
gần gũi với người dân vừa mang một tính triết lý sâu xa. Triết lý giáo dục của
Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ thể hiện ở lời nói mà là cơ sở định
hướng cho hoạt động thực tiễn giáo dục và xây dựng con người của toàn xã
hội. Triết lý giáo dục của Người nhằm đào tạo cho xã hội những con người
toàn diện, có năng lực, có đạo đức, đồng thời cũng phải có trách nhiệm lớn
lao đối với đất nước, xã hội.
Triết lý giáo dục chi phối, chỉ đạo toàn bộ các khâu, các lĩnh vực cụ thể
của giáo dục, từ nội dung giáo dục, phương châm giáo dục, phương pháp giáo
dục, tổ chức giáo dục…, ảnh hưởng quyết định đến tất cả các cấp của nền
giáo dục, từ tiểu học, trung học, cho đến đại học, trên đại học. Kiểu triết lý
giáo dục nào thì đưa đến kiểu nội dung, phương châm, phương pháp, tổ chức
giáo dục đó.
-4-
UNESCO cũng đã đưa ra triết lý giáo dục: “ Phải coi giáo dục là then
chốt hàng đầu trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống xã hội”; “Học,
học mãi, học suốt đời” ; “Giáo dục có bốn cái trụ là: học để biết - học để làm học để chung sống - học để tồn tại”.
Trong cuộc sống của đất nước hôm nay, không một ngành nào lại
được xã hội, báo chí, đặc biệt các bậc học giả quan tâm, bàn luận nhiều như
ngành giáo dục. Sở dĩ như vậy vì giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bởi giáo
dục ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của mọi nhà, của toàn dân. Nguyện
vọng chung rất chính đáng của nhân dân là đưa được nền giáo dục của nước
nhà vượt qua yếu kém, vươn lên ngang tầm các nền giáo dục tiên tiến trong
khu vực và thế giới.
Chúng ta thường phê phán nền giáo dục dưới thời phong kiến là sách
vở, giáo điều. Điều đó có phần đúng. Nhưng sự thật là, chính nền giáo dục đó
đã thuộc về một phương thức tối ưu cho mọi quốc gia, cho muôn đời, tạo hệ
thống chấp chính cho quốc gia bằng con đường học vấn là cơ bản, dựa trên
nguyên tắc tối thượng “nhân bất học bất tri lý”. Cái thiếu nhất ở cấp độ vĩ mô
nhất trong nền giáo dục hiện thời của đất nước chính là thiếu một nền tảng
khoa học xã hội nhân văn thực sự vững chắc. Một đất nước muốn phát triển
bền vững nhất thiết phải có một nền tảng khoa học xã hội nhân văn bền vững.
Một nền giáo dục muốn phát triển cũng phải có một nền tảng khoa học xã hội
nhân văn vững chắc. Thành tựu khoa học giáo dục hiện có ở nước ta vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu này. Trong nội dung giáo dục, với thời hiện đại, tất
nhiên phải coi khoa học tự nhiên công nghệ là mũi nhọn, là động lực chính
nhưng rõ ràng nó không phải là nền tảng mà khoa học xã hội nhân văn mới là
nền tảng và đóng vai trò điều tiết trong phát triển.
Hiện nay, đất nước ta đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân
thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo,
-5-
các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục
đã được mở rộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rệt về
số lượng học sinh, sinh viên. Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà
trường (bán công, dân lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không
chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu
niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu
hình thành xã hội học tập. Tuy nhiên, ở tất cả các cấp học, bậc học, cách dạy,
cách học trong các nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, nặng về lý
thuyết, nhẹ về thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo
của người học. Cách thức đánh giá, tổ chức thi cử chậm được đổi mới, tạo ra
tâm lý dạy và học để đối phó với thi cử, gây căng thẳng cho người học, người
dạy, cho xã hội, làm chậm quá trình đổi mới phương pháp dạy và học trong
nhà trường.
Dù đã trải qua một thời gian khá dài – gần một thế kỷ nhưng triết lý giáo
dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mang một giá trị thực tiễn lớn lao vì xã
hội nào, thời đại nào con người cũng cần phải tích cực học tập, rèn luyện, trau
dồi kiến thức, kỹ năng thực hành để góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển
đất nước. Từ những lẽ trên, tác giả nhận thấy cần phải có một phương pháp
tích cực nhằm đổi mới giáo dục, do đó tác giả chọn đề tài: " Một số khía cạnh
về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh" làm chủ đề nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
và triết lý giáo dục đã được nhiều tác giả nghiên cứu và nhiều công trình
được công bố. Khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có các
công trình sau:
-6-
Công trình nghiên cứu: “ Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc” của giáo
sư Song Thành, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, xuất bản năm 2005. Công
trình nghiên cứu này gồm 20 chương chia ra thành 3 phần. Tư tưởng Hồ Chí
về giáo dục – đào tạo nằm trong chương 15 thuộc phần thứ 2. Chương này đề
cập đến những tư tưởng lớn của Bác Hồ về giáo dục – đào tạo và những vấn
đề có ý nghĩa thời sự trong thời điểm hiện nay. Đồng thời trong chương này
cũng bàn về tư tưởng Hồ Chí minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau đề thấy rõ bác luôn đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ đối với công cuộc
cách mạng của dân tộc và luôn có những phương thức, biện pháp bồi dưỡng
thế hệ đời sau phù hợp vá hiệu quả.
Công trình nghiên cứu của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “Hồ
Chí Minh tiểu sử”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – xuất bản năm
2006, do PGS.TS Vũ Đình Hòe chịu trách nhiệm xuất bản. Công trình này
gồm 13 chương. Trong đó chương 8 và chương 9 bản về việc mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân (giai đoạn 1945 – 1954), giáo dục là nền
tảng, được xem là một trong những nhiệm vụ chủ chốt quan trọng tạo sức
mạnh mới cho cuộc kháng chiến, đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị và tư
tưởng cho bộ đội.
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – xuất bản năm 2008 do TS. Nguyễn
Duy Hùng chịu trách nhiệm xuất bản. Giáo trình này gồm 12 chương, trong
đó chương 11 bàn về văn hóa giáo dục. Giáo trình này nói rõ: theo quan điểm
Hồ Chí Minh, Giáo dục phong kiến là xa rời thực tế, coi kinh sách của thánh
hiền là đỉnh cao tri thức; nền giáo dục thực dân là giáo dục ngu dân, là nền
giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát; Nhiệm vụ của nền
giáo dục mới Xã hội chủ nghĩa là phải làm cho dân tộc ta trở thành dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động và phải có thực học.
-7-
Công trình nghiên cứu của Giáo sư Phạm Minh Hạc "Triết lý Giáo dục
Việt Nam và Thế Giới" . Cuốn sách này được Giáo Sư viết liền mạch trong 6
tháng, không nghỉ. Nhiều luận điểm, đường lối, tư tưởng, chính sách phát
triển giáo dục – đào tạo được chứa đựng trong cuốn “Triết lý giáo dục Việt
Nam và Thế Giới” sẽ giúp ích cho những người làm giáo dục, các thầy cô
giáo và sinh viên sư phạm trong tương lai. “Để xứng đáng là dân tộc thông
thái, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu, xây dựng nền giáo dục nhân văn và công nghệ, thực học, thực
nghiệm, giúp mỗi người học hình thành, phát triển, phát huy giá trị bản thân –
nhân cách đượm tính nhân văn và năng lực, thành người, làm người và ở đời,
có tay nghề và lương tâm nghề, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất
nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ngoài các công trình trên còn có các công trình khác như sau:
- Một số vấn đề giáo dục Việt Nam của Giáo sư Phạm Minh Hạc, nhà
xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010.
- Hơn 50 năm diệt dốt do Giáo sư Phạm Minh Hạc chủ biên, Ủy ban
Quốc gia chống nạn mù chữ xuất bản, Hà Nội, 1996.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường đưa đất nước đến phồn
vinh, nghiên cứu văn kiện Đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất
bản thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của Đặng Quốc Bảo, nhà xuất bản
Giáo dục, 2008.
- Triết học giáo dục ở Việt Nam của Thái Duy Tuyên, nhà xuất bản Đại
học Sư Phạm Hà Nội, 2007.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam, Tiến sĩ
Bùi Đình Phong, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2001
-8-
- Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên của Văn Tùng
do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 1999 tại Hà Nội
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau,
Trần Quy Nhơn, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 2005
- Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác bồi dưỡng giáo
dục và tổ chức Thanh niên trong thời kỳ mới của Quang Vinh, Nhà xuất bản
Thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
Phần lớn các tác giả của các công trình trên đã nghiên cứu “ Một số khía
cạnh về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ chí Minh và trong giai đoạn hiện
nay” nhưng chưa toàn diện, chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể khía cạnh vấn
đề. Đặc biệt, đất nước ta đang tiến hành xã hội hóa giáo dục, tạo mọi điều
kiện cho người dân có thể học tập dưới mọi hình thức, nhiều loại hình đạo đào
tạo mở rộng. Nền giáo dục của nước ta hiện nay đã có những thành tựu rất
đáng tự hào. Tuy vậy, trong giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém, khuyết
điểm đang gây lo lắng, bức xúc trong xã hội. các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu
kỹ vấn đề này nhằm phát huy các mặt tích cực, khắc phục nhanh chóng những
bất cập, yếu kém và khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục,
tạo ra sự chuyển biến rõ rệt để giáo dục tiếp tục phát triển, góp phần thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong đề tài này, người viết kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên
cứu các công trình trên. Từ đó, tác giả nghiên cứu một cách có hệ thống một
số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ chí Minh và trong giai
đoạn hiện nay, rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong hoàn cảnh
thực tế diễn ra trên đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Đề tài tìm hiểu và làm rõ những khái niệm về
giáo dục, hoạt động giáo dục và một số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư
-9-
tưởng Hồ chí Minh và trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời rút ra những bài
học kinh nghiệm có thể vận dụng trong trong công tác giáo dục hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Khái quát quá trình hình thành, nội dung triết lý
giáo dục trong tư tưởng Hồ chí Minh. Rút ra bài học kinh nghiệm vận dụng
trong thực tiễn giáo dục hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Một số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư tưởng
Hồ chí Minh
- Phạm vi nghiên cứu: Một số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ
chí Minh và trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận:
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tư
tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học
vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết
thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có
tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ... Có thể nói, tư tưởng của Hồ
Chí Minh về giáo dục là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn
hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống.
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Về phương pháp luận, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục và công tác giáo
dục.
- 10 -
Phân tích tài liệu: phân tích các nguồn tài liệu, số liệu sẵn có về các công
trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng, hoạt động giáo dục của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Phương pháp lịch sử: là tập hợp, sưu tầm, xử lí các nguồn tư liệu về giáo
dục có liên quan đến một số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Các nguồn tư liệu như: các văn kiện, các bài viết, bài phát biểu, công trình
khoa học, các bài hồi kí có liên quan.
Phương pháp lôgic: là nghiên cứu sự vật, hiện tượng nhằm tìm ra bản
chất sự vật, hiện tượng, từ đó khái quát thành lý luận, vạch ra quy luật phát
triển. trình bày có hệ thống các vấn đề trong mối quan hệ có tính tương tác
với nhau
Phương pháp thống kê: thống kê số liệu về tình hình giáo dục của đất
nước.
6. Đóng góp của luận văn.
Dựa trên cơ sở phân tích một số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư
tưởng Hồ Chí Minh cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến
giáo dục. Người có tư tưởng xuyên suốt về giáo dục. Đào tạo con người xã
hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học
và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển
con người toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như
vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải có
học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác
- Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày.
Luận văn sẽ cung cấp những tư tưởng giáo dục cũng như phương pháp
giáo dục hiệu quả, thiết thực của Hồ Chí Minh nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước góp phần phát triển đất nước
trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
- 11 -
Đồng thời, luận văn sẽ cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho những
người quan tâm đến công tác giáo dục của Hồ Chí Minh và dùng làm tài liệu
phục vụ cho giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minhvề công tác giáo dục.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có hai chương:
Chương 1: " Một số khía cạnh về triết lý giáo dục trong tư tưởng Hồ
Chí Minh" (từ trang 11 đến trang 79), giới thiệu một số khái niệm về giáo
dục, mục tiêu giáo dục , triết lý và triết lý giáo dục, triết lý giáo dục của Hồ
Chí Minh, tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, một số triết lý về
giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 2: “Vận dụng triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh trong công
tác giáo dục ở Việt Nam ta hiện nay” (từ trang 80 đến trang 107), trình bày
nhận thức chung về tình hình giáo dục của đất nước ta trong bối cảnh hiện nay
và vận dụng triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục ở Việt
Nam ta hiện nay.
- 12 -
Chƣơng 1.
MỘT SỐ KHÍA CẠNH VỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm về giáo dục
Giáo dục là nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ
năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp
hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục
đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống
xã hội ” [32,tr.110]
Giáo dục là “đào tạo và phát triển con người về mặt trí tuệ, tình cảm,
trau dồi cho con người ý thức trọng sự thật, yêu cái đẹp, làm điều hay; phát
triển ở con người và có hệ thống, một khả năng hay một tình cảm” [31,tr330]
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và
người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách
người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như
là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn,
truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn
hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và
nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ
của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên
cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và
làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử
trong xã hội.
- 13 -
Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự
phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh. Quá trình dạy học nói riêng
và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành tố có liên hệ mang tính
hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo
dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá.
1.1.2. Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Mục tiêu giáo dục là vấn đề quan trọng nhất trong triết lý giáo dục. Đó
là vấn đề dạy ai, dạy cái gì và dạy để làm gì. Cho nên, nói tới đổi mới hay cải
cách giáo dục, trước hết là bàn ngay đến mục tiêu giáo dục, lấy đó làm tư
tường chỉ đạo quan trọng nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Chất lượng
giáo dục đạt đến mức nào cũng lấy việc thực hiện mục tiêu làm căn cứ đầu
tiên. Mục tiêu giáo dục thể hiện chức năng, vị trí, vai trò của giáo dục trong
xã hội.
Dân chủ và công bằng là những đặc trưng quan trọng của Chủ nghĩa xã
hội, bởi vậy cần phải được coi là những nguyên tắc chủ chốt của giáo dục
Việt Nam. Giáo dục Việt Nam là nền giáo dục nhân dân, của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, tạo môi trường trao đổi, thảo luận thẳng thắn, không
mang tính áp đặt, nhất là đối với những vấn đề liên quan đến sự quan tâm và
lợi ích chung của xã hội, cộng đồng tập thể. Mục tiêu của giáo dục là đào tạo
nhân lực, nhân tài phục vụ phát triển đất nước. Vì thế, chương trình giáo dục
phải toàn diện, chủ trương đào tạo kiến thức, kỹ năng và giáo dục phẩm chất
đạo đức, cân đối giữa lý thuyết và thực hành, chú trọng tự học…
- 14 -
1.1.3. Triết lý và Triết lý giáo dục
a. Triết lý
Trong hệ ngôn ngữ La tinh, xuất phát từ tiếng Hy lạp, có một chữ
“Philosophy” (có nghĩa là yêu thông thái, anh minh), chuyển sang Tiếng Việt
thành “Triết học”. Trong tiếng Trung Quốc và Tiếng Việt bên cạnh thuật ngữ
“Triết học” còn có thuật ngữ “Triết lý”. Trung Quốc có khi dùng thuật ngữ
“Triết lý” để chỉ một vấn đề lớn, có khi đến tầm cỡ quốc gia, cho đến một vấn
đề cụ thể.
Nhìn chung, “triết học” và “triết lý” đều bắt đầu bằng chữ “triết” nhằm
chỉ sự an hiểu, tri thức đại quát, bản chất thông thái, chỉ khác nhau ở từ ngữ
phía sau: “ học” là học thuyết, khoa học, môn học, khoa đào tạo; “lý” là lý lẽ,
lý giải, ý sâu xa, một câu tất yếu, một câu châm ngôn, rất khái quát. Có thể
hiểu, “triết lý là triết học đã được vận dụng vào một trường hợp cụ thể gắn với
cuộc sống thực ở cấp độ nào đó, trong một phạm vi nào đó”[34, tr.117].
Theo Giáo sư – Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì “Triết lý là là triết học
mang lại thực tế nào đó cho con người, cộng đồng, xã hội ( có thể dùng thuật
ngữ: philosophy – triết lý).
Triết lý là “quan niệm về cuộc sống và cách giải quyết những vấn đề
mà nó nêu lên” [31, tr.854]. Có thể hiểu cách khác: Triết lý quan niệm chung
về những vấn đề nhân sinh, xã hội.
b.Triết lý giáo dục
Triết lý giáo dục là “thực tế giáo dục đã được con người, cộng đồng, xã
hội trải nghiệm được đúc kết lại thành một giá trị được biểu đạt trong câu
ngắn gọn, ca dao, tục ngữ, cụm từ…nhằm truyền đạt, tiếp thu và thể hiện
trong cuộc sống, mang lại một giá trị nhất định cho con người, cộng đồng, xã
hội, duy trì và làm nảy nở cái đúng, tốt, đẹp, ngăn ngừa, sửa chữa, loại trừ cái
sai, cái ác, cái xấu” [31, tr.17].
- 15 -
Triết lý giáo dục có thể có ở các cấp độ khác nhau: một cá thể, một tập
thể, cả một quốc gia cho cả hệ thống giáo dục bao gồm đường lối chiến lược,
chính sách... phát triển giáo dục, thái dộ đối với nhà giáo, với học trò, vận
dụng vào xác định mục tiêu, kế hoạch giáo dục, chỉ đạo phát triển chương
trình, sách giáo khoa dến một trường, một lớp học, một nhà giáo, một gia
đình. Triết lý giáo dục coi giáo dục là giá trị sống, và giáo dục mang lại cho
con người cách thức để thực hiện các giá trị sống.
Ở nước ta, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 có triết lý giáo dục rất
sáng suốt. Nhiều người khẳng định: từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
dưới chế độ Dân chủ Cộng hòa, nước nhà có một triết lý giáo dục có hệ thống,
từng bước hoàn chỉnh. Toàn dân với nồng cốt là đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã tích cực thực hiện suốt hơn
nửa thế kỷ, đã đạt kết quả tốt đẹp, nhưng đến nay cần xem xét, bổ sung cho
phù hợp với thời đại mới, hoàn cảnh mới.
Tiến bộ xã hội gắn liền với giáo dục. Với con người lại càng rõ, học
hành đem lại cuộc sống tốt đẹp. Tiến hóa nhân loại, tiến bộ xã hội, hạnh phúc
con người có tới mấy triệu năm gắn liền với nhau. Theo đó, tư tưởng lý luận,
triết lý giáo dục được xây dựng, các thời tiếp nối nhau phát triển, đáp ứng nhu
cầu của xã hội và trước hết của các triều đại, chính thể các nước và ngày nay,
cả phạm vi toàn cầu. chính quyền dù theo hình thái nào cũng quan tâm mở
trường, có chính sách nuôi dưỡng học sinh giỏi, đào tạo và trọng dụng người
tài, vị thế của nghề và người dạy học ngày được nâng cao…chẳng những để
có những người phục vụ đắc lực cho chế độ và cải thiện sản xuất, đời sống
mà còn cần đông đảo người dân trong cộng đồng xã hội thực thi ngày một tốt
hơn nền cai trị của chính quyền và tham gia quá trình nâng cao trình độ lực
lượng sản xuất. Vì thế, trong các chính sách giáo dục, chú ý hơn cả là chính
sách mở rộng giáo dục.
- 16 -
Hầu hết các quốc gia, dân tộc đều thống nhất việc cụ thể hóa và vận
dụng vào nước mình đường lối và chính sách giáo dục chung của thế giới là
thuộc về nhà nước. Có thể nói, thành tựu giáo dục ở mỗi nước trước hết phụ
thuộc vào đường lối, chính sách phát triển giáo dục do nhà nước quyết định.
Ở nước ta ngày nay, muốn đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
thành công, một điều kiện tiên quyết là tất cả các cấp ủy Đảng, các cấp chính
quyền từ Trung ương đến địa phương, toàn Đảng, toàn dân với nồng cốt là
các nhà giáo và các cấp quản lý giáo dục phải thực hiện bằng được phát triển
giáo dục, đào tạo thật sự như là quốc sách hàng đầu.
Theo Giáo sư – Viện sĩ Phạm Minh Hạc, muốn thực hiện “đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục – đào tạo” và “Chiến lược giáo dục – đào tạo 20112020” phải có triết lý giáo dục Việt Nam. Triết lý giáo dục là ý nghĩa sâu xa
đã được trải nghiệm, là tư tưởng giáo dục (cả đào tạo), lý luận chung về giáo
dục, đường lối, chủ trương, chính sách phát triển giáo dục, phương châm,
nguyên lý chỉ đạo .
Triết lý giáo dục là tư tưởng chỉ đạo giáo dục công dân của một đất
nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể nhằm đạt được những kỳ vọng của
đất nước với từng công dân, và trách nhiệm của công dân đối với đất nước.
Triết lý giáo dục bao giờ cũng mang tính lịch sử. Điều này thể hiện ở hai khía
cạnh, một là, triết lý phát triển của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử khác
nhau sẽ quy định triết lý giáo dục phải theo nó ở mỗi giai đoạn là khác nhau;
hai là, triết lý giáo dục phải được xây dựng từ chính thực tiễn của từng giai
đoạn lịch sử, nhằm phù hợp với hoàn cảnh địa lý, môi trường xã hội, môi
trường tự nhiên, con người, văn hóa... Không thể áp dụng triết lý của dân tộc
này cho dân tộc khác, cũng không thể áp dụng triết lý giáo dục của giai đoạn
lịch sử này cho một giai đoạn lịch sử khác. Triết lý giáo dục nằm trong triết lý
phát triển của đất nước, là một bộ phận cấu thành nên triết lý phát triển của
- 17 -
- Xem thêm -