văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại.
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DTTS: Dân tộc thiểu số
VHDTTS: Văn học dân tộc thiểu số
VHDG: Văn học dân gian
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
1
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................2
B - PHẦN NỘI DUNG............................................................................................6
I. Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – Một bộ phận văn học
đậm đà bản sắc dân tộc...........................................................................................6
II. Một số đặc điểm cơ bản của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện
đại. 9
2.1. Văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – một số đặc điểm cơ
bản............................................................................................................................ 9
2.1.1. Các chặng đường phát triển của văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam....................9
2.1.2. Một số đặc điểm về nội dung.......................................................................10
2.1.3. Một số đặc điểm về nghệ thuật...................................................................13
2.2. Thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam – một số đặc điểm cơ bản.......................16
2.2.1.....Nhìn lại các chặng đường phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số
Việt
Nam........................................................................................................................ 16
2.2.2.Những đặc điểm cơ bản về nội dung ..........................................................18
2.2.3. Những đặc điểm cơ bản về nghệ thuật.......................................................21
2.3. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.................................................................22
2.3.1. Nông Quốc Chấn – nhà thơ Tày xuất sắc..................................................22
2.3.2. Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng....................24
III. Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam – Một số phận bên lề
và
một vài kiến nghị...................................................................................................28
C - KẾT LUẬN......................................................................................................30
THƯ MỤC THAM KHẢO.....................................................................................31
2
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
A.
PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng tôi xin được phép mượn một câu nói trong cuốn "Văn học dân tộc
và miền núi" (Nxb Văn hóa dân tộc 2002, tr.41) để làm lời mở đầu cho
những suy nghĩ của mình về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam:
"Văn học viết các dân tộc thiểu số vẫn còn nằm bên lề của việc giảng
dạy văn học, nằm bên lề của các sách giáo khoa, giáo trình và trong các
diễn đàn văn học có nghĩa là nó vẫn nằm bên lề của cuộc sống văn học
Việt Nam hiện đại". Câu nói đó từ cách đây hơn mười năm nhưng vẫn sẽ
là một lời cảnh tỉnh đối với chúng tôi và rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà
giáo dục, độc giả cả nước về vai trò,vị trí của văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam trong cuộc sống văn học Việt Nam hiện đại. Phải thú nhận
rằng, chúng tôi là những nhà giáo dục nhưng chưa thực sự để tâm đến bộ
phận văn học này của văn học Việt Nam. Chúng tôi thấy thật vui mừng
khi trong chương trình đào tạo Thạc sĩ của Đại học Thái Nguyên có môn
học Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam do PGS. TS Trần Thị Việt
Trung – người có bề dày nghiên cứu về Văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam giảng dạy. Đây là một môn học cần thiết, không chỉ mang đến
cho chúng tôi những cái nhìn sâu sắc về một bộ phận của văn học Việt
Nam, mà còn là một cơ hội để chúng tôi nói lên những suy nghĩ của
mình về bộ phận văn học này với thầy cô, các nhà nghiên cứu.
So với nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại nói chung thì những
nghiên cứu dành cho mảng Văn học dân tộc thiểu số (VHDTTS) còn ở
mức độ khiêm tốn. Tuy nhiên, nhìn vào đại thể, có thể thấy tình hình
nghiên cứu VHDTTS đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt trong khoảng mười
năm gần đây. Từ những bài viết nhỏ, lẻ đăng trên các tạp chí, đã có
nhiều công trình nghiên cứu dày dặn, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ về VHDTTS. Từ những năm 70 - 80 của thế kỉ XX, nhà thơ
3
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
Nông Quốc Chấn đã viết “Chặng đường mới” hay “Mấy suy nghĩ về
Văn học các DTTS ở Việt Bắc”; Phong Lê viết “40 năm văn hóa nghệ
thuật các DTTS 1945 – 1985”; Gần đây, có nhiều nhà nghiên cứu
VHDTTS đã tâm huyết và cho ra đời những công trình nghiên cứu có
giá trị học thuật cao. Tiêu biểu có thể kể đến nhà nghiên cứu phê bình
Lâm Tiến với những công trình như “Văn học các DTTS Việt Nam hiện
đại” (1995), Văn học các DTTS (1997), Về một mảng văn học dân tộc
(1999); Văn học và miền núi (2002); Tiếp cận VHDTTS (2011)… Gần
đây nhất, có thể kể tới những công trình nghiên cứu khá bề thế, dày dặn,
tương đối toàn diện về VHDTTS của PGS. TS Trần Thị Việt Trung và
các cộng sự như “Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại (Khu vực phía Bắc Việt Nam)” (2010); Văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – Một số đặc điểm” (2015). Có thể
khái quát rằng, việc nghiên cứu VHDTTS Việt Nam đã được quan tâm
từ những năm 70 của thế kỉ XX. Nhà nghiên cứu VHDTTS bao gồm cả
những cây bút người Kinh và người DTTS, cả những nhà phê bình
nghiên cứu chuyên nghiệp và những nhà văn, nhà thơ. Tình hình nghiên
cứu VHDTTS tuy còn nhiều khiêm tốn nhưng đáng mừng là có nhiều
dấu hiệu khởi sắc trong những năm gần đây. Sự vào cuộc đầy tâm huyết
của các nhà nghiên cứu đã có tác động tích cực đến nhận thức, tâm thế
đọc, ý thức đọc VHDTTS của một bộ phận đông đảo các nhà nghiên
cứu, nhà giáo dục và độc giả cả nước.
Với tiểu luận này, chúng tôi không nghiên cứu một mảng cụ thể nào
của VHDTTS thời kì hiện đại, cũng không dám nhận có những ý kiến
sâu sắc về một mảng văn học còn chưa được chú ý đúng mức của văn
học Việt Nam, mà chỉ là những tổng hợp của chúng tôi về những đặc
điểm cơ bản của VHDTTS Việt Nam thời kì hiện đại, đồng thời đưa ra
4
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
những suy nghĩ riêng, ý kiến riêng của mình – với tư cách một giáo viên
dạy Phổ thông - về việc làm thế nào để VHDTTS đến gần hơn với học
sinh, với độc giả cả nước. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề rất quan trọng,
nhất là trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và yêu cầu giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc hiện nay.
5
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
6
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
B - PHẦN NỘI DUNG
I. Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – Một bộ phận
văn học đậm đà bản sắc dân tộc.
*. Bản sắc dân tộc trong văn hóa, văn học nghệ thuật.
Có thể nói một cách hình ảnh rằng, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
là kết quả của một cuộc hôn phối giữa cơ tầng văn hóa bản địa Việt Nam và
văn hóa một số nước trong và ngoài khu vực. Giới Văn hóa học nước ta đã
thống nhất xác định mô hình cơ tầng văn hóa bản địa của Việt Nam là “Nông
dân – Nông nghiệp lúa nước – Làng xã”. Cơ tầng văn hóa bản địa này đã có
một quá trình tiếp xúc và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và
văn hóa phương Tây qua các thời kì lịch sử khác nhau. Quá trình này diễn ra
theo cơ chế: Thứ nhất, không tiếp nhận toàn bộ hệ thống mà chỉ lựa chọn
những giá trị nào phù hợp; Thứ hai, có khi tiếp nhận cả hệ thống, nhìn từ hình
thức bên ngoài, nhưng thực chất đã sắp xếp lại các thang bậc giá trị khác
nhau; Thứ ba, tiếp thu và cải biến các hình thức mới về văn hóa, nghệ thuật
của thế giới để biểu đạt nội dung các giá trị văn hóa Việt Nam. Quá trình tiếp
xúc, tiếp biến đó diễn ra trong bối cảnh đầy mâu thuẫn, vừa kiên quyết đấu
tranh chống lại sự đồng hóa để bảo tồn và duy trì truyền thống, vừa phải tiếp
nhận văn hóa của chính kẻ xâm lược để chống lại sự đồng hóa của chúng. Nhờ
có “bộ lọc” là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc mà quá
trình tiếp xúc, tiếp biến văn hóa đã diễn ra một cách có chọn lọc và hiệu quả, dẫn
đến sự hình thành bản sắc dân tộc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
“Bản sắc” theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê là “màu sắc, tính
chất riêng, tạo thành đặc điểm chính”[tr31]. Xét nghĩa từ nguyên tiếng Hán
thì bản sắc là màu gốc chưa bị pha trộn, là sắc thái hồn nhiên tự nhiên chưa bị
đẽo gọt, trang điểm, tỉa tót. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam
chính là những nét riêng biệt độc đáo, bền vững, những tinh hoa của cộng
7
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
đồng dân tộc được vun đắp nên từ lâu đời, “đó là hạt nhân của tinh thần sáng
tạo giống nòi… là tính năng động thôi thúc bên trong của mọi tiềm năng sáng
tạo” (Huy Cận). Theo tác giả Trần Thị Việt Trung thì “bản sắc dân tộc là
những nét riêng biệt độc đáo của một nền văn hóa, văn học bao gồm những
giá trị bền vững, những tinh hoa văn hóa, văn mạch của dân tộc được vun
đắp nên qua lịch sử, tạo thành phong cách dân tộc”.
Bản sắc dân tộc được thể hiện ở nội dung và hình thức nghệ thuật
của văn học. Trước hết, bản sắc dân tộc thể hiện ở đề tài, chủ đề của tác phẩm
văn học, nghĩa là thể hiện ở đối tượng tác phẩm đề cập đến và tư tưởng của
nhà văn. Bản sắc dân tộc còn được thể hiện ở hình thức nghệ thuật của tác
phẩm, từ việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc để sáng tác đến sự vận dụng hệ thống
kết cấu, và các thể loại truyền thống. Như vậy, mọi sự bứt phá thành công
trong sáng tác nghệ thuật đều xuất phát từ cơ sở truyền thống. Văn hóa, văn
mạch truyền thống như một dòng thác chảy mạnh mẽ ở bề sâu tác động đến
nội dung sáng tác và phương thức biểu hiện nghệ thuật của nhà văn.
*. Bản sắc dân tộc trong văn học các dân tộc thiểu số.
Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, ngoài dân tộc Kinh
chiếm số lượng lớn, các dân tộc thiểu số khác cũng giữ một vai trò, vị trí quan
trọng. Mỗi dân tộc có một đặc điểm riêng về tâm lý, tình cảm, nếp nghĩ, cách
sống, được hình thành từ rất lâu đời. Chính vì vậy, văn học do các tác giả dân tộc
thiểu số sáng tác sẽ có bản sắc dân tộc rất riêng, vừa thống nhất với bản sắc dân
tộc trong văn học Việt Nam nói chung vừa có những nét độc đáo, đặc sắc.
Bản sắc dân tộc được thể hiện trong VHDTTS qua nhiều phương
diện. Trước hết, bản sắc dân tộc thể hiện qua chủ thể sáng tác. Nhà văn, nhà
thơ sáng tác văn học là người dân tộc thiểu số, vì vậy anh ta là một người con
của dân tộc mình, phát biểu quan niệm thẩm mĩ của dân tộc mình. Họ có thế
giới quan thấm nhuần truyền thống văn hóa của dân tộc – cộng đồng mà họ
8
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
sinh ra và lớn lên, nên mỗi sáng tác – mỗi sản phẩm tinh thần của họ đều nói
lên tâm tư, tình cảm và mang phong cách thể hiện của dân tộc.
Bản sắc dân tộc còn được thể hiện qua đối tượng phản ánh. Đó là đề tài, chủ
đề mà nhà văn, nhà thơ nhận thức, khám phá, từ sự tổ hợp những đặc điểm về
tự nhiên, xã hội, phong tục tập quán dân tộc. Đối tượng phản ánh của
VHDTTS rất rộng lớn, đó là môi trường tự nhiên xã hội – nơi mà các nhà văn
nhà thơ sinh ra, lớn lên và gắn bó. Đó còn là những sinh hoạt văn hóa của dân
tộc, bao gồm cả những nếp sinh hoạt vật chất và những sinh hoạt văn hóa tinh
thần của người DTTS. Những điều này đã ăn sâu trong tiềm thức của các tác
giả người DTTS, bởi đó là cái nôi văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn họ trưởng
thành. Đối tượng phản ánh của VHDTTS còn là đời sống tâm hồn và tính
cách của con người dân tộc. Đó là tình cảm thuần hậu, chân mộc, có cái gì đó
nguyên sơ, mãnh liệt, táo bạo, sống tình nghĩa, yêu quý con người một cách
chân thành. Tất cả những đối tượng phản ánh phong phú đó đều gắn bó với
đời sống dân tộc, thể hiện bản sắc dân tộc.
Bản sắc dân tộc còn được thể hiện ở phương thức phản ánh (cách thức,
chất liệu để nhà thơ hiện thực hóa nội dung). Các nhà thơ DTTS sử dụng
tiếng mẹ đẻ để sáng tác. Đó là biểu hiện sâu sắc nhất của bản sắc dân tộc, vì
tiếng mẹ đẻ của DTTS đã thể hiện được sâu sắc, chân thực nhất về cuộc sống
và con người dân tộc. Bản sắc dân tộc còn được thể hiện ở sự vận dụng các
hình thức thể loại thơ ca truyền thống như sli, lượn, phong slư…
Như vậy, có thể thấy rằng con đường khám phá bản sắc dân tộc trong
VHDTTS chính là việc đi tìm cái độc đáo, riêng biệt không thể trộn lẫn trong
thế giới hình tượng, trong cách thức thể hiện thế giới đó và tư tưởng nghệ
thuật của nhà thơ. Theo PGS. TS Trần Thị Việt Trung thì “Thực chất đây là
việc khám phá điệu tâm hồn của dân tộc”, khám phá những nét riêng trong
cách cảm, cách nghĩ, lối sinh hoạt, tâm tư, tình cảm… của dân tộc.
9
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
II.
Một số đặc điểm cơ bản của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kì hiện đại.
Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại chủ yếu được hình
thành và phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, đặc biệt là từ
những năm 60 trở lại đây. Tuy xuất hiện muộn nhưng Văn học các DTTS
thời kì hiện đại đã có những bước vận động, phát triển khá mau chóng từ
đội ngũ sáng tác (ngày càng đông đảo) đến thể loại (ngày càng phong
phú), tới số lượng và chất lượng tác phẩm hái (ngày càng nhiều, hay và
hấp dẫn hơn). Có thể khái quát rằng đặc điểm nổi bật của nền VHDTTS
thời kì này là một nền văn học phong phú, đa dạng, đặc sắc và đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc. Văn học DTTS thời kì hiện đại có sự phát triển đa
dạng về thể loại. Ở tiểu luận này, chúng tôi xin được trình bày một vài đặc
điểm cơ bản của hai thể loại phát triển mạnh nhất là văn xuôi và thơ.
II.1. Văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – một số đặc
điểm cơ bản.
II.1.1. Các chặng đường phát triển của văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam.
Trước năm 1945, hầu như chưa có tác phẩm văn xuôi nào của tác giả
người DTTS, mặc dù từ những năm 30 của thế kì XX đã có một số tác
phẩm văn xuôi viết về miền núi của các tác giả người Kinh như Thế Lữ,
Lan Khai… Từ sau 1945, theo định hướng đường lối văn nghệ của Đảng,
VHDTTS đã được quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Bởi vậy, một thế hệ
nhà văn trẻ người DTTD đã được hình thành và có những đóng góp quan
trọng vào sự phát triển của văn học nước nhà. Đó là các tác giả Nông Viết
Toại với “Bỏong tàng tập éo” (1952), Nông Minh Châu với “Ché Mèn
được đi họp” (1959), Y Điêng với “Em chờ bộ đội Awa Hồ” (1960)…. Sáng
tác của họ luôn bám sát công cuộc cách mạng của dân tộc, thể hiện sâu sắc
10
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
tình cảm, ý chí của người dân miền núi trong những tháng ngày gian khổ, đầy
mất mát hi sinh nhưng cũng đầy oanh liệt, oai hùng của dân tộc.
Từ sau năm 1975, trong không khí hòa bình, thống nhất đất nước, khắc
phục hậu quả chiến tranh và xây dựng cuộc sống mới, văn xuôi DTTS phát
triển một bước mới. Đội ngũ sáng tác là người DTTS đông đảo hơn, thành tựu
sáng tác cũng rực rỡ hơn. Văn xuôi DTTS phát triển mạnh về số lượng và
chất lượng, giúp chúng ta có thể nhận diện một cách rõ ràng, khẳng định nó
như một thực thể riêng, độc đáo trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu của VHDTTS giai đoạn này như: Vi Hồng với
Đất bằng (1990), Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đã rơi (1985),
Người trong ống (1990)….; La Quán Miên với Hai người trở về bản (1996),
Kha Thị Thường với tập truyện Lũ núi (2003), Hlinh Niê với tập truyện Con
rắn màu xanh da trời (1997), Irasara với Chân dung cát (2006)… Các tác
phẩm của các tác giả đó đã đạt đến độ xuất sắc khi dựng cảnh, dựng người
đậm đà bản sắc dân tộc, nói lên tiếng nói tâm hồn của người dân tộc thiểu số.
Trong thời kì đổi mới, văn xuôi DTTS đã có sự mở rộng về đề tài, chủ đề,
phạm vi hiện thực đời sống, đề cập đến cả những vấn đề trước đây còn e ngại,
né tránh. Tuy nhiên, nhìn chung, văn xuôi DTTS chưa có những tác phẩm đồ
sộ, một số vấn đề thời sự ở các vùng miền núi còn chưa được phản ánh sâu
sắc như vấn đề an ninh, quốc phòng vùng biên giới… Đó là những yêu cầu,
thách thức đối với mảng văn học này, đòi hỏi văn xuôi DTTS ngày càng phải
phát triển và hoàn thiện hơn.
II.1.2.Một số đặc điểm về nội dung
Trước hết, văn xuôi DTTS thời kì hiện đại hướng đến thể hiện hiện
thực cuộc sống và con người miền núi.
Các tác giả người DTTS sinh ra và lớn lên trong môi trường tự nhiên và xã
hội DTTS, trong nôi văn hóa DTTS. Tự nhiên như hơi thở, mỗi tác phẩm của
họ hướng đến thể hiện hiện thực cuộc sống và con người miền núi. Trước năm
11
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
1975, hòa vào dòng chung của văn học dân tộc, văn xuôi DTTS cũng đã chú ý
đến việc phản ánh cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc, tuyên truyền
cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người miền núi trong giai
đoạn mới. Sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986, biên độ sáng tác của các
tác giả DTTS đã mở rộng hơn, đề cập đến nhiều vấn đề mang tính thời sự, ca
ngợi cái mới, cái tốt đẹp, phê phán cái xấu, cái lạc hậu, cái ác, cổ vũ, động
viên cái mới, đi sâu miêu tả thân phận con người miền núi với những số phận
mới, khát vọng mới. Nếu như trong một số tác phẩm viết về dân tộc miền núi
của một số tác giả người Kinh trong những năm 30 của thế kỉ XX, hiện thực
cuộc sống miền núi hiện lên là một thế giới kì lạ, bí ẩn, thiên nhiên dữ dội, bí
hiểm nhưng đôi lúc cũng rất thơ mộng trữ tình thì trong sáng tác của các tác
giả người dân tộc thiểu số, hiện thực cuộc sống nơi đây hiện lên gần gũi hơn
với những vấn đề rất đời thường như những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của
người miền núi (mộc mạc, chân thành, thủy chung đến tận đáy…), tình yêu và
hạnh phúc, cuộc sống đầy khó khăn gian khổ của những giáo viên, kĩ sư…
bám làng, cắm bản… Có thể nói, hiện thực cuộc sống và con người miền núi
được các nhà văn DTTS đề cập đến rất phong phú và đa dạng. Đó là những
vấn đề gắn liền với cuộc sống và sự sinh tồn của con người vùng cao. Tuy
nhiên, mỗi tác giả đại diện cho dân tộc mình lại có một cách viết riêng, cách
thể hiện riêng với những trăn trở riêng, những tự hào riêng về con người, cuộc
sống của dân tộc mình. Văn xuôi DTTS đã phản ánh phần nào những vẻ đẹp
độc đáo, đa dạng hiện thực cuộc sống của mỗi cộng đồng DTTS Việt Nam.
Văn xuôi DTTS còn thể hiện đời sống tinh thần phong phú, đa màu
sắc văn hóa của các dân tộc.
Văn xuôi miền núi đi sâu vào miêu tả, khắc họa đời sống tinh thần
phong phú, đa dạng của con người miền núi. Đó là những phong tục tập quán
mang những nét đặc trưng của các DTTS. Các tác giả là người DTTS đã tỏ ra
rất thành thạo và say sưa trong việc miêu tả các mặt đời sống tinh thần của
các dân tộc, làm rạng ngời lên những nét riêng, độc đáo trong các lễ hội, trong
12
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
cách trang trí nhà cửa, hay trong các tập tục cuộc sống của đồng bào. Các tác
giả cũng chỉ ra những hạn chế, những cái xấu chưa bị tiêu diệt đến cùng, cái
tốt đang khởi sắc, cái đẹp đang dần bị mai một. Đó còn là thực trạng về sự mê
tín dị đoan trong đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của đồng bào vùng cao
bị kẻ ác lợi dụng; đó là những luật tục mang tính vô nhân đạo còn tồn tại. Bên
cạnh dó là hình ảnh những con người miền núi chân thật, trong sáng, sâu nặng
nghĩa tình luôn được hiện lên đậm nét. Các nhà văn đã tập trung miêu tả
những phong tục tập quán của các DTTS trong đời sống lao động, trong sinh
hoạt và vui chơi, trong các hoạt động tín ngưỡng với những nét tâm lý riêng
của mỗi cộng đồng dân tộc. Các phong tục tập quán được đề cập đến trong
sáng tác của các nhà văn DTTTS như tục cưới hỏi, tang ma (Chồng thật vợ
giả - Vi Hồng, Giấc mơ của làng – Hlinh Niê, Pơ thi mênh mang mùa gió –
Hlinh Niê…), tục hát then (Chồng thật vợ giả - Vi Hồng), tục khai vài xuân
(Súc hỷ - Cao Duy Sơn), ngày hội bắt cá (Mùa này hoa bằng lăng không nở Hlinh Niê), lễ hội đâm trâu, lễ gọi hồn…Tóm lại, viết về các phong tục tập
quán là những dấu ấn đặc trưng nổi bật trong sáng tác của các nhà văn DTTS.
Các tác giả đã đưa người đọc bước vào thế giới tâm linh của các tộc người
DTTS qua những hoạt động lễ hội, những tập tục trong cuộc sống tinh thần,
trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của họ.
Một đặc điểm nữa trong nội dung của các tác phẩm văn xuôi DTTS
là thể hiện thế giới tự nhiên hoang dã, trữ tình.
Trong sáng tác của các nhà văn DTTS, thiên nhiên miền núi được hiện
lên thật chân thực và cũng đầy lãng mạn với sắc màu rực rỡ và âm thanh vang
dội. Đó là âm thanh của tiếng chim kêu, gió thổi, rừng cây xào xạc, của sông,
suối, mưa nguồn, thác đổ. Bên cạnh những âm thanh kì diệu ấy là những gam
màu xanh lục và sặc sỡ của cỏ cây hoa lá, là ánh sáng lúc bình minh, khi
chiều tà, lúc trăng xế, khi sao khuya. Sự đổi thay của thiên nhiên qua bốn mùa
tạo nên những khoảnh khắc thần tiên với một tấm áo màu rực rỡ mang vẻ đẹp
khỏe khoắn, trẻ trung vốn có từ ngàn đời của núi non. Vẻ đẹp muôn hình vạn
13
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
trạng ấy đã làm say đắm lòng người, vẻ đẹp trong sáng tràn đầy sức sống làm
ấm lòng người. Có những lúc thiên nhiên miền núi hiện lên với dáng vẻ hoang
sơ, kì ảo, in đậm màu sắc bí hiểm của miền sơn cước với sức sống mãnh liệt
của núi rừng và muông thú. Cũng có khi khung ảnh thiên nhiên tươi sáng,
trong trẻo, chứa chan thi vị, đầy màu sắc lãng mạn. Trong Pơ thi mênh mang
mùa gió, Hlinh Niê viết “Trước khi trút hết tấm áo cũ xuống làm lá mục nuôi
đất, toàn bộ cây rừng chắt chiu chút sức lực cuối cùng của mình hóa thân
những chiếc lá thành màu đỏ, cố làm đẹp cho đời lần chót. Rừng rực, rừng
rực như màu tấm thổ cẩm ami dệt mỗi ngày… Một cơn gió mùa đông ào ạt
cuốn hàng ngán chiếc lá đỏ bay tít lên cao rồi lại thả chúng chậm chạp liệng
đáp xuống, phủ một tấm thảm đỏ lên nền rừng. Cây bút kì diệu của thiên
nhiên hoang dã đã dùng cảnh khô và lá đỏ vẽ nên một khung cảnh tuyệt vời”.
Trong Ngôi nhà xưa bên suối, Cao Duy Sơn lại tả “Mưa như bụi rắc xuống từ
đỉnh núi len khắp khe ngách, lối mòn, ken sươn sướt quanh những gốc lê già
trổ bông như tuyết”. Nhìn chung, thế giới thiên nhiên miền núi đã được hiện
ra muôn màu muôn vẻ. Thiên nhiên ấy không hoàn toàn hoang vu, huyền bí,
càng không phải là rừng thiêng nước độc, là thế giới của ma quỷ, hùm beo,
rắn độc, là kẻ thù đối lập với con người, mà đó còn là thế giới của thiên nhiên
tươi đẹp, thơ mộng rực rỡ, trữ tình, tràn đầy sức sống và luôn hòa hợp với
cuộc sống con người. Thiên nhiên ấy góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên
miền núi Việt Nam tươi đẹp và đa sắc.
II.1.3.Một số đặc điểm về nghệ thuật
Trước hết, về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hầu hết các nhà văn
DTTS khi xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình đều chịu ảnh hưởng
của thi pháp dân gian, với quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Hệ thống
nhân vật thường được phân định thành hai tuyến rõ rệt là Tốt – Xấu, Thiện –
Ác. Những nhân vật chính diện được miêu tả với vẻ lương thiện, nhân ái,
sống chân thực còn những nhân vật phản diện thì xấu xa, ti tiện, độc ác. Khi
miêu tả nhân vật, các tác giả thường dùng thủ pháp so sánh, tương phản theo
14
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
lối “vật hóa” (đối với nhân vật phản diện) hoặc “thần hóa”(đối với nhân vật
chính diện), nhằm mục đích hạ thấp (với thủ pháp “vật hóa”) hoặc đề cao,
ngợi ca (đối với thủ pháp “thần hóa”) đối tượng. Các nhà văn DTTS cũng
thường chú ý khắc họa nhân vật qua những chi tiết đặc biệt về ngoại hình,
hành động. Cũng có khi, các tác giả DTTS lại mượn yếu tố thiên nhiên để
khắc họa vẻ đẹp và tính cách nhân vật. Đặc biệt, trong sáng tác của Vi Hồng,
yếu tố thiên nhiên đã có một vị trí hết sức quan trọng khi diễn tả trạng thái,
tâm lý, hành động của con người mà nhiều khi không thể diễn tả bằng hành
động hay lời nói của nhân vật.
Về ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật được sử dụng chủ yếu
trong các tác phẩm văn chương có chức năng chủ yếu là xây dựng hình tượng
nghệ thuật, tác động đến cảm xúc của người đọc, biểu hiện cái đẹp, khơi gợi
và nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ cho người đọc. Các nhà văn DTTS thường
sử dụng với cường độ lớn thủ pháp so sánh, ví von, liên tưởng. Những so sánh
liên tưởng nhiều khi mang tính trực giác, gắn bó với sự vật, hiện tượng quen
thuộc và gần gũi với cách cảm, cách nói của người miền núi. Chẳng hạn, miêu
tả sức trai trẻ của chàng thanh niên đôi mươi, Cao Duy Sơn đã dùng hình ảnh
rất quen thuộc với lối cảm nghĩ của người nông dân miền núi: “Khơ khỏe như
con trâu tơ đực chưa vực cày”. Một số tác giả thường hay sử dụng thành ngữ,
tục ngữ của dân tộc mình trong sáng tác, thể hiện rõ sự ảnh hưởng của văn
hóa dân gian trong cách viết của các tác giả, tạo cho tác phẩm giàu chất thơ,
phù hợp với cách nói cách viết của người DTTS.
Với một số đặc điểm cơ bản trên về nội dung và nghệ thuật, chúng ta có
thể khẳng định rằng: Văn xuôi DTTS đã và đang trên đà phát triển và đủ sức
để hội nhập với nền văn xuôi hiện đại của nước nhà. Tuy nhiên, bản sắc văn
hóa dân tộc vẫn luôn thấm đượm và luôn là một nét đặc trưng cơ bản của bộ
phận văn học này. Cũng chính điều đó đã làm cho văn xuôi DTTS tồn tại và
phát triển một cách vững chắc trong đời sống văn học của nước nhà trong thời
kì hiện đại.
15
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
16
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
II.2. Thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam – một số đặc điểm cơ bản
II.2.1.Nhìn lại các chặng đường phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số
Việt Nam.
Thơ ca DTTS đã xuất hiện từ trước năm 1945. Cụ thể, từ thế kỉ XII đã
có sự xuất hiện của hai nhà thơ dân tộc Tày là Bế Văn Phủng và Nông
Quỳnh Vân. Tiếp đó, cuối thế kỉ XIX xuất hiện thêm hai nhà thơ dân tộc
Thái là Ngần Văn Hoan và Lò Văn Thứ. Tuy nhiên, đây chỉ là những hiện
tượng lẻ tẻ và số lượng tác phẩm của họ cũng không đáng kể, thi pháp lại
chịu ảnh hưởng sâu sắc của VHDG, được viết bằng tiếng dân tộc nên sức
lan tỏa còn nhỏ hẹp. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã xuất hiện thêm
nhiều tác giả ở nhiều dân tộc khác nhau như Hà Vũ Bằng, Nông Đình Cấp,
Bế Đức Cổn, Lê Văn Dự…,trong đó trường hợp Hoàng Đức Hậu là một
hiện tượng đáng chú ý. Vào đầu thập niên 30 – 40 của thế kỉ XX, khi
phong trào cách mạng dâng cao, thơ ca của một số tác giả người dân tộc
cũng hòa vào dòng thơ yêu nước, cách mạng như Hoàng Đình Giong,
Dương Công Hoạt, Hoàng Văn Thụ… Có thể coi những tác giả này là một
trong những người đặt nền móng cho thơ ca cách mạng và kháng chiến của
các DTTS Việt Nam.
Ở giai đoạn 1945 – 1975, hòa vào dòng chung của văn học dân tộc
với nội dung yêu nước, căm thù giặc, ca ngợi cách mạng, thơ ca của các
tác giả DTTS cũng góp một tiếng nói bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại
xâm. Một số tác giả tiêu biểu viết về đề tài này như Nông Quốc Chấn, Bàn
Tài Đoàn, Nông Viết Toại… Thơ ca DTTS giai đoạn này đã phát triển khá
phong phú về số lượng và nâng cao về chất lượng. Các tác phẩm đã phản ánh
được lòng yêu nước, yêu quê hương, tự hào dân tộc cả người miền núi, đồng
thời thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống của người miền núi.
Từ sau năm 1975 đến nay, bên cạnh những tên tuổi các nhà thơ chủ
chốt của giai đoạn trước vẫn không ngừng sáng tác như Nông Quốc Chấn,
Nông Viết Toại…, giai đoạn này đã xuất hiện một đội ngũ các tác giả
17
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
DTTS mới, trẻ trung, sôi nổi và hồn nhiên, giàu sức sáng tạo như Y
Phương, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Lò Cao Nhum, Lâm Quý, Triều Kim
Văn, Ma Trường Nguyên… Đặc biệt là sự xuất hiện của các nhà thơ nữ
DTTS như Dư Thị Hoàn, Nông Thị Ngọc Hòa, Triệu Thị Mai… Trong
không khí hòa bình, no ấm và xây dựng cuộc sống mới, các nhà thơ rất có
ý thức trong việc phản ánh vị thế, tâm hồn dân tộc mình ở thời đại mới. Họ
hướng ngòi bút của mình vào việc ca ngợi con người miền núi với những
phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống như hiền lành, thật thà, mộc
mạc, thẳng thắn nhưng cũng rất mạnh mẽ, dũng cảm. Họ là linh hồn tạo
nên hồn sông thế núi của dân tộc mình.
Có thể nói thơ ca DTTS đã phản ánh khá rõ quá trình vận động, phát
triển để có thể hội nhập vào dòng chảy chung của thơ ca dân tộc Việt,
nhưng vẫn giữ được đặc trưng bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
18
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
II.2.2.Những đặc điểm cơ bản về nội dung
Thơ ca DTTS trước hết đã xây dựng hình tượng con người DTTS
chân thực, hồn nhiên. Các nhà thơ DTTS luôn tìm kiếm và phát hiện
khẳng định thần thái, tầm vóc dân tộc mình qua hình ảnh con người để
hướng đến các giá trị Chân – Thiện – Mĩ. Mỗi nhà thơ đại diện cho dân tộc
mình luôn có ý thức xây dựng một hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp của con
người dân tộc mình. Những hình tượng con người đó dù được miêu tả từ
những hình ảnh hay ngôn từ nào cũng đều thể hiện rõ dấu ấn biểu tượng
của dân tộc, đại diện cho vẻ đẹp của cộng đồng mà những tộc người khác
không có. Pờ Sảo Mìn là nhà thơ duy nhất của dân tộc Pa Dí – một dân tộc
chỉ còn khoảng 2000 người thuộc ngữ hệ Tày – Thái. Tác giả đã xây dựng
hình tượng người con trai dân tộc Pa Dí với dáng dấp tự tin, phong thái
ngang tàng và một vẻ đẹp rất phong trần:
“ Con trai người Pa Dí
Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng
Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần gian”
Người con trai Pa Dí rất thẳng thắn, trung thực, cởi mở, dễ hòa đồng,
có thể kết bạn với tất cả:
“Con trai người Pa Dí
Không hận thù ghét bỏ với ai
Đi chín phương là chín phương bè bạn
Đến mười phương là mười miền thương nhớ”
Có thể nói, hình tượng người con trai Pa Dí với những phẩm chất tốt đẹp
là tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của những người con dân tộc Pa Dí.
Tác giả Dương Thuấn lại xây dựng hình ảnh những người mẹ miền núi
với vẻ đẹp hồn hậu, mộc mạc:
“Những bà mẹ xứ Mây mỗi sớm bình minh
19
Mét vµi suy nghÜ vÒ v¨n häc d©n téc thiÓu sè ViÖt Nam thêi k× hiÖn ®¹i
Thơm má con và dặn con rằng
Mắng quan tham đừng run sợ
Trước khi hái quả
Thì hãy chắp hai tay”
(Bà mẹ xứ Mây – Dương Thuấn)
Như vậy, thơ ca DTTS đã thể hiện khá đậm nét hình ảnh con người
miền núi với những phẩm chất tốt đẹp: hiền lành chất phác, hồn nhiên nhưng
cũng rất mạnh mẽ và dũng cảm. Họ chân thực đến tận đáy lòng, có đời sống
tâm hồn phong phú mang những nét bản sắc riêng của từng dân tộc, từng
cộng đồng.
Bên cạnh việc thể hiện hình tượng con người DTTS chân thực, hồn
nhiên, các nhà thơ DTTS còn hướng đến thể hiện hình ảnh quê hương
miền núi tươi đẹp, sinh động và độc đáo.
Quê hương miền núi luôn là nguồn cảm hứng dạt dào và sâu đậm trong
tâm hồn những thi sĩ DTTS qua bao thế hệ. Các nhà thơ đã say sưa ca ngợi vẻ
đẹp của quê hương đất nước với niềm tự hào và tình yêu vô bờ. Có khi quê
hương miền núi hiện lên qua những nét chấm phá độc đáo của hình ảnh núi
cao, vực sâu, hoa chuối đỏ tươi, thác nước trắng xóa…
“Núi cao vời vợi vực thẳm sâu
Chiều mưa ngun ngút trắng bờ lau
Hoa chuối lập lòe như đốm lửa
Ai đốt rừng lên sưởi ấm chiều”
(Một nét rừng – Mai Liễu)
Có lúc quê hương là những hình ảnh thân thuộc, gần gũi trong nếp sinh
hoạt của đồng bào miền núi:
“Tháng chín sợi nắng mềm
Rập rình nhịp chày giã cốm
20
- Xem thêm -