ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
...........................................
TRẦN THỊ KIM THANH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN
LĨNH VỰC TÀI CHÍNH TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ BÁO CHÍ
Hà Nội, 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ KIM THANH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN
LĨNH VỰC TÀI CHÍNH TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY
(Khảo sát trên Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn Đầu tư Tài chính
và Chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ báo Lao động, từ 3/2012 đến 3/2013)
LUẬN VĂN THẠC SỸ BÁO CHÍ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01
Người hướng dẫn khoa học:TS Đặng Đức Long
Hà Nội, 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu. Các số liệu trong
luận văn rõ ràng và trung thực, các kết luận của luận văn này chưa từng được công
bố trong các công trình khác.
Tác giả
Trần Thị Kim Thanh
3
LỜI CẢM ƠN
Học viên xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới TS Đặng Đức Long
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ học viên hoàn thành luận văn này.
Học viên cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới tập thể các thầy cô giáo Khoa Báo chí
và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Hà Nội; cùng các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy, truyền thụ các kiến thức
trong trong suốt thời gian khóa học cao học, để giúp học viên có được các kiến
thức, kinh nghiệm tiến hành đề tài này.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
4
-
DN: Doanh nghiệp
-
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
-
BĐS: Bất động sản
-
TBTCVN: Thời báo Tài chính Việt Nam
-
XNK: Xuất nhập khẩu
-
GTGT: Giá trị gia tăng
-
VND: Đồng Việt Nam
-
USD: Đô la Mỹ
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................
1
1 – Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài ..................................................................
1
5
2 – Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................
3 – Mục đích, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu ..................................................
4 – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..................................................
5 – Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .....................................................
6 – Đóng góp mới của luận văn ...........................................................................
7 – Kết cấu luận văn ..................................................................................... ........
Chương 1: THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN TÀI
CHÍNH TRÊN BÁO CHÍ
1.1 - Một số khái niệm, thuật ngữ .........................................................................
1.2 -Một số định hướng lớn về chính sách tài chính của Đảng và Nhà nước hiện
nay.........................................................................................................................
1.3 - Vai trò của thông tin tài chính trên báo chí hiện nay......................................
1.3.1 - Trên thế giới..............................................................................................
1.3.2 - Việt Nam....................................................................................................
Tiểu kết chương 1..................................................................................... ............
Chương 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN LĨNH VỰC TÀI CHÍNH TRÊN BÁO
CHÍ HIỆN NAY
2.1 - Giới thiệu khái quát về Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn Đầu tư tài
chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ.................................................................
2.1.1
Thời
báo
Tài
chính
Việt
Nam....................................................................2.1.2 - Giới thiệu khái quát về Sài
Gòn Đầu tư Tài chính.....................................
2.1.3 - Giới thiệu khái quát về chuyên trang Đầu tư - Tiền tệcủa báo Lao động ..
2.2- Nội dung thông tin tài chính trên Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn
Đầu tư Tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ............................................
2.2.1 – Nội dung thông tin tài chính công trên Thời báo Tài chính Việt Nam ...
2.2.2 – Nội dung thông tin tài chính công trên Sài Gòn Đầu tư Tài chính và
chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ ............................................................................
2.2.3 – Nội dung thông tin về các thị trường trên Thời báo Tài chính Việt Nam.
2.2.4 – Nội dung thông tin về các thị trường trên báo Sài Gòn Đầu tư Tài chính
và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ.......................................................................
2.3 – Hình thức thông tin tài chính trên Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn
Đầu tư Tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ............................................
2.3.1 – Về các thể loại báo chí............................................................................
2.3.2 – Vị trí tin, bài về lĩnh vực tài chính..........................................................
2.3.3 – Ngôn ngữ thể hiện và hình thức trình bày..............................................
Tiểu kết chương 2.............................................................................................
6
3
4
6
6
7
8
9
9
15
19
19
21
24
26
26
26
27
27
28
30
42
47
61
67
68
73
74
77
Chương 3: ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI CÁCH THỨC THÔNG TIN LĨNH VỰC TÀI
CHÍNH TRÊN BÁO CHÍ
3.1 – Một số kinh nghiệm rút ra qua công tác thông tin lĩnh vực tài chính trên báo
chí.....................................................................................................................
3.1.1 – Thông tin cần chính xác, dễ hiểu và khách quan.......................................
3.1.2 - Tránh thông tin một chiều, cần có sự phản hồi kịp thời ...........................
3.1.3 – Đổi mới, cơ cấu lại tổ chức và nội dung để tăng hiệu quả thông tin .......
3.2 - Kiến nghị nâng cao hiệu quả thông tin tài chính trên báo chí....................
3.2.1 – Quy hoạch lại hệ thống báo chí nói chung và báo chí thông tin lĩnh vực
tài chính nói riêng...................................................................................................
3.2.2 – Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ phóng viên, biên tập viên lĩnh vực tài
chính
theo
hướng
hiện
đại,
chuyên
nghiệp....................................................................
3.2.3 –Đổi mới kết cấu nội dung trang mục và hình thức thông tin về tài chính.
Tiểu kết chương 3...............................................................................................
KẾT LUẬN ........................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................
PHỤ LỤC ..........................................................................................................
7
79
79
79
80
84
86
86
87
90
92
94
96
99
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Qua hơn 2 thập kỷ đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
đã tiến những bước dài trong việc tham gia với các nước trong sân chơi kinh tế,
tài chính đặc biệt là lĩnh vực tài chính. Việt Nam được hưởng các quy chế ưu đãi
cho các nước gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO về thuế xuất nhập
khẩu; thuận lợi trong thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài; phát hành trái
phiếu ra nước ngoài; nhận được nhiều sự hợp tác giúp đỡ từ việc xây dựng chính
sách, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, hỗ trợ vật chất... Lĩnh vực Tài chính
công đã có bước phát triển vượt bậc như: Thuế, Hải quan, Kho bạc, Dự trữ…
đáp ứng yêu cầu của quốc gia và hội nhập quốc tế. Cùng với đó, các thị trường
tài chính được mở ra: Thị trường tiền tệ (Các công ty tài chính, ngân hàng, các
quỹ đầu tư), thị trường chứng khoán, sàn giao dịch bất động sản, sàn giao dịch
việc làm, các sàn giao dịch hàng hóa xuất nhập khẩu khác (cà phê, gạo, hạt
tiêu…), thị trường giá cả (tiệm cận với mặt bằng giá thế giới)...
Song hành cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực tài
chính nói riêng, thông tin báo chí về lĩnh vực tài chính cũng đã có sự phát triển
không ngừng. Trên thực tế những năm gần đây, số lượng báo in, tạp chí kinh tế,
tài chính, các báo mạng điện tử, các kênh truyền hình, phát thanh chuyên biệt về
kinh tế, tài chính ào ạt xuất hiện.
Về báo in, có thể kể đến Thời báo Tài chính Việt Nam, Báo Đầu tư
Chứng khoán, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời báo Ngân hàng, Sài Gòn Đầu tư
Tài chính… Bên cạnh đó, các tờ báo chính trị, xã hội, đoàn thể... cũng dành
những chuyên trang hoặc chuyên mục cho những thông tin kinh tế - tài chính.
Truyền hình cũng dành nhiều kênh chuyên biệt về thông tin tài chính như
InfoTV, VITV, FBNC... Chẳng hạn như VITV - kênh tài chính kinh tế chuyên
biệt chuyên sâu, phát sóng 24/24 trên tất cả các hệ thống cáp toàn quốc từ truyền
hình Việt Nam, truyền hình Hà Nội, hệ thống truyền hình các tỉnh và Truyền
hình kỹ thuật số. Điểm nổi bật của VITV là luôn cung cấp các tin tức tài chính
kinh tế mới nhất, đa chiều nhất về các hoạt động kinh tế trong và ngoài nước,
đặc biệt thông tin về giao dịch của các sàn chứng khóan, giá vàng, dầu ngoại tệ
được VITV cập nhật liên tục theo thời gian thực. Hay như FBNC là kênh truyền
hình kinh tế tài chính của Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt là
chương trình Bản tin Tài chính Kinh doanh trên VTV1 hàng ngày cũng luôn đưa
những thông tin cập nhật về chính sách và hơi thở của đời sống tài chính…
8
Về báo mạng và các trang thông tin điện tử, có thể kể đến VnExpress,
Vietnamnet, CafeF, Laisuat.vn… với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt về độ
“nóng” và tầm quan trọng của những tin tức tài chính đang hàng ngày, hàng giờ
tác động trực tiếp tới quốc kế dân sinh.
Cùng với sự bùng nổ của báo chí kinh tế, đội ngũ phóng viên, biên tập
viên chuyên về lĩnh vực kinh tế, tài chính cũng ngày một đông đảo hơn. Thông
tin kinh tế, tài chính trên báo chí cũng ngày một chuyên sâu hơn, không dừng ở
việc đưa thông tin đơn thuần mà đã có sự phân tích, lý giải, phản biện và dự báo
từ các nhà báo, các nhà quản lý, chuyên gia kinh tế...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã được khẳng định, việc đưa
thông tin kinh tế, tài chính trên báo chí vẫn tồn tại những vấn đề cần quan tâm.
Đó là: Thông tin thiếu tính định hướng, thiếu nhãn quan chính trị; chồng chéo,
báo nọ "copy" của báo kia; thiếu chiều sâu; thông tin thiếu minh bạch; thông tin
một chiều. Đặc biệt là chưa chú ý đến tính phản biện; còn ít những bài viết mang
tính phân tích, dự báo sâu sắc, thậm chí không hiếm việc đưa ra những dự báo
chủ quan, cảm tính nên chưa đáp ứng được nhu cầu của người đọc trước những
quyết định đầu tư... Những hạn chế nêu trên có thể dẫn tới hậu quả như công
chúng bị hoang mang vì nhiễu thông tin; nhà sản xuất, kinh doanh bị thua thiệt;
xuất khẩu bị ảnh hưởng; người dân và doanh nghiệp khó định hướng được kế
hoạch đầu tư, tổ chức sản xuất... Từ tình hình trên, đặt ra vấn đề cần phải nâng
cao chất lượng của thông tin về kinh tế, đặc biệt về lĩnh vực tài chính trên báo
chí.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, với kiến thức và kinh nghiệm thu nhận
được trong suốt thời gian học tập và làm báo tại một tờ báo chuyên về lĩnh vực
tài chính và là cơ quan ngôn luận của Bộ Tài chính, tác giả lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Nâng cao chất lượng thông tin lĩnh vực tài chính trên báo chí hiện nay”
để tìm kiếm giải pháp, cách thức hiệu quả cho công tác thông tin, tuyên truyền
về lĩnh vực tài chính, nhằm góp phần đưa thông tin về lĩnh vực tài chính lên một
tầm mới trên lộ trình chuyên nghiệp hóa báo chí nước nhà.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu ở Thư viện Quốc gia, của Thư viện Khoa Báo chí - Truyền
thông (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội), Học viện Báo chí Tuyên truyền và ở các Trung tâm nghiên cứu khác, cho
thấy:
9
Nói về vai trò của báo chí kinh tế, tài chính và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng thông tin trên báo chí, có thể tham khảo nhiều thông tin bổ ích từ các
tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam, tạp chí của Khoa Báo chí – Truyền thông
(ĐH Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội), của Học viện Báo chí
Tuyên truyền, cũng như các bài phát biểu, tham luận tại các hội thảo khoa học
của các tác giả như PGS.TS Đinh Văn Hường, TS. Trần Bá Dung, TS. Đặng
Đức Long...
Từ trước đến nay, đã có một số luận văn đề cập đến vấn đề thông tin lĩnh
vực tài chính trên báo chí, chẳng hạn như:
-“Báo chí góp phần hình thành và hoàn thiện chính sách tài chính đối
ngoại”- Luận văn Thạc sỹ truyền thông (2001) của tác giả Nguyễn Lê Anh, bảo
vệ tại Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Tuyên
truyền), Hà Nội.
-“Báo chí góp phần hình thành và hoàn thiện chính sách tài chính ở Việt
Nam” - Luận văn Thạc sỹ truyền thông(2001) của tác giả Trần Đức Khang, bảo
vệ tại Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Tuyên
truyền), Hà Nội.
-“Thông tin tuyên truyền về chứng khoán và thị trường chứng khoán” Luận văn Thạc sỹ truyền thông(2004) của tác giả Nguyễn Cao Cầm, bảo vệ tại
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền),
Hà Nội.
Bên cạnh đó còn có một số luận văn và khóa luận khác có một phần nội dung
giao thoa, tương đồng như:
- “Báo in với cuộc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên biên
giới đất liền” – Khóa luận của tác giả Đinh Thị Bích Liên.
- “Thông tin kinh tế trên truyền hình” của Ngô Bá Thành.
- “Khối tạp chí kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển” của
Trần Thị Thanh Hà...
Tuy nhiên chưa có luận văn nào đề cập cụ thể, trực diện và bao quát nghiên
cứu về thông tin tài chính trên báo chí, đặc biệt là thông tin về lĩnh vực đặc thù
của lĩnh vực tài chính. Vì vậy luận văn này là một nghiên cứu mới mẻ, thông
qua kinh nghiệm và thực tiễn hoạt động của chính tác giả trong 20 năm theo dõi
và làm việc trong lĩnh vực này. Hy vọng qua việc nghiên cứu, khảo sát thông tin
1 năm trên các ấn phẩm Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn Đầu tư tài chính
và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ (Báo Lao động), cũng như thông qua việc tiếp
10
xúc, khảo sát, lấy ý kiến của các doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà quản lý,
các nhà báo chuyên viết về lĩnh vực tài chính – kinh tế…, tác giả hy vọng luận
văn này sẽ là một công trình gợi mở, hệ thống được nhiều vấn đề bổ ích, góp
phần nâng cao chất lượng thông tin lĩnh vực tài chính nói riêng và nâng cao chất
lượng thông tin báo chí nói chung, theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp, hiệu
qủa.
3. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu về lĩnh vực thông tin tài chính thực tế qua 1 năm, từ 3/2012 3/2013 trên Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn Đầu tư tài chính và chuyên
trang Đầu tư - Tiền tệ (Báo Lao động), có sự so sánh, đánh giá, từ đó rút ra
những mặt được và chưa được, đề xuất giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng
thông tin trong lĩnh vực tài chính.
Để thực hiện những mục đích trên, luận văn xác định sẽ thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Trình bày một số vấn đề mang tính cơ sở lý luận liên quan đến nội dung
đề tài: Các khái niệm cơ bản về kinh tế, tài chính của quốc gia: Tài chính công,
chứng khoán, tiền tệ - ngân hàng, bất động sản; Quan điểm và chính sách của
Đảng, Nhà nước về tài chính.
- Khảo sát thông tin tài chính trên Thời báo Tài chính Việt Nam 01 năm
qua và bức tranh chung của thông tin về tài chính trên một số báo khác, điển
hình là 02 ấn phẩm Sài Gòn Đầu tư tài chính và Đầu tư - Tiền tệ: Số lượng tin
bài, trang báo dành cho thông tin tài chính; các lĩnh vực; hình thức trình bày…
- Đánh giá thực trạng, những thành công, hạn chế về thông tin lĩnh vực
tài chính của Thời báo Tài chính Việt Nam nói riêng và báo chí nói chung. Từ
đó đưa ra một số đề xuất về nâng cao chất lượng tác phẩm báo chí thông tin về
tài chính.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu của đề tài “Nâng cao chất lượng thông tin
lĩnh vực tài chính trên báo chí hiện nay” (Khảo sát trên tờ Thời báo Tài chính
Việt Nam, Báo Sài Gòn Đầu tư tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ Báo
Lao động, từ 3/2012 - 3/2013)là trên cơ sở hình thành nhận thức lý luận và nhu
cầu thực tiễn về báo chí với vấn đề kinh tế, tài chính ở nước ta hiện nay, nhằm
nhận diện, phân tích thực trạng thông tin, tuyên truyền về lĩnh vực này trên các
ấn phẩm báo chí, đặc biệt là Thời báo Tài chính Việt Nam, từ đó tìm kiếm các
11
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo chí nói chung và báo chí
tuyên truyền lĩnh vực tài chính nói riêng.
+ Nội dung và nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài tập trung nội dung nghiên cứu về thông tin lĩnh vực tài chính, trong
đó đề cập đến mối quan hệ giữa báo chí với các chính sách tài chính và các hoạt
động quản lý, điều hành, thực thi trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, trong phạm vi
đề tài này, tác giả xác định những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Làm rõ về mặt lý luận vai trò, sự cần thiết của thông tin tài chính trong
đời sống thông tin báo chí nói chung và đời sống xã hội.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá về cách thức tổ chức thông tin, nội dung
thông tin về kinh tế, tài chính trên Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn Đầu tư
Tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ báo Lao động.
- Làm rõ những yêu cầu của hoạt động thông tin về lĩnh vực tài chính trên
Thời báo Tài chính Việt Nam nói riêng và báo chí nói chung.
- Nêu lên một số khuyến nghị, đề xuất nhằm đổi mới cách thức thông tin,
từ đó nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền cho các hoạt động của ngành Tài
chính và các lĩnh vực liên quan đến tài chính trên Thời báo Tài chính Việt Nam
– Cơ quan ngôn luận của Bộ Tài chính nói riêng và báo chí nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Thông tin lĩnh vực tài chính trên báo chí, trong đó lấy tờ Thời báo Tài
chính Việt Nam với tư cách là ấn phẩm chủ đạo trong lĩnh vực này và có sự so
sánh, đối chiếu với một số ấn phẩm báo chí khác, đại diện là tờ Sài Gòn Đầu tư
Tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ (Báo Lao động).
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi khảo sát: 3 ấn phẩm bao gồm Thời báo Tài chính Việt Nam,
Sài Gòn Đầu tư Tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ (Báo Lao động),
trong thời gian 01 năm 3/2012 - 3/2013.
- Tập trung vào 02 lĩnh vực: Tài chính công (Chính sách tài chính; Thu,
chi ngân sách qua cơ quan Thuế, Hải quan, Kho bạc); Các thị trường (Trái phiếu
và vay nợ nước ngoài, Chứng khoán, Tiền tệ, Bất động sản, Giá cả)
12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận:
Đề tài luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống lý luận về báo chí
truyền thông Việt Nam.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là chính sách của Đảng, Nhà nước về phát
triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; hệ thống văn bản pháp luật, điều hành của Chính phủ, của Bộ Tài chính
trong việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế, tài chính; định
hướng và nội dung thông tin liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, tài chính trên
Thời báo Tài chính Việt Nam, Sài Gòn Đầu tư Tài chính và chuyên trang Đầu tư
- Tiền tệ, trong 01 năm, từ 3/2012 đến 3/2013.
+ Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: Phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử được sử dụng làm nền tảng xuyên suốt
quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp riêng:
+ Nghiên cứu, khảo cứu tài liệu.
+ Thống kê, phân tích tài liệu.
+ Điều tra: Sử dụng phiếu điều tra trong đối tượng là bạn đọc
+ So sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu với một số tờ báo khác đưa
thông tin về lĩnh vực tài chính
+ Phân tích, tổng hợp: Rút ra những kinh nghiệm, những bài học và yêu
cầu cho thông tin về lĩnh vực tài chính, từ đánh giá của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước về báo chí, về báo chí kinh tế tài chính, về Thời báo Tài chính Việt Nam;
từ đánh giá của lãnh đạo Bộ Tài chính, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương,
Hội Nhà báo Việt Nam qua phỏng vấn hoặc chỉ đạo trong giao ban báo chí; từ
phản hồi của bạn đọc trong và ngoài ngành.
+ Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn chuyên gia, các nhà quản lý trong lĩnh vực
kinh tế - tài chính.
+ Thảo luận nhóm: Thảo luận với các đồng nghiệp, với các nhà quản lý
báo chí trong hệ thống báo chí ngành Tài chính.
13
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động thông tin về lĩnh vực tài
chính của Thời báo Tài chính Việt Nam, với tư cách là một ấn phẩm chủ đạo, có
tham khảo, so sánh liên hệ thêm với một số tờ báo khác (Sài Gòn Đầu tư tài
chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ báo Lao động), qua đó góp phần hệ
thống hóa nhận thức lý luận trong việc thông tin tuyên truyền trên báo chí về
kinh tế, tài chính.
+ Về mặt lý luận:
Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vai
trò của báo chí đối với việc thông tin, tuyên truyền về kinh tế, tài chính hiện nay.
+ Về thực tiễn:
Luận văn đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động thông tin tuyên truyền về
kinh tế, tài chính, đặc biệt là thông tin tuyên truyền cho các hoạt động đặc thù
của ngành Tài chính trên tờ Thời báo Tài chính Việt Nam, chẳng hạn như lĩnh
vực thuế, hải quan, tài chính đối ngoại, quản lý giá, chứng khoán, bất động sản,
ngân hàng… Đây là những lĩnh vực mà Thời báo Tài chính Việt Nam có điều
kiện tiếp cận thông tin nhanh nhất, sâu nhất, đầy đủ và chính thống nhất, được
tuyên truyền một cách có hệ thống, đúng định hướng.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu thêm 2 ấn phẩm khác là Sài Gòn Đầu tư
Tài chính và chuyên trang Đầu tư - Tiền tệ (Báo Lao động), có so sánh, phân
tích, đánh giá, đã cho thấy những cách tiếp cận, xử lý thông tin khác nhau về
những nội dung chính sách, hoạt động quản lý, thực thi… trong lĩnh vực tài
chính. Do vậy luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan báo chí
khảo cứu trong việc hoạch định tổ chức thông tin về công tác tài chính.
Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu, khảo sát và phân tích, tác giả đã
đưa ra những khuyến nghị, những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác thông tin tuyên truyền về lĩnh vực kinh tế, tài chính trên các cơ
quan báo chí trong nước, báo chí ngành Tài chính và đặc biệt là Thời báo Tài
chính Việt Nam trong thời gian tới.
Luận văn có thể được coi là một tài liệu tham khảo cho những người viết
báo chuyên về lĩnh vực kinh tế, tài chính và những người làm quản lý các cơ
quan báo chí ngành Tài chính, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác định
hướng dư luận, góp sức vào thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền và đáp ứng
nhu cầu của công chúng. Đồng thời làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên
cứu, đào tạo cho các cơ quan báo chí, các cơ sở đào tạo báo chí nói chung.
14
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có 3
chương gồm:
CHƯƠNG 1 - Thông tin tài chính và vai trò của thông tin tài chính trên
báo chí.
CHƯƠNG 2 – Thực trạng thông tin lĩnh vực tài chính trên báo chí hiện
nay.
CHƯƠNG 3 - Đề xuất đổi mới cách thức thông tin lĩnh vực tài chính
trên báo chí.
Chương 1: THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN
TÀI CHÍNH TRÊN BÁO CHÍ
1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ
1.1.1. Tài chính
Tài chính (Theo định nghĩa trong từ điển Kinh tế) là phạm trù kinh tế,
phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Phát sinh
trong quá trình hình thành, tạo lập, phân phối các quỹ tiền tệ của các chủ thể
trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.
Hay đơn giản Tài chính là việc sử dụng các nguồn lực, vốn liếng sao cho hiệu
quả nhất.
Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ
cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác
nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch và mua bán
quyền sử dụng những khoản vốn thông qua phương thức giao dịch và những
công cụ tài chính nhất định.
Thị trường tài chính thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài
nước, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư; Thị trường tài chính góp phần thúc đẩy,
nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính; Thị trường tài chính thực hiện chính sách
tài chính, chính sách tiền tệ của nhà nước.
1.1.2. Tài chính công
15
Khái niệm tài chính mà chúng ta đề cập trên các phương tiện thông tin
đại chúng hiện nay chủ yếu là Tài chính nhà nước, Tài chính quốc gia hay còn
gọi là Tài chính công. Đây là một lĩnh vực cốt lõi, là mạch máu của nền kinh tế.
Đó là toàn bộ việc thu – chi của một quốc gia.
Trong cuốn Giáo trình Quản lý tài chính công (2009) của Học viện Tài
chính đã nêu rõ định nghĩa: Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu chi
bằng tiền do nhà nước tiến hành, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công, nhằm phục vụ việc thực
hiện các chức năng của nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của
toàn xã hội [22, Tr 138].
Thuật ngữ liên quan:
Nếu phân loại Tài chính công theo nội dung quản lý, thì có thể chia Tài
chính công thành các bộ phận: Ngân sách nhà nước; Tín dụng nhà nước; và các
Quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước
Theo Giáo trình Quản lý tài chính công (2009) của Học viện Tài chính
định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là mắt khâu quan trọng nhất giữ vai trò chủ
đạo trong Tài chính công. Thu của Ngân sách nhà nước được lấy từ mọi lĩnh
vực kinh tế – xã hội khác nhau, trong đó thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên
tính cưỡng chế là chủ yếu.” [22, Tr 245].
Tương ứng với các cấp ngân sách, quỹ Ngân sách nhà nước được chia
thành: Quỹ ngân sách của Chính phủ Trung ương; quỹ ngân sách của chính
quyền cấp tỉnh và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp huyện và
tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp xã và tương đương. Phục vụ
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền nhà nước các cấp, quỹ ngân
sách lại được chia thành nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau,
như: phần dùng cho phát triển kinh tế; phần dùng cho phát triển văn hoá, giáo
dục, y tế; phần dùng cho hoạt động của các lĩnh vực xã hội, an ninh, quốc
phòng…
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng ngân sách nhà
nước là mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước và
không mang tính hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Tín dụng nhà nước
16
Tín dụng nhà nước bao gồm cả hoạt động đi vay và cho vay của Nhà
nước. Tín dụng nhà nước thường được sử dụng để hỗ trợ Ngân sách nhà nước
trong các trường hợp cần thiết. Thông qua hình thức Tín dụng nhà nước, Nhà
nước động viên các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân và thể
nhân trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn tài chính của các cấp chính
quyền nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội,
chủ yếu là thông qua việc cấp vốn thực hiện các chương trình cho vay dài hạn.
Việc thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi qua con đường Tín dụng nhà
nước được thực hiện bằng cách phát hành Trái phiếu Chính phủ như: Tín phiếu
Kho bạc nhà nước; trái phiếu Kho bạc nhà nước; trái phiếu công trình (ở Việt
Nam hiện có hình thức trái phiếu đô thị); Công trái quốc gia (ở Việt Nam là
công trái xây dựng Tổ quốc) trên thị trường tài chính.
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ qua
hình thức tín dụng nhà nước là mang tính tự nguyện và có hoàn trả.
Các Quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách nhà nước (gọi tắt là các
Quỹ ngoài ngân sách)
Các Quỹ ngoài ngân sách là các quỹ tiền tệ tập trung do Nhà nước thành
lập, quản lý và sử dụng nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc xử lý những
biến động bất thường trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội và để hỗ trợ
thêm cho Ngân sách nhà nước trong trường hợp khó khăn về nguồn tài chính.
1.1.3. Chứng khoán
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán
được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.
Chứng khoán là một phương tiện có thể thỏa thuận và có thể thay thế
được, đại diện cho một giá trị tài chính. Chứng khoán gồm các loại: chứng
khoán cổ phần (ví dụ cổ phiếu phổ thông của một công ty), chứng khoán nợ
(như trái phiếu nhà nước...) và các chứng khoán phái sinh (như các quyền chọn,
quy đổi hoặc tương lai...).
Thị trường chứng khoán: Là nơi mua bán các giấy tờ có giá (cổ phiếu,
trái phiếu và các loại chứng khoán) cũng như huy động nguồn vốn mới.
Chỉ số chứng khoán:
17
+ Để đo lường sự biến động của giá cả chứng khoán của toàn bộ thị
trường, người ta dùng chỉ số chứng khoán.
Ví dụ: Chỉ số Nickei (Nhật Bản), Dow Jones (NewYork – Mỹ)... Mỗi thị
trường có cách tính chỉ số riêng của mình. Chỉ số chứng khoán có thể hiểu là
mức giá trung bình của một số loại cổ phiếu của các công ty hàng đầu trên thị
trường.
+ Huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Chức năng thứ 2 của thị trường chứng khoán là huy động vốn. Ví dụ, khi
một công ty cần phải huy động thêm một lượng vốn thì sẽ tổ chức và phát hành
cổ phiếu. Đây là cách huy động vốn nhanh nhất, hiệu quả nhất ngoài hình thức
như vay ngân hàng, huy động từ các phương thức khác.
Một số thuật ngữ liên quan:
Cổ phiếu:
+ Số vốn của một công ty được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi
là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy
chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu.
+ Chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu
chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một
công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Mỗi cổ
đông có thể sở hữu một hoặc nhiều cổ phiếu.
Trái phiếu:
- Trái phiếu là một chứng thư chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát
hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh
giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định.
Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được
gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước
(trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính phủ (trong trường hợp
này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ).
1.1.4.Bất động sản
Bất động sản (BĐS) được hiểu nôm na là nguồn tài sản lớn “bất động”,
không thể di chuyển được… Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định: “Bất động sản là
các tài sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể
cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; Các tài sản khắc gắn
liền với đất đai; Các tài sản khác do pháp luật quy định” (Điều 174).
Phân loại bất động sản:
18
BĐS được phân chia thành nhiều loại, với đặc điểm và yêu cầu sử dụng
rất khác nhau. Trong quá trình quản lý cần phân loại BĐS theo đặc điểm hình
thành và khả năng tham gia thị trường của từng loại để bảo đảm cho việc xây
dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường BĐS phù hợp với tình hình thực
tế. Từ kinh nghiệm của nhiều nước và kết quả nghiên cứu ở nước ta, BĐS có thể
phân thành ba nhóm: BĐS có đầu tư xây dựng, BĐS không đầu tư xây dựng và
BĐS đặc biệt.
Nhóm 1: BĐS có đầu tư xây dựng gồm: BĐS nhà ở, BĐS nhà xưởng và
công trình thương mại - dịch vụ, BĐS hạ tầng (hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội),
BĐS là trụ sở làm việc...
Nhóm 2: BĐS không đầu tư xây dựng: BĐS thuộc nhóm này chủ yếu là
đất nông nghiệp (dưới dạng tư liệu sản xuất) bao gồm các loại đất nông nghiệp,
đất rừng, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất hiếm, đất chưa sử dụng...
Nhóm 3: BĐS đặc biệt là những BĐS như các công trình bảo tồn quốc
gia, di sản văn hoá vật thể, nhà thờ họ, đình chùa, miếu mạo, nghĩa trang… Đặc
điểm của nhóm này là khả năng tham gia thị trường rất thấp.
1.1.5. Thị trường tiền tệ
Có 2 cách hiểu về thị trường tiền tệ: Thứ nhất, là thị trường vốn ngắn hạn
(dưới 1 năm). Thứ hai, là nơi trao đổi, mua bán các đồng tiền giữa các ngân
hàng, các tổ chức tài chính với nhau (bởi bản thân đồng tiền cũng là một loại
hàng hóa đặc biệt).
Phân loại thị trường tiền tệ:
Căn cứ theo cơ cấu thị trường: Thị trường tiền tệ sơ cấp và thứ cấp
Căn cứ theo tiền tệ: Thị trường nội tệ và Thị trường ngoại hối.
Căn cứ theo loại công cụ thị trường:
Thị trường tiền gửi và tín dụng ngắn hạn; các giấy tờ có giá ngắn hạn
Căn cứ phạm vi thị trường: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng và Thị
trường mở.
Đặc điểm thị trường tiền tệ:
Đây là thị trường quan trọng để tài trợ các nhu cầu về vốn lưu động của
các doanh nghiệp và Chính phủ. Với sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng
Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ được đánh giá là thị
trường có độ an toàn cao và là thị trường bán buôn hữu hiệu.
19
Thị trường tiền tệ là thị trường hết sức nhạy cảm với những sự kiện biến
động về kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy nó được coi như là thước đo của nền
kinh tế.
Vai trò của thị trường tiền tệ:
Điều hòa vốn ngắn hạn và thanh khoản cho nền kinh tế, góp phần thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn với chi phí thấp cho Chính phủ, công ty
và các tổ chức trung gian.
Tạo cơ hội đầu tư vốn nhàn rỗi, tăng thu nhập và thanh khoản cho các nhà
đầu tư.
1.1.6. Thông tin
Thông tin:
Thông tin là sự phản ánh sự vật, sự việc, hiện tượng của thế giới khách
quan và các hoạt động của con người trong đời sống xã hội, nhằm tạo ra sự hiểu
biết, tạo ra các tri thức và những nhận thức tốt hơn về tự nhiên và xã hội.
Thông tin tài chính:
Thông tin tài chính ở luận văn được dùng với nghĩa là thông tin được thể
hiện bằng các hình thức tin, bài trên báo chí, phản ánh về các lĩnh vực tài chính
chủ yếu của quốc gia như: Tài chính công; Chứng khoán; Tiền tệ; Bất động
sản...
1.1.7. Báo chí
Báo chí:
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” của nhóm tác giả
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội xuất bản năm 2004 đã khẳng định báo chí là một hình thái ý thức xã hội; là
công cụ, vũ khí quan trọng trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. “Báo chí luôn lấy
hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh. Thông tin báo chí là một quá
trình liên tục, xuyên suốt trong mối quan hệ chặt chẽ giữa Cuộc sống – Nhà báo
– Tác phẩm – Công chúng... Hiện thực tái hiện trên báo chí phải là một hiện
thực sôi động, tiêu biểu và luôn luôn đổi mới”.[20, Tr 23].
Vai trò của báo chí:
Báo chí có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Xã hội càng
phát triển, vai trò của báo chí càng được nâng cao.
Báo chí “Là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận; Là kênh
chủ yếu cung cấp kiến thức, thông tin về tình hình thời sự trong nước và quốc tế
20
- Xem thêm -